Monday, 4 February 2013

VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 2 : NHỮNG YẾU TỐ BÊN NGOÀI (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm)




GS Lê Xuân Khoa

Posted by basamnews on 05/02/2013

Trong trường hợp Việt Nam, câu hỏi căn bản là: Liệu Hoa Kỳ có nên đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh và giúp cho Việt Minh thỏa hiệp được với Pháp hay không? (chẳng hạn thực thi hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba 1946).
Nếu câu trả lời là ‘có’ thì chuyện gì sẽ xảy ra cho chính phủ liên hiệp bất đắc dĩ lúc bấy giờ, nhất là khi các đảng phái quốc gia đã bị chính phủ Trùng Khánh bỏ rơi? Hồ Chí Minh, cũng như tất cả những người làm cách mạng chống Pháp, là một người yêu nước nhưng ông cũng chỉ tin tưởng ở chủ nghĩa cộng sản. Như vậy làm sao có hòa bình và ổn định giữa người Việt Nam với nhau, và giữa Việt Minh với Hoa Kỳ ? Giả thử Hồ Chí Minh thật tình ưa thích Hoa Kỳ vì lý tưởng tự do dân chủ và chủ trương của nước này giúp cho các nước nhỏ yếu được độc lập như ông đã bày tỏ nhiều lần58, liệu ông có thể tự do đi với Mÿ, từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, bất chấp Liên Xô và Trung Quốc? - Lê Xuân Khoa

*
*
Chương trước đã nói đến hành động bội ước của các tướng lãnh Quốc Dân Đảng Trung Hoa đối với các đảng phái không cộng sản do họ bảo trợ và có nhiệm vụ giúp thành lập một chính quyền quốc gia ở Việt Nam. Ở đây chỉ cần nói thêm về nguyên nhân của sự bội ước đó. Khi được Đồng Minh Mỹ, Anh, và Nga tại hội nghị Potsdam (tháng Bảy 1945) giao cho trách nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Đông Đương phía Bắc vĩ tuyến thứ 16, chính phủ Trùng Khánh đã quyết định nhân cơ hội này ngăn chặn Pháp tái chiếm thuộc địa cũ và giúp cho các nước Đông Dương trở thành những quốc gia độc lập thân Trung Hoa chống cộng sản. Ngay từ hội nghị Cairo tháng Mười Một 1943, khi được Tổng Thống Roosevelt ngỏ ý muốn giao Đông Dương cho Trung Hoa Dân Quốc, Tưởng Giới Thạch đã từ chối và cho biết ông chỉ muốn cùng với Hoa Kỳ giúp cho những quốc gia trong khu vực này được độc lập. Lúc đó, mối quan tâm lớn nhất của họ Tưởng ngoài cuộc chiến tranh chống Nhật là nguy cơ cộng sản Mao Trạch Đông. Bởi thế, ông muốn lấy cảm tình của các nước Đông Dương để được yên tâm về biên giới phía Nam. Ông cũng chỉ trích chính sách tham tàn của thực dân Pháp ở các xứ thuộc địa và tán thành ý kiến của Roosevelt về việc đặt Đông Dương dưới quyền ủy trị (trusteeship) của Liên Hiệp Quốc trong một thời gian. Khi Lư Hán tới Hà Nội đầu tháng Chín 1945, việc đầu tiên là yêu cầu Sainteny dọn ra khỏi dinh Toàn Quyền cũ của Pháp. Tham mưu trưởng Hà Ứng Khâm tới Hà Nội một tháng sau đó cũng mang theo chỉ thị của chính phủ trung ương thúc giục Lư Hán và Tiêu Văn xúc tiến củng cố phe quốc gia và ngăn chặn sự bành trướng của Việt Minh. Tuy nhiên, khi được Pháp điều đình với ý định trả lại cho Trung Hoa các nhượng đia và sẵn sàng dành cho một số đặc quyền kinh tế ở Việt Nam thì chính phủ Trùng Khánh lập tức đồng ý để cho Pháp trở lại Đông Dương. Ngoài ra, Tưởng Giới Thạch lúc này cũng nghĩ rằng sự hiện diện của Pháp ở vùng này, với sự giúp đỡ của Anh và Mỹ, có thể giúp cho Trung Hoa ngăn chặn được sự đe dọa của cộng sản.

Trong khi chính phủ Tưởng Giới Thạch bỏ rơi Việt Nam vì quyền lợi quốc gia của Trung Hoa thì hai tướng Lư Hán và Tiêu Văn đã hoàn toàn vì tư lợi mà phản bội những đồng chí người Việt Nam đã từng cộng tác lâu năm với họ. Các tác giả ngoại quốc viết về giai đoạn này thường chê trách các đảng phái quốc gia đã không đoàn kết được với nhau cho nên đã làm mất đi sự tin tưởng và ủng hộ của chính phủ Trùng Khánh. Điều đó đúng nhưng chỉ có một phần, vì quyền lợi và chính trị cá nhân của giới tướng lãnh Trung Hoa mới là nguyên nhân chính. Cả hai truờng hợp Lư Hán và Tiêu Văn đều đặc biệt. Lư Hán là cháu của tướng Long Vân, Tổng đốc Vân Nam và đối thủ của Tưởng Giới Thạch. Mặc dầu không hiểu biết thông thạo về các nhân vật và tình hình chính trị Việt Nam bằng tướng Tiêu Văn, Lư Hán đã được họ Tưởng cử làm Tư lệnh thay mặt Đồng Minh đem quân sang Việt Nam giải giới quân đội Nhật. Việc phong chức đặc biệt này nằm trong kế hoạch “điệu hổ ly sơn” của họ Tưởng để dễ dàng đối phó với Long Vân. Kế hoạch này quả nhiên thành công khi một tháng sau đó Long Vân được đưa về Trùng Khánh làm Viện trưởng Viện cố vấn Quân Sự còn Lư Hán được bổ nhiệm làm Tổng đốc Vân Nam. Ở Việt Nam khi hay tin này, Lư Hán lập tức nghĩ đến chuyện vơ vét cho thật nhanh và thật nhiều để lo cho tuơng lai bản thân khi trở về Vân Nam. Tiêu Văn là phụ tá của tướng Trương Phát Khuê. Tổng đốc Quảng Tây kiêm Tư lệnh Đệ tứ Chiến khu. Họ Trương cũng là một địch thủ đáng ngại của Tưởng Giới Thạch. Tiêu Văn chính là người nhận lệnh của họ Trương đến gặp Hồ Chí Minh ở nhà giam Liễu Châu hồi cuối năm 1943, có ấn tượng tốt về ông Hồ và đề nghị với Trương Phát Khuê thả ông Hồ. Tháng Tám 1944, Tiêu Văn hạ lệnh bắt giam Nghiêm Kế Tổ, một lãnh tụ VNQDĐ, chỉ vì họ Nghiêm đã được sự giúp đỡ trực tiếp của chính phủ Trùng Khánh để thiết lập ba trạm truyền tin trong nội địa Việt Nam mà không qua hệ thống VNCMĐMH do ông kiểm soát. Mặc dù được Trung ương Quốc Dân Đảng can thiệp mạnh, Nghiêm Kế Tổ vẫn bị giam tới tháng Mười Hai mới được thả và bị đuổi lên Trùng Khánh. Do kinh nghiệm giao thiệp với cả hai phe quốc gia và cộng sản Việt Nam lưu vong, Tiêu Văn được cử làm cố vấn chính trị cho Lư Hán, đem quân từ Quảng Tây sang Việt Nam cùng làm nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật.

Ở Hà Nội, Tiêu Văn và Lư Hán đua nhau bóc lột chính quyền và nhân dân Việt Nam, nhất là vụ đổi tiền “quan kim” và “quốc tế”, hai loại giấy bạc đã mất giá trị ở Trung Hoa, theo một hối suất ép buộc để có nhiều tiền mua hàng hoá và quí kim của dân chúng, trong khi tiếp tục bán cho Việt Minh số khí giới đáng lẽ dùng để cung cấp cho các lực lượng quốc gia.

Những Sai Lầm của Pháp
Sau khi tư lệnh hải quân Rigault de Genouilly hạ lệnh bắn phá cửa biển Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam năm 1858, triều đình Huế đã phải ký tổng cộng ba thỏa ước, hai lần đầu mỗi lần nhường một phần đất miền Nam cho Pháp nhưng đến lần thứ ba, với thỏa ước Patenôtre 1884, thì toàn thể Việt Nam phải chịu sự đô hộ của Pháp dưới ba chế độ khác nhau: miền Nam nhường đứt cho Pháp dưới chế độ thuộc địa, miền Trung và miền Bắc đặt dưới chế độ bảo hộ (trừ Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng phải nhường cho Pháp) nhưng triều đình Huế được chia quyền cai trị về hành chánh ở miền Trung. Tính từ 9 tháng Năm 1862 là ngày bán thỏa ước đầu tiên được ký kết cho đến 9 tháng Ba 1945 là ngày Pháp bị Nhật đuổi ra khỏi Đông Dương, tổng cộng thời gian Việt Nam bị Pháp đô hộ là 83 năm. Trong thời gian này, thực dân Pháp đã triệt để khai thác tài nguyên và sức lao động của dân chúng, thi hành chính sách ngu dân, bác bỏ những yêu cầu được đối xử công bằng, và thẳng tay đàn áp những hành động chống đối hay nổi loạn. Mặc dầu vậy, Pháp vẫn phải liên tiếp đối phó với những phong trào chính trị hay lực lượng vũ trang được khởi xướng hay lãnh đạo bởi các sĩ phu nho học hay những trí thức thấm nhuần tư tưởng tự do dân chủ Tây phương. Vì mục tiêu giới hạn của cuốn sách, chương này sẽ không nói đến những biện pháp bóc lột và đàn áp của thực dân Pháp trong giai đoạn đô hộ Việt Nam mà sẽ chỉ nói đến những sai lầm của Pháp trong thời kỳ 1945-1954 đối với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Việt Minh cũng như với chính quyền Quốc gia Việt Nam thời Bảo Đại.

Thế Chiến II chấm dứt không những, đánh dấu sự thất bại của Đức Quốc Xã và Quân phiệt Nhật trong tham vọng chinh phục toàn cầu, nó còn báo hiệu sự suy tàn của những đế quốc thuộc địa ở châu Á và châu Phi. Một loại chiến tranh mới —Chiến Tranh Lạnh— giữa hai phe tư bản và cộng sản xuất hiện khi Hoa Kỳ và Nga Sô bắt đầu củng cố và tăng cường lực lượng bằng cuộc thi đua võ trang và một loạt chiến tranh ủy nhiệm tại những khu vực khác nhau trên thế giới. Để ngăn chặn sự bành trướng ảnh hưởng của cộng sản, Hoa Kỳ thấy cần phải giải trừ chế độ thuộc địa và hỗ trợ cho các phong trào đòi tự do, dân chủ và nhân quyền ở các nước nghèo và bị áp bức. Hoa Kỳ tự ý trao lại chủ quyền cho Phi-líp-pin năm 1946. Anh quốc nhìn nhận nền độc lập của Ấn-độ năm 1947, và Hoà Lan cũng phải trả lại độc lập cho In-đô-nê-sia năm 1949. Chỉ còn Pháp là đế quốc duy nhất vẫn tiếp tục mưu toan duy trì quyền lực ở Đông Dương, làm hại chính nghĩa quốc gia ở Việt Nam và phải chuốc lấy thảm bại Điện Biên Phủ năm 1954.

Quan niệm của Pháp về Đông Dương — được xác định trong bản Tuyên cáo ngày 25 tháng Ba 1945 của Chính phủ Lâm thời do tướng Charles de Gaulle lãnh đạo — là “Một Liên Bang gồm tất cả năm lãnh thổ Đông Dương, cùng với nước Pháp và các thuộc địa khác hợp lại thành khối Liên Hiệp Pháp.”1 Liên Bang Đông Dương sẽ có một chính phủ do một Toàn Quyền (Gouvemeur Général) người Pháp làm Chủ tịch, và các Bộ trưởng sẽ do Toàn Quyền lựa chọn gồm những người bản xứ và Pháp kiều. Quốc Hội Liên Bang cũng gồm cả đại biểu Pháp và bản xứ với quyền lực rất giới hạn. Quốc phòng và Ngoại giao là trách nhiệm của người Pháp. Điều quái gở là theo chế độ chính trị này, Việt Nam còn bị thiệt hại hơn cả những điều khoản qui định trong Thỏa ước Patenôtre 1884, vì quốc gia Việt Nam đã bị chia làm ba xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) cùng với Cam-bốt và Lào hợp thành Liên Bang Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp. Thời đó, người Pháp vẫn coi Đông Dương là thuộc quyền sở hữu của họ — do đó có tên “xứ Đông Dương thuộc Pháp” (Indochine Fran[àise), gọi tắt là Đông Pháp — và người bản xứ là những dân mọi rợ được Pháp tới cai trị với sứ mệnh khai hoá văn minh (mission civilisatrice), vì thế dân bản xứ cần phải biết ơn “mẫu quốc.” Ngay cả Sainteny cũng phải bực mình khi nhận thấy hầu hết các viên chức người Pháp hồi đó vẫn tin tưởng rằng “dân chúng Đông Dương đang nóng lòng chờ đợi chúng ta trở lại và chuẩn bị giang tay chào đón chúng ta.”2

Tướng de Gaulle luôn luôn bị ám ảnh bởi sự cần thiết phải phục hồi danh dự cho nước Pháp sau khi đã phải đầu hàng Đức (tháng Sáu 1940), chịu cho Nhật kiểm soát về quân sự ở Đông Dương (tháng Chín 1940), rồi bị Nhật lật đổ ở Đông Dương (tháng Ba 1945). Vì vậy ngoài công cuộc kháng chiến chống Hitler, de Gaulle còn muốn xác định vai trò của Pháp như một cường quốc trên thế giới bằng cách thâu hồi các thuộc địa cũ ở châu Á và châu Phi. Ngay từ khi mới chạy sang Anh quốc để lãnh đạo kháng chiến, de Gaulle đã trông cậy một phần vào nguồn tài sản của Pháp quốc hải ngoại làm hậu thuẫn cho sứ mệnh giải phóng quê hương. Trong lời hiệu triệu dân chúng từ London ngày 18 tháng Sáu, ông lên tiếng:
Đồng bào hãy tin ở lời tôi vì tôi biết rõ điều tôi đang nói. Tôi nói rằng nước Pháp không mất gì hết. Vì nước Pháp không cô đơn. Nước Pháp không cô đơn. Nước Pháp không cô đơn... Nước Pháp còn có một đế quốc rộng lớn ở sau lưng.3

Ngay sau khi Nhật tấn công Pearl Harbour (Trân Châu Cảng) ngày 7 tháng Mười Hai 1941, Pháp cũng ra tuyên cáo khai chiến với Nhật cùng với Hoa Kỳ và Anh quốc, dù không được mời. Đối với de Gaulle, việc tham gia vào mặt trận Thái Bình Dương là một cơ hội để tái xác định vị trí cường quốc của Pháp. Tháng Bảy 1943, de Gaulle chủ trương rằng “chiến dịch có ưu tiên cao nhất sau khi giải phóng chính quốc là giải phóng Đông Dương.”4 Đến tháng Giêng 1944, trong bài diễn văn khai mạc hội nghị Brazzaville, ông lại nhắc đến “khả năng thiên phú bất diệt của nước Pháp với những sáng kiến đưa con người dần dần lên đến tột đỉnh của nhân phẩm và tình huynh đệ”. Vì cái sứ mệnh khai hóa văn minh ấy, de Gaulle quả quyết rằng trong tình trạng tạm thời bị đẩy lui, “nước Pháp đã tìm được sự giúp đỡ ở các lãnh thổ hải ngoại, nơi mà tất cả các khối dân chúng ở khắp nơi trên thế giới không một phút nào thay đổi lòng dạ trung thành với nước Pháp...”5 Biết rằng Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt không muốn cho Pháp trở lại Đông Dương, de Gaulle đã vận động với Anh và được thủ tướng Churchill đồng ý giúp đỡ. Từ tháng Bảy 1944, Lực lượng Đặc nhiệm 136 của Anh ở Viễn Đông bắt đầu thả dù người và dụng cụ tiếp tế cho tình báo Pháp ở Đông Dương. Sau cuộc đảo chính 9 tháng Ba 1945 của Nhật, tàn quân Pháp chạy sang Quảng Tây và Vân Nam vẫn còn được Lực lượng 136 tiếp tế nhưng chỉ giới hạn hoạt động ở vùng Thượng Lào vì ở Việt Nam đã có Việt Minh thay thế với sự giúp đỡ của tình báo Mỹ OSS.6

Cho đến ngày de Gaulle từ chức vào tháng Giêng 1946, ông vẫn không thay đổi đầu óc thực dân lỗi thời đối với Việt Nam. Ông không chấp nhận điều đình với Việt Minh cho đến khi nào Pháp đã phục hồi được uy quyền ở Việt Nam. Trong chuyên đi vận động Washington vào tháng Tám 1945, mặc dù chỉ được Tổng Thống Truman hứa sẽ không cản trở việc Pháp trở lại Đông Dương, ông đã tuyên bố trong một cuộc họp báo: “Lập trường của Pháp về Đông Dương rất đơn giản: Pháp muốn khôi phục chủ quyền của mình ở Đông Dương.” Ông cũng làm cho nhân dân Việt Nam vừa tức giận vừa buồn cười khi ông lên đài phát thanh ở Washington ngày 15 tháng Tám để chuyển một thông điệp về Đông Dương:
“Địch quân (Nhật) đã đầu hàng. Mai đây Đông Dương sẽ tự do. Trong giờ phút quyết định này, mẫu quốc gửi về cho đàn con Đông Dương lời bày tỏ niềm vui, tình trìu mến và lòng biết ơn của mình.
Vì thái độ đối với quân xâm lược, vì lòng trung thành đối với nước Pháp, những người con Đông Dương đã tỏ ra xứng đáng được hưởng một đời sông rộng rãi hơn và tự do hơn...”7

Cũng trong ngày hôm đó, ông gửi một bản chỉ thị cho Đô đốc d’Argenlieu, xác nhận “Cao Ủy Pháp có quyền hành của chức vụ Toàn quyền ở Đông Dương kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng hải, lục, không quân có căn cứ tại Đông Dương hay được chỉ định tới xứ này. Nhiệm vụ đầu tiên của Cao úy là phục hồi chủ quyền (của Pháp) trên các lãnh thổ của Liên hiệp Đông Dương.”8

Trong lá thư viết cho tướng Leclerc ngày 25 tháng Chín 1945, de Gaulle quở trách: “Nhiệm vụ của ông là tái lập chủ quyền của nước Pháp ở Hà Nội và tôi lấy làm ngạc nhiên thấy ông vẫn chưa làm được việc đó.”9 Đến tháng Mười, khi toà Đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh yêu cầu được cung cấp một bản tuyên cáo mới về ý định của Pháp đối với Đồng Dương, de Gaulle bực tức trả lời: “Không thể có chuyện chính phủ Pháp phải ra một tuyên cáo mới về Đông Dương vào lúc này. Bản tuyên cáo tháng Ba tự nó đã đầy đủ rồi. Nhắc lại chỉ làm cho tình thế phức tạp hơn.”10

Ở đây cũng nên nhắc đến quan niệm của Toàn Quyền Decoux, tiến bộ hơn so với quan niệm của de Gaulle, về chính sách đối với Đông Dương. Decoux viết: “Trong suốt sự nghiệp của tôi, tôi đã được chứng kiến tận mắt những sai lầm trong chính sách ở những thuộc địa cũ của chúng ta... Những lời tuyên bố thiếu thận trọng và không hợp thời tại hội nghị Brazzaville là nguyên do của phản ứng thoát ly không thể kiềm chế được.” Decoux cũng cho rằng đã đến lúc cần phải “từ bỏ nguyên tắc lỗi thời của ‘thỏa ước thuộc địa” và tiên đoán khá sáng suốt rằng “Tình trạng một bên là cuộc tiến hoá về tư tưởng trên thế giới, một bên là những lỗi lầm ngày càng chồng chất, hiển nhiên sẽ quyết định một xứ Đông Dương mới, khác xa quá khứ, trong đó chỗ đứng của chúng ta sẽ kém phần ưu thắng và ngoạn mục.” Ông hình dung ra một “Hiệp hội các quốc gia Đông Dương” nhưng không nói rõ hơn về chi tiết.11

Sau de Gaulle phải nói đến Cao ủy Thierry d’Argenlieu, người thay thế cho Decoux ở Đông Dương. Mặc dù trực tiếp đụng chạm với thực tế ở Việt Nam và am hiểu tình hình xứ này hơn de Gaulle, d’Argenlieu vẫn tin tưởng có thể bắt ép Việt Nam bằng sức mạnh quân sự. Ông đã nhắc nhở Sainteny tuyệt đối không dùng từ ngữ “độc lập” khi điều đình với Hồ Chí Minh, và ngay cả sau khi Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba chỉ cho Việt Nam qui chế của một “nước tự do,” d’Argenlieu vẫn không muốn thi hành hiệp định này. Chỉ hai ngày sau khi bản hiệp định được ký, ông đã bực tức nói với tướng Valluy, “Tôi thật lấy làm lạ rằng nước Pháp có một đạo quân viễn chinh hùng hậu như vậy ở Đông Dương mà các nhà lãnh đạo lại thích đàm phán hơn là chiến đấu.”12 Ngày 24 tháng Ba, thay vì đến Hà Nội thăm vị nguyên thủ của quốc gia chủ nhân, d’Argenlieu chỉ thị cho Sainteny mời Hồ Chí Minh tới gặp ông trên chiến hạm Emile Bertin ở ngoài khơi Vịnh Hạ Long. Cùng đi với ông Hồ là Phụ tá Hoàng Minh Giám và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam. Trước khi họp, d’Argenlieu mời Hồ Chí Minh cùng duyệt khán một cuộc diễn hành của hạm đội Pháp, rõ ràng với dụng ý phô trương lực lượng hòng áp đảo tinh thần đối thủ của mình.13 Hai bên đồng ý sắp xếp phiến họp chuẩn bị ở Đà Lạt vào tháng Tư và hội nghị chính thức ở Fontainebleau vào cuối tháng Năm. Hội nghị Đà Lạt bế tắc vì hai bên không đồng ý về vai trò “quốc gia tự do” trong khôi Liên Hiệp Pháp cũng như về thủ tục trả lại Nam Kỳ cho Việt Nam.

Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp ngày 30 tháng Năm 1946 để theo dõi diễn tiến của hội nghị Fontainebleau và hoạt động của phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng cầm đầu. Chỉ mấy ngày sau, khi còn dừng chân ở Ai cập, thì có tin d’Argenlieu đã cho ra đời nước Cộng Hòa Nam Kỳ Tự Trị (République Autonome de Cochinchine) để đặt phái đoàn Việt Nam trước “một sự đã rồi”.14 Vì Pháp đang bận bầu cử quốc hội và thay đổi chính phủ nên mãi đến ngày 6 tháng Bảy hội nghị Fontainebleau mới bắt đầu họp. Tại đây, tình trạng bế tắc còn trầm trọng hơn ở hội nghị Đà Lạt ba tháng trước đó. Ngày 1 tháng Tám, khi được tin d’Argenlieu triệu tập một hội nghị khác ở Đà Lạt để thành lập Liên Bang Đông Dương trong đó có Cộng Hòa Nam Kỳ và Cao Nguyên miền Trung, phái đoàn Việt Nam bỏ họp để phản đối. Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngọai Marius Moutet phải cố gắng dàn xếp. Cuối tháng Tám hội nghị mới họp tiếp nhưng vẫn không giải quyết được gì và đến 13 tháng Chín phái đoàn Phạm Văn Đồng phải tay không trở về nước. Hồ Chí Minh ở lại họp riêng với Marius Moutet, thuyết phục người bạn cũ trong đảng Xã Hội: “Anh không nên để tôi ra đi như thế này. Hãy tiếp tay cho tôi để chống lại những kẻ đang tìm cách lấn át tôi. Anh sẽ không hối tiếc đâu.”15 Trước thái độ kiên quyết của Moutet, nửa đêm ngày 14 tháng Chín, ông Hồ trở lại nhà riêng của Moutet để ký một bản tạm ước (modus vivendi) mà nội dung còn thua thiệt cho Việt Nam hơn cả hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba, vì Pháp vẫn duy trì mọi quyền lợi căn bản trong khi qui chế “quốc gia tự do” còn bỏ lửng và cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề Nam Kỳ không được nhắc đến nữa. Điểm mới duy nhất trong bản tạm ước là sự hứa hẹn “cùng nhau tìm cách đạt được các thỏa thuận về mọi vấn đề có thể được đặt ra” và đồng ý sẽ tiếp tục cuộc đàm phán để tiến tới việc kết thúc thỏa hiệp trễ nhất là tháng Giêng 1947. Ký xong bản tạm ước, Hồ Chí Minh nói với Sainteny khi ra khỏi nhà của Moutet: “Tôi vừa tự ký cho tôi một bản án tử hình”:16

Hồ Chí Minh không thể nào thất vọng hơn vì trước khi lên đường ông rất tin tưởng rằng việc ông trở lại Pháp để vận động những nhân vật quen biết cũ sẽ phải đem lại kết quả tích cực. Thật đáng ngạc nhiên là trong giới lãnh đạo Pháp, ngay cả những nhân vật thuộc phe tả, cũng không có người nào từ bỏ tham vọng đế quốc và giúp cho Hồ Chí Minh đạt được thỏa ước về một “quốc gia tự do” theo đó Pháp vẫn còn được hưởng nhiều quyền lợi. Marius Moutet đã đồng tình với Cao ủy ở Nam Kỳ Jean Cèdile khi ông này tuyên bố về hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba rằng: “chính phủ Pháp có ý định thiết lập ở Nam Kỳ, cũng như ở các nước khác trong Liên Bang Đông Dương, một chính thể tự do tương tự như chính thể hiện hữu ở Cam-bốt... Nam Kỳ cũng sẽ có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chánh riêng. Nam Kỳ sẽ có những quyền lợi y như các thành viên khác của Liên Bang.”17 Ngay cả Đảng cộng sản Pháp, tuy ngoài miệng vẫn nói ủng hộ các dân tộc Đông Dương nhưng không hề chứng tỏ bằng hành động cụ thể. Tổng Bí thư Maurice Thorez đã đặt tham vọng quốc gia trên tình nghĩa đồng chí, dù Hồ Chí Minh thuộc thành phần sáng lập đảng cộng sản Pháp. Khi được Sainteny hỏi ý kiến về hiệp định 6 tháng Ba, Thorez gợi ý rằng “nếu phía Việt Nam không tôn trọng những điều ký kết chúng ta sẽ áp dụng những biện pháp cần thiết và, nếu cần, để cho sóng đạn nói chuyện dùm cho chúng ta.”18 Ông cũng cho nhà báo Philippe Devillers hay rằng đảng cộng sản Pháp không có ý bài bác sự hiện diện của nước Pháp ở Đông Dương và nhiệt tình mong muôn thấy lá cờ tam tài tung bay trên những lãnh thổ xa xôi của khối Liên Hiệp Pháp trên toàn thế giới.19

Bản tạm ước 14 tháng Chín là một sự thất bại của Hồ Chí Minh nhưng đây cũng là một bước lùi chiến thuật vì ông cần có thêm thời gian để chuẩn bị một cuộc chiến lâu dài khó lòng tránh khỏi. Chính phủ gia tăng động viên tinh thần chống Pháp và đoàn ngũ hoá quần chúng dưới sự lãnh đạo của mặt trận Việt Minh. Khí giới được mua thêm và chuyển vào Việt Nam bằng đường biển. Tình hình càng ngày càng căng thẳng với những vụ đụng độ nhỏ xảy ra hằng ngày. Trong Nam, Pháp mở chiến dịch tấn công các lực lượng kháng chiến ở vùng đồng bằng Cửu Long, và Trần Văn Giàu bắt đầu áp dụng chiến thuật du kích và “tiêu thổ kháng chiến.” Nghiêm trọng nhất là vụ Hải Phòng. Đầu tháng Mười Một, Pháp chiếm Sở Quan thuế ở thành phố này và đuổi hết nhân viên người Việt ra ngoài. Ngày 20, Pháp chặn bắt một chiếc tàu chở dầu xăng của Trung Hoa và bị bộ đội Việt Minh tấn công. Ngày 23, Đại tá Dèbes, chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng, ra tối hậu thư đòi quân Việt Nam phải hạ khí giới và rút ra khỏi khu người Hoa. Khi tối hậu thư bị bác, hải quân Pháp pháo kích như mưa vào thành phố làm chết tới mấy ngàn dân.20 Tiếp theo đó, hai ngàn quân Pháp tràn vào hải cảng tiến chiếm khu người Hoa. Bộ đội Việt Minh chiến đấu cho đến ngày 28 thì phải rút ra khỏi khu phố này.

Hai bên tiếp tục chuẩn bị chiến tranh trong khi Sainteny và Hồ Chí Minh vẫn cố gắng thăm dò lẫn nhau về giải pháp hòa bình. Ngày 15 tháng Mười Hai, Hồ Chí Minh nhờ Sainteny gửi một điện văn của ông cho tân thủ tướng Pháp Léon Blum đưa ra những đề nghị cụ thể để giải quyết cuộc tranh chấp. Trước khi chuyển về Paris, Tướng Tư lệnh Jean-Étienne Valluy ghi thêm lời cảnh cáo rằng trì hoãn hành động quân sự cho tới năm mới là một điều nguy hiểm. Trước đó, ông đã tính khai chiến với Hà Nội để đặt chính phủ Pháp trước một sự đã rồi. Ngày 17, xe thiết giáp quân đội Pháp đi phá các chướng ngại vật do những đoàn “tự vệ” cuả dân chúng dựng lên ở ngoài đường trong khi đội quân “lê dương” (légionnaires) dàn trải trên các nẻo đường từ trại lính đến phi trường Gia Lâm. Ngày hôm sau Pháp ra tối hậu thư cấm dựng chướng ngại vật trên đường phố. Chiều hôm đó lại thêm tối hậu thư loan báo, kể từ ngày 20, quân đội Pháp sẽ phụ trách an ninh công cộng khắp thủ đô. Tối hôm đó, Việt Minh bắt đầu chặn các lối từ bên ngoài vào thủ đô. Sáng ngày 19, Pháp lại ra tối hậu thư thứ ba đòi hỏi chính phủ Việt Nam ngưng tất cả mọi cuộc chuẩn bị chiến tranh, giải tán các đội dân quân tự vệ và giao quyền phụ trách an ninh thủ đô cho quân đội Pháp. Hồ Chí Minh và ủy ban thường trực đảng cộng sản quyết định không thể nhượng bộ được nữa. Trong khi Hồ Chí Minh và Trường Chinh thảo bản hiệu triệu “toàn quốc kháng chiến”, Võ Nguyên Giáp cũng thảo nhật lệnh cho binh sĩ chiến đấu. Chính phủ và quân chủ lực bắt đầu rút ra khỏi thủ đô. Tám giờ tôi hôm đó (19.12.1946), Việt Minh phá nhà máy đèn, toàn thành phố chìm trong đêm tối. Các đội dân quân tấn công các cơ sở và cư xá của Pháp, sát hại và bắt đi một số Pháp kiều. Chiếc xe thiết giáp đến đón Sainteny bị trúng mìn trên đường vào thành lính. Sainteny bị thương nằm giữa xác đám lính Pháp tới hai tiếng đồng hồ sau mới được đưa vào thành. Cuộc chiến tranh Việt-Pháp chính thức bắt đầu.21

Pháp đã lầm lỗi gây nên chiến tranh và cũng đã bỏ lỡ những cơ hội hoà bình, Ngay sau ngày đầu tiên của cuộc chiến, Việt Minh đã cho rải truyền đơn ở Hà Nội thông báo cho “nhân dân nước Pháp” biết về ý muốn của Việt Nam được sống hoà bình trong khối Liên Hiệp Pháp và trút trách nhiệm về cuộc chiến cho “những tên thực dân phản động làm ô danh nước Pháp”. Đài phát thanh Việt Minh cũng kêu gọi tiếp tục điều đình. Ngày 23 tháng Mười Hai 1946, Hồ Chí Minh gửi thư cho Marius Moutet và tướng Henri Leclerc đề nghị hai bên cử đại diện để gặp nhau, nhưng hai người này vừa rời Paris sang Đông Dương để tìm hiểu tình hình. Vài ngày sau, ông lại chính thức kêu gọi ngưng chiến và tổ chức một cuộc hoà đàm mới tại Paris trong khuôn khổ của hiệp định sơ bộ Hồ-Sainteny ngày 6 tháng Ba. Tuy nhiên, những lời kêu gọi này đều bị bỏ qua và chính phủ Léon Blum nhấn mạnh quyết tâm “trả lời cho bạo lực” và sẽ chỉ nói chuyện khi trật tự đã được vãn hồi. Bởi thế, khi tới Sài-gòn vào ngày Lễ Giáng Sinh, Bộ trưởng Marius Moutet đã tuyên bố với báo chí rằng “trước khi đàm phán, cần phải hoàn tất một quyết định quân sự” và đã không tiếp xúc với ông Hồ trước khi về nước. Ngày 3 tháng Giêng 1947, ông Hồ gửi cho Moutet một lá thư với những đề nghị cụ thể về ngưng chiến và điều đình nhưng nhà cầm quyền thuộc địa không chuyển lá thư cho Moutet và gửi trả lại.22

Chỉ vài tháng sau khi “trả lời cho bạo lực”, Pháp đã nhận thấy không thể “hoàn tất quyết định quân sự” một cách mau chóng được. Ngày 5 tháng Ba, 1947, Cao ủy d’Argenlieu bị chấm dứt nhiệm vụ và thay thế bởi Émile Bollaert. Ngày 18 tháng Ba, tân thủ tướng Paul Ramadier tuyên bố trước Quốc Hội: “Độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp có nghĩa là người Việt Nam có quyền tự cai trị lấy mình và điều hành công việc của họ một cách dân chủ, chọn lựa chính phủ của họ, và quyết định cái khung cảnh mà họ muốn sống trong đó. Tôi cũng đã nói: thống nhất ba xứ an-nam nếu người an-nam muốn như thế, và tôi cần phải nói thêm, theo cách mà họ muốn.”23 Ba ngày sau, Hồ Chí Minh hưởng ứng lời của Ramadier: “Một lần nữa, chúng tôi long trọng tuyên bố rằng dân tộc Việt Nam chỉ muốn được thống nhất và độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp và chúng tôi cam kết tôn trọng những quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam. Chỉ cần chính phủ Pháp nói lên một tiếng là đủ chấm dứt ngay được mọi sự xung đột, cứu được bao nhiêu sinh mạng, khôi phục lại niềm tin và tình hữu nghị.”24

Thật ra, lúc này Pháp đã bắt đầu nghĩ tới “giải pháp Bảo Đại” nên không vội trả lời chính phủ Hồ Chí Minh. Khi được biết cố vấn chính trị của Cao uỷ Bollaert là giáo sư đại học Paul Mus, một người quen biết cũ có thiện cảm với Việt Nam, Hồ Chí Minh gửi điện văn cho chính phủ Pháp ngày 19 tháng Tư hoan nghênh tân Cao ủy và lập lại đề nghị hoà đàm: “Chính phủ Pháp, qua việc bổ nhiệm vị tân Cao ủy Pháp ở Đông Dương, dường như đã muốn hướng chính sách đối với Việt Nam vào một đường lối mới, xứng đáng với nước Pháp mới. Để chứng tỏ lòng tha thiết chân thành của Việt Nam đối với hoà bình và tình hữu nghị với dân tộc Pháp, chính phủ Việt Nam đề nghị với chính phủ Pháp ngưng chiến tức khắc và mở cuộc đàm phán để giải quyết hòa bình cho cuộc chiến.”25 Cuộc vận động của Hồ Chí Minh bị mất lợi thế khi thủ tướng Ramadier giải nhiệm ba bộ trưởng cộng sản trong chính phủ sau khi các dân biểu cộng sản bỏ phiếu bất tín nhiệm ông tại quốc hội. Ngày 12 tháng Năm, Bollaert cử Paul Mus đi gặp Hồ Chí Minh ở chiến khu Thái Nguyên với những điều kiện ngưng chiến không khác gì những điều kiện đòi đầu hàng. Hồ Chí Minh lập tức bác bỏ những điều kiện này và trước khi chia tay, ông hỏi Mus, nếu ở vào địa vị của ông, liệu Mus có chấp nhận những điều kiện đó hay không. Paul Mus nhìn nhận là không.

Sau cuộc gặp gỡ đầy thất vọng này, Hồ Chí Minh thấy rõ chiều hướng mới của Pháp là muốn nói chuyện với một chính phủ không cộng sản, nhưBollaert đã nhấn mạnh trong bản tuyên bố ngày 15 tháng Năm sau khi kêu gọi sự hợp tác của tất cả các đảng phái: “Tôi nói: tất cả các đảng, vì chúng tôi không công nhận việc một nhóm có độc quyền đại diện cho dân chúng Việt Nam.”26 Tiếp theo đó, Bollaert phái Cousseau từ toà Tổng lãnh sự Pháp ở Hong Kong tới thăm dò ý kiến của Bảo Đại vào đầu tháng Sáu. Ngày 5 tháng Bảy, tờ báo L’Union FranZàise ở Saigon đăng lời tuyên bố của Bảo Đại: “Nếu tất cả mọi người Việt Nam tin tưởng ở nơi tôi, và nếu sự hiện diện của tôi có thể giúp cho việc thiết lập lại các quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân Việt và Pháp, tôi sẽ vui lòng trở về nước, Tôi không ủng hộ nhưng cũng không chống Việt Minh. Tôi không thuộc đảng nào cả. Hoà bình sẽ trở lại mau chóng nếu người Pháp nhận thức được rằng tinh thần dân tộc chúng tôi ngày nay không còn giống như cách đây mười năm. Tôi không cần nói thêm về điều này vì chính phủ Pháp bây giờ đã biết những đòi hỏi của tôi. Đề nghị của tôi là tôi chỉ đóng vai trò trung gian giữa nước Pháp và tất cả các đảng phái ở Việt Nam.”27

Như để trả lời cho cả Bollaert và Bảo Đại, ngày 19 tháng Bảy, Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ với thành phần liên hiệp rộng rãi gồm ba cộng sản, bốn dân chủ, bốn xã hội, hai quốc gia, ba công giáo, một phật giáo, tám không đảng phái và hai cựu quan chức triều đình. Hai khuôn mặt chủ chiến mạnh nhất là Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng phải lùi vào hậu trường. Ông Hề nhắc lại lời tuyên bố của Cao ủy Pháp muốn nói chuyện hòa bình lâu dài với tất cả các đảng phái rồi xác định: “Chính phủ Việt Nam không những chỉ gồm đại diện tất cả các chính đảng mà còn có cả những người yêu nước không thuộc đảng phái nào. Như vậy, nếu Cao ủy thật tâm muốn tiếp xúc với tất cả những đảng phái có uy tín thì không cần phải tìm ở đâu xa.” về vai trò của Bảo Đại, ông nói: “Nhiều người trong chính phủ và tôi đều là bạn của cố vấn Vĩnh Thụy. Chúng tôi rất muốn gặp lại ông và mong ông sớm trở về để cùng nhau lo việc nước... Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoàn toàn tin cậy ở lòng trung thành của cố vấn Vĩnh Thụy trong khi ở nước ngoài vẫn không ngừng làm việc với tư cách một thành viên của chính phủ.”28

Vào lúc này, Bảo Đại chưa thực sự dứt khoát thái độ với Hồ Chí Minh. Ông cho rằng luật sư Trần văn Tuyên, người được ông phái về Việt Nam quan sát tình hình hồi cuối tháng Tám, đã “đi quá quyền hạn” khi thay mặt ông tuyên bố ở Sài-gòn rằng: “Đức Bảo Đại không còn coi mình là cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh. Ngài không chống lại sự thỏa thuận với chính phủ này để điều đình với chính phủ Pháp, nhưng sự thỏa thuận phải đặt trên căn bản bình đẳng và Việt Minh không thể tự coi mình hơn những đảng phái khác.”29 Dư luận đã bắt đầu bàn tán về “giải pháp Bảo Đại-Hồ Chí Minh,” nhưng giải pháp này khó trở thành sự thực vì, dù cho cá nhân Bảo Đại có thể hợp tác với ông Hồ, các đảng phái quốc gia sẽ kịch liệt chống phá bất cứ một hình thức liên hiệp nào với Việt Minh cộng sản. Đúng hơn, có thể nói rằng lúc này Bollaert muốn dùng lá bài Bảo Đại để hù dọa Hồ Chí Minh khiến cho ông Hồ phải mềm dẻo hơn trong các điều kiện hòa đàm. Bollaert đã chuẩn bị một kế hoạch ngưng chiến và đã chọn ngày tuyên bố là 15 tháng Tám 1947, trùng với ngày Anh quốc chính thức thừa nhận nền độc lập của Ấn độ và Hồi quốc (Pakistan). Không may, sáng kiến này bị tướng Valluy, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, phản đối với lý do ông đang chuẩn bị cuộc tấn công mùa khô để tiêu diệt (!) lực lượng Việt Minh,30 Ngày 12 tháng Tám. cả hai người đều được eọi về Pháp tham khảo, Rốt cuộc, chính phủ Pháp quyết định nghe theo Valluy và bác bỏ kế hoạch của Bollaert.

Hồ Chí Minh còn tiếp tục vớt vát cơ hội ngưng chiến cho đến cuối năm 1948 nhưng ông đã nhận thấy Pháp càng ngày càng không muốn nói chuyện với ông, nhất là sau khi Bảo Đại nhận làm Quốc trưởng, thành lập chính phủ Nguyễn Văn Xuân, chứng kiến việc ký kết thỏa ước Bollaert-Xuân tại Vịnh Hạ Long 5 tháng Sáu 1948, và sau đó ký thoả ước Vincent Auriol-Bảo Đại tại điện Élysée ngày 8 tháng Ba 1949. Nhờ có cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc tháng Mười năm đó, Hồ Chí Minh đã lấy lại được niềm tin và quyết tâm chiến đấu với Pháp đến cùng. Tháng Tám, phái đoàn đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tại Pháp rút về nước. Tháng Mười, ngay sau khi Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc được thành lập, Hồ Chí Minh phái hai sứ giả Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thụy sang Bắc Kinh cầu viện.31

Chính sách ngoan cố, tham lam và thiếu thành thật của giới lãnh đạo Pháp không phải chỉ áp dụng đối với Việt Minh mà đối với cả Bảo Đại và các đảng phái quốc gia. Tệ hơn nữa, chính phủ Pháp đã lừa dối ngay cả những đồng minh thân cận nhất của họ nhử chính phủ Cộng Hòa Nam Kỳ Tự Trị đến nỗi thủ tướng Nguyễn Văn Thinh phải tự tử rồi sau đó thủ tướng Lê Văn Hoạch cũng phải từ chức. Đối với Bảo Đại, lúc đầu Pháp còn mơ tưởng đến chuyện đưa vị cựu hoàng này về nước để tái lập chính thể quân chủ như thời bảo hộ trước đây. Đó là đề nghị mà Cao úy d’Argenlieu gửi về Pháp ngày 14 tháng Giêng 1947 xin chính phủ cứu xét. Đề nghị này bị bỏ qua một bên vì đó cũng là lúc Léon Blum bị Paul Ramadier thay thế làm thủ tướng và tiếp theo là việc d’Argenlieu bị triệu hồi để cho Bollaert sang thay.

Vào lúc này, Bảo Đại ở Hong Kong đang được đặc biệt chú ý. Chỉ vài tháng sau khi ông từ biệt chính phủ Quốc Dân Đảng ở Trùng Khánh để dời sang Hong Kong hồi tháng Chín 1946, Cao ủy d’Argenlieu đã cho nhân viên đến tiếp xúc với Bảo Đại để giúp đỡ tài chánh và thăm dò ý kiến. Đầu năm 1947, Chính phủ Anh dành cho ông một biệt thự trên đảo Victoria để có thể “bảo vệ” ông dễ dàng hơn. Các lãnh tụ đảng phái quốc gia cũng kéo nhau đến để tham khảo và bày tỏ sự ủng hộ. Vào giữa tháng Hai, một đại hội của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp (MTQGLH)32 gồm nhóm Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam cùng với đại diện các đảng phái và hai tôn giáo Cao Đài, Hoà Hảo họp tại Quảng Đông, ra tuyên cáo ủng hộ Bảo Đại lãnh đạo phe quốc gia để điều đình với Pháp. Sau d’Argenlieu, Bollaert tiếp tục thăm dò giải pháp Bảo Đại nhưng nhận thấy ông không “dễ bảo” như d’Argenlieu tưởng. Trái lại, ông nhất định đòi Pháp trả lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam như Nhật đã thực thi hồi đầu tháng Tám 1945. Khi Cousseau, đại diện của Bollaert, nhận xét rằng ông đã đòi hỏi nhiều hơn Việt Minh, Bảo Đại yêu cầu Pháp hãy trở lại điều đình với Hồ Chí Minh)33.

Sau cuộc gặp gỡ thất bại Mus-Hồ ở Thái Nguyên hồi tháng Năm, Bollaert có thể đã nghĩ đến giải pháp Hồ Chí Minh-Bảo Đại khi lập kế hoạch ngưng chiến mà ông dự tính đưa ra ngày 15 tháng Tám nhưng, như trên đã nói, bất thành vào giờ chót vì sự chống đối của tướng Valluy. Ngày 9 tháng Chín, Bảo Đại triệu tập ở Hong Kong một hội nghị tham khảo với “các lãnh tụ của tất cả mọi đảng phái, bất kể chính kiến khác nhau thế nào.” Lần này, có nhiều đại diện từ trong nước sang họp chung với các lãnh tụ lưu vong của MTQGLH. Chính kiến khác nhau ở đây không có nghĩa là cộng sản hay quốc gia mà chỉ khác nhau ở mức độ ôn hòa hay cứng rắn đối với Pháp của những người không cộng sản. Có người thân Pháp như Nguyễn Văn Tâm, ôn hòa như Trần Quang Vinh, cứng rắn như Nauyễn Tường Tam, nhưng tất cả đều ra tuyên cáo chung yêu cầu “cựu hoàng Bảo Đại, người duy nhất có đủ tư cách đại diện cho dân tộc Việt Nam, ra cầm quyền và mở cuộc đàm phán với Pháp nhằm đem lại hoà bình và độc lập cho Việt Nam.”34

Ngày 10 tháng Chín, Cao ủy Bollaert đọc một bài diễn văn mà mọi người đều nóng lòng chờ đợi vì ông vừa từ Pháp trở lại sau khi tham khảo với chính phủ. Bài diễn văn này đọc ở Hà Đông, một tỉnh nhỏ ngoại thành Hà Nội, đã làm cho cả hai phe Bảo Đại và Hồ Chí Minh đều thất vọng. Do chỉ thị của chính phủ Pháp, Bollaert vẫn chỉ nhắc lại những điều thỏa thuận cũ trong hiệp định sơ bộ Sainteny-Hồ ngày 6 tháng Ba 1946 về một quốc gia “tự do” và việc thống nhất ba “kỳ” qua một cuộc trưng cầu dân ý. Ngoài ra. Bollaert xác định rằng hai địa hạt quốc phòng và ngoại giao cũng như một số trách nhiệm hành chánh như quan thuế, luật lệ về Pháp kiều, phát hành giấy bạc... đều thuộc quyền của Pháp. Ông kết luận rằng những điều khoản này là một toàn thể bất khả phân “phải được chấp thuận hay bác bỏ toàn bộ.”35 Một điều khác được nói rõ hơn trước là vấn đề đại diện của nhân dân Việt Nam. Sau khi nhắc lại rằng hoà bình không thể vãn hồi do quyết định của một đảng và cần phải có sự tham gia của tất cả những đoàn thể chính trị và tinh thần ở Việt Nam, Bollaert nói thêm rằng Việt Minh, vì đã khởi sự gây chiến ngày 19 tháng Mười Hai 1946, không còn được người Pháp tín nhiệm và, do đó, không đủ tư cách đại diện cho quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Sau bài diễn văn này, Hội nghị quốc gia ở Hong Kong chỉ trích Pháp không đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam và không giúp được gì cho việc tạo lập một nền hoà bình lâu dài ở trong nước. Trong khi đó, Việt Minh vội vã yêu cầu Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Trygve Lie can thiệp để chấm dứt chiến tranh và bảo trợ một hội nghị giải quyết quyền lợi của đôi bên Việt, Pháp. Không thấy Liên Hiệp Quốc trả lời yêu cầu này.

Khi thấy rõ ý định của Pháp không còn muốn nói chuyện với Hồ Chí Minh, MTQGLH ở Hong Kong bắt đầu thảo luận về một lập trường và sách lược chung để điều đình với Pháp, nhưng lại có nhiều ý kiến bất đồng. Bảo Đại đứng về phe ôn hoà, và những người chủ trương cứng rắn như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam bỏ ra đi vì đã thấy có bàn tay sắp đặt của Pháp qua việc đưa đại diện thân Pháp và cấp visa cho những người ôn hòa sang dự hội nghị Hong Kong. Ngày 18 tháng Chín, Bảo Đại tuyên cáo với quốc dân là để “đáp lời kêu gọi của quốc dân,” ông nhận trách nhiệm đứng ra điều đình với Pháp để “đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước” và “hoà giải sự mâu thuẫn giữa các nhóm với nhau, vì một khi đã đạt được mục đích chung, không có gì có thể cản trở việc vãn hồi hoà bình.”36

Tuy nhiên, Pháp vẫn tiếp tục thái độ ngoan cố và thiếu thành thật trong suốt thời kỳ hoạt động cho “giải pháp Bảo Đại.” Mặc dù ngày 29 tháng Chín, Lê Văn Hoạch đã từ chức Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ Tự trị theo lời yêu cầu của Bảo Đại, Pháp vẫn đưa tướng Nguyễn Văn Xuân ra làm thủ tướng mới của chính phủ Nam Kỳ. Theo Bảo Đại, kế hoạch của Nguyễn Văn Xuân là trong giai đoạn đầu lập một liên bang ba “kỳ”: miền Bắc với Hồ Chí Minh, miền Trung với Bảo Đại, và miền Nam, Nguyễn Văn Xuân. Giai đoạn hai sẽ loại bỏ cả cộng sản Hồ Chí Minh lẫn quân chủ Bảo Đại để chỉ còn lại một chính thể cộng hoà tiến bộ. Ngày 5 tháng Mười, Bảo Đại gửi điện văn yêu cầu Cao úy Bollaert dẹp bỏ chính phủ Nam Kỳ để thay thế bằng một ủy ban hành chánh như vẫn có ở Huế và Hà Nội. Lời yêu cầu này không được chấp thuận và, cuối tháng Mười Một, Nguyễn Văn Xuân trình diện chính phủ mang tên mới là Chính phủ Lâm thời miền Nam Việt Nam.

Ngày 6 tháng Mười Hai, Bảo Đại gặp Bollaert trên tuần dương hạm Dueuay-Trouin tại Vịnh Hạ Long. Sau bữa ăn trưa, hai bên vào bàn họp. Khi đó, Cao ủy Pháp đưa ra hai văn kiện đã soạn sẵn và đưa cây bút cho Bảo Đại ký. Văn kiện đầu là bản Tuyên cáo chung và văn kiện thứ nhì là bản Nghị định thư. Bảo Đại không chịu ký với lý do đây chỉ là buổi tiếp xúc đầu tiên với mục đích tìm hiểu quan điểm của đôi bên. Bollaert để lại hai văn kiện cho Bảo Đại đọc và hẹn gặp lại ngày hôm sau. Bảo Đại không thấy có vấn đề đối với bản Tuyên cáo chung vì trong đó Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước “độc lập” trong khối Liên Hiệp Pháp, nhưng bản Nghị định thư vẫn có nhiều hạn chế đối với chủ quyền của Việt Nam và dành cho Pháp nhiều đặc quyền về quốc phòng, ngoại giao, các dịch vụ chung của ba quốc gia liên kết (Việt-Cambôt- Lào), qui chế dân tộc thiểu số, v.v... Ngày hôm sau, Bảo Đại chỉ ký tên trên bản Tuyên cáo chung nhưng không chịu ký trên Nghị định thư. Vào lúc sắp sửa lên chiếc thủy phi cơ Catalina để trở về Hong Kong37 Bảo Đại mới chịu ký tắt hai chữ V, T. (Vĩnh Thụy) trên Nghị định thư sau khi Bollaert giải thích rằng chữ ký của Bảo Đại chỉ có nghĩa là ông xác nhận có biết văn kiện này và đã được trao cho một bản để làm bằng.

Ngày 19 tháng Mười Hai, Bảo Đại mời thủ tướng chính phủ miền Nam Nguyễn Văn Xuân và chủ tịch ủy ban Hành chánh Huế Trần Văn Lý sang Hong Kong tham khảo. Ông cũng mời nhân sĩ Ngô Đình Diệm đi cùng. Cả ba người đều nhận thấy có thể chấp thuận bản Tuyên cáo chung nhưng không thể chấp thuận nội dung của Nghị định thư. Ông Diệm là người chống mạnh nhất. Cả ba đồng ý rằng, trong trường hợp chữ ký của Bảo Đại bị chính phủ Pháp lạm dụng, ông nên giữ quan điểm như đã nói rõ với Bollaert là ông đến Vịnh Hạ Long chỉ để tiếp xúc và nhận thông tin riêng của Cao Uy chứ không có quyền ký kết với nước Pháp. Ngày 24 tháng Mười Hai, Bảo Đại thuê một chiếc máy bay của Anh sang Genève để theo dõi tình hình. Ông từ chối sử dụng chiếc máy bay mà Cousseau đã thu xếp cho ông và không đi Paris vì không muốn gặp lại Bollaert.

Nhưng ngay cả hai văn kiện mà Bollaert mang về Pháp sau khi ký ở Vịnh Hạ Long cũng không làm cho hai phe tả và hữu trong chính giới Pháp hài lòng. Phái tả thì bất mãn vì chính phủ không muốn điều đình với Việt Minh còn phái hữu thì chống đối việc bỏ Nam kỳ quốc. Chính ngoại trưởng Georges Bidault cũng chỉ trích Bollaert đã nhượng bộ quá nhiều, và lo ngại rằng từ ngữ “độc lập” trong bản tuyên cáo Hạ Long sẽ có ảnh hưởng tai hại đến uy quyền của Pháp ở Bắc Phi. Đầu tháng Giêng 1948, Bollaert tìm gặp Bảo Đại ở Genève, yêu cầu ông trở về nước để thi hành những điều đã ký kết nhưng Bảo Đại nhất định không chịu. Đầu tháng Hai, đáp lời mời của chính phủ Pháp, Bảo Đại sang Paris để hội kiến với thủ tướng Robert Schuman. Lúc này mới thấy rằng Bollaert còn ít có đầu óc thực dân hơn những người cầm đầu ở chính quốc. Lạc hậu nhất là Bộ ttởng Pháp quốc hải ngọai Coste-Floret, người đã chủ trương chỉ nên thảo luận trên căn bản những hiệp ước đã ký với “triều đình An-Nam.” Trong bữa ăn trưa với hội đồng chính phủ Pháp, Bảo Đại cũng thường nghe nhắc đến bản tuyên cáo 25 tháng Ba 1945 của de Gaulle với một nội dung còn tồi tệ hơn cả hiệp ước 1884. Khi Schuman nhắc đến việc thi hành thỏa ước Hạ Long, Bảo Đại giữ nguyên quan điểm như đã nói với Bollaert từ tháng Mười Hai 1947. Sau cuộc tiếp xúc với chính phủ Pháp, Bảo Đại triệu tập một cuộc họp báo và tuyên bố rằng nước Pháp đã không bảo vệ được vương quốc và triều đình An-Nam như đã long trọng cam kết trong hiệp ước 1884, qua cuộc đảo chính Nhật 9 tháng Ba và cuộc cách mạng Việt Minh 19 tháng Tám 1945. Nay máu của nhân dân Việt Nam và binh sĩ Pháp đã đổ nhiều và hoà bình chỉ có thể được lập lại nếu Pháp công nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam. Ông cũng cho biết rằng khi đã có hoà bình, nhân dân Việt Nam sẽ cần đến sự giúp đỡ của nước Pháp để xây dựng lại xứ sở.

Ngày 21 tháng Hai 1948, chính phủ Pháp tuyên bố tín nhiệm Cao ủy Bollaert trong sứ mệnh giải quyết vấn đề Việt Nam. Bảo Đại rời Pháp về Hong Kong để tiếp tục tham khảo với các nhân vật chính trị. Ngày 26 tháng Ba, ông triệu tập một phiên họp tại Hong Kong Hotel và thông báo sẽ thành lập một chính phủ trung ương để điều đình với chính phủ Pháp. Các văn kiện ở Vịnh Hạ Long được coi như một “tạm ước có tầm giới hạn” nhưng có thể được hai bên áp dụng ngay để tạo một không khí tín nhiệm lẫn nhau. Trong một phiên họp khác ngày 24 tháng Tư, chủ tịch ủy ban Hành chánh ở Hà Nội và Huế cùng với thủ tướng chính phủ lâm thời Nam Kỳ được yêu cầu từ chức để thành lập chính phủ trung ương. Khi được thông báo quyết định này, Bollaert cho biết ông đồng ý với điều kiện là Bảo Đại chấp thuận Nghị định thư Vịnh Hạ Long. Đối với Bảo Đại, điều này không còn là vấn đề nữa vì từ nay sẽ là trách nhiệm của thủ tướng. Lúc đó, có bốn người có thể được chọn làm thủ tướng. Ngô Đình Diệm từ chối vì ông không muốn ký trên Nghị định thư. Lê Văn Hoạch cũng không muốn nhận vì mới từ chức thủ tướng chính phủ Nam Kỳ. Chỉ còn lại Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu, cuối cùng ông Hữu nhường cho ông Xuân. Ngày 20 tháng Năm, Nguyễn Văn Xuân triệu tập một hội nghị các đại biểu ba miền tại Sài-gòn để tham khảo và ngày 27 lập danh sách chính phủ đem sang Hong Kong trình cho Bảo Đại chấp thuận.38 Đáng để ý là trong chính phủ trung ương đã thấy có bộ quốc phòng nhưng chưa có bộ ngoại giao. Các bộ khác đều có tổng trưởng nhưng bộ quốc phòng chỉ có bộ trưởng.

Ngày 27 tháng Năm, chính phủ Pháp “ghi nhận” việc thành lập chính phủ Xuân. Ngày 31, Bảo Đại tuyên bố qua phát ngôn viên Trần Văn Tuyên: “Đức Bảo Đại coi việc thành lập chính phủ này là một giai đoạn trong cuộc đàm phán Pháp-Việt, nhưng lập trường của Ngài chỉ trở thành chính thức khi chính phủ Pháp công nhận một chính phủ trung ương của Việt Nam mà Ngài sẽ nhân danh để điều đình. Đức Bảo Đại sẽ chỉ trở về Việt Nam sau khi được nước Pháp đảm bảo rằng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam được thừa nhận: thật sự thống nhất và độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, và Việt Nam được coi là một quốc gia liên kết một cách tự do với Liên Hiệp Pháp trong đó các dân tộc đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.”39 Ngày 5 tháng Sáu, Bảo Đại tới Vịnh Hạ Long để “chứng kiến” việc ký kết bản Tuyên cáo chung và Nghị định thư giữa Cao Uỷ Bollaert và Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân. Sau đó, Bảo Đại trở về Cannes xum họp với gia đình và quan sát các diễn biến của quan hệ Pháp-Việt mà ông biết trước sẽ không được dễ dàng.

Mặc dù Bollaert đã yêu cầu và được chính phủ Pháp tuyên bố tín nhiệm trước khi ông tiến hành cuộc đàm phán với Bảo Đại và chính phủ Xuân, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Coste-Floret vẫn ra trước Quốc hội ngày 8 tháng Sáu để chê trách Bollaert về nội dung bản thỏa ước Hạ Long: “Để tránh mọi chuyện mơ hồ, tôi đã nhiều lần nhắc nhở Cao úy Pháp về ý muốn của chính phủ Cộng Hòa là duy trì sự thống nhất của nền ngoại giao và quốc phòng trong khôi Liên hiệp. Tôi đã cho ông hay rằng những lực lượng của Việt Nam là lực lượng công an phụ trách an ninh quốc nội. Sau hết, về qui chế của Nam Kỳ, cũng đã qui định rõ là những văn kiện ký kết ở Vịnh Hạ Long không bao hàm việc nước Pháp tự động thừa nhận sự thống nhất ba Kỳ, và nước Pháp còn chờ đợi ở hành động của chính phủ Xuân trước khi quyết định. Vào giờ phút này, chính phủ Pháp không quyết định gì về việc thống nhất ba Kỳ... Qui chế của ba xứ nói tiếng Việt, như đã được qui định bởi hiệp ước ký với triều đình An Nam, chưa hề thay đổi.”40 Qua lời tuyên bố này, Coste- Floret phủ nhận việc Việt Nam có quân đội riêng mà chỉ có công an cảnh sát lo chuyện an ninh nội bộ, đồng thời duy trì hiệp ước 1884 chia cắt Việt Nam thành ba Kỳ (mà ông gọi là ba xứ - trois pays), gồm Nam kỳ là thuộc đia còn Bắc và Trung kỳ được đặt dưới chế độ bảo hộ.

Bản hiệp định Hạ Long được Quốc Hội Pháp tranh luận cho đến 19 tháng Tám mới được thông qua sau khi có lời tái yêu cầu của chính phủ mới do André Marie làm thủ tướng. Ngày 25 tháng Tám, Bollaert tới Cannes yêu cầu Bảo Đại về nước để thi hành hiệp định, nhưng Bảo Đại quả quyết ông chỉ về nước khi Nghị định thư đã được sửa đổi. Ngày 17 tháng Chín, Pháp lại thay đổi chính phủ do Henri Queuille làm thủ tướng, Bollaert trở lại Cannes nhưng vẫn không thuyết phục được Bảo Đại. Quá chán nản, Bollaert xin từ nhiệm và ngày 21 chính phủ Pháp cử Léon Pignon sang thay thế. Lúc này ở Trung Hoa, Hồng quân đang trên đà thắng thế và bộ đội của Mao Trạch Đông đã có mặt ở biên giới Việt Nam và tiếp sức cho Việt Minh.41 Chính phủ Pháp cần phải củng cố một chính quyền chống cộng sản ở Việt Nam để được Hoa Kỳ giúp đỡ. Coste - Floret, được giữ lại trong chính phủ Queuille, cũng thay đổi thái độ và làm việc sát cánh với Léon Pignon trong những cuộc tiếp xúc với Đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp là Jefferson Caffery cũng như trong việc điều đình với Bảo Đại. Cuối cùng, hiệp định Hạ Long được sửa đổi và ngày 8 tháng Ba 1949, Bảo Đại ký với Tổng Thống Vincent Auriol tại điện Élysée những văn kiện mới xác nhận Việt Nam là một nước độc lập và thông nhất trong khối Liên Hiệp Pháp. Việc sát nhập Nam kỳ vào lãnh thổ Việt Nam sẽ được tham khảo và quyết định bởi các đại diện nhân dân. Việt Nam sẽ có đại diện ngoại giao ở nước ngoài và có quân đội riêng. So với hiệp định Hạ Long 5 tháng Sáu J948 thì hiệp định Élysée tiến bộ và rõ rệt hơn nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về chủ quyền trong quan hệ với Liên Hiệp Pháp. Bảo Đại tuyên bố sẽ trở về nước.

Đến đây lại phải nhắc đến một sự việc chứng tỏ thái độ thiếu ngay thẳng của Pháp đối với vấn đề thông nhất lãnh thổ Việt Nam. Ngày 10 tháng Tư 1949 tại Sài gòn, hai ngàn đại biểu dân chúng bầu ra một Hội đồng lãnh thổ gồm năm mươi hội viên Pháp và Việt. Vài ngày sau, Hội đồng lãnh thổ họp và bỏ phiếu quyết định về số phận của Nam kỳ. Kết quả là hai mươi lăm phiếu thuận và hai mươi lăm phiếu chống việc sát nhập Nam kỳ vào Việt Nam. Được tin này, Bảo Đại lập tức bãi bỏ chuyến máy bay DC-4 mà chính phủ Pháp đã dành sẵn cho ông ở Nice để bay về Việt Nam. Cao Ủy Pignon vội vã về Sài gòn để thu xếp. Ngày 23 tháng Tư, Hội đồng lãnh thổ họp lại và lần này thì có 45 phiếu thuận và 5 phiếu chống. Thật chẳng khác một trò hề trẻ con đáng lẽ không nên có. Ngày hôm sau, Bảo Đại lên đường về nước.

Nhiều chuyện khác sau đó cho thấy rằng Pháp vẫn luyến tiếc quyền lợi và không thành thật hợp tác với Bảo Đại. Thay vì coi hiệp định Élysée 8 tháng Ba như một bước khởi đầu của tiến trình trao trả chủ quyền cho Việt Nam thì chính phủ Pháp lại muốn coi hiệp định ấy như một mục tiêu tối hậu, kiềm chế Việt Nam trong khuôn khổ rất giới hạn của Liên Hiệp Pháp, làm cho chính phủ Bảo Đại mất uy tín đối với dân chúng và đẩy chính nghĩa tranh đấu giành độc lập sang phía Việt Minh. Hội nghị các Quốc gia Liên kết do Pháp triệu tập tại Pau, một thành phố cổ ở miền Nam, dự tính lâu trong một tháng đã kéo dài tới năm tháng (29.06 đến 27.11.1950) chỉ để đôi co về vấn đề duy trì những quyền lợi của Pháp ở Đông Dương — giữa lúc tình hình chính trị và quân sự như dầu sôi lửa bỏng, không chỉ riêng ở Việt Nam mà cả khu vực Đông Nam Á, tiếp theo sự toàn thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc và sự bùng nổ chiến tranh ở Triều Tiên. Thậm chí một người thân Pháp như thủ tướng Trần Văn Hữu cũng không chịu nổi thái độ thực dân ngoan cố của các viên chức Pháp nên đã phải lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ việc Pháp thiếu thiện chí trong việc thi hành hiệp định Élysée. Khi trở về Việt Nam trong lúc hội nghị Pau còn đang tiếp diễn, ông Hữu đã lên tiếng kêu gọi Hoa Kỳ làm áp lực với Pháp để đem lại tự do dân chủ. Chúng tôi muốn có quyền quyết định lấy những vấn đề của chúng tôi...

Thật không cần thiết cho bao thanh niên phải chết để cho một kỹ sư người Pháp có thể làm giám đốc thương cảng Sài-gòn. Nhiều người đang chết mỗi ngày vì Việt Nam không được độc lập. Nếu chúng tôi được độc lập mọi người sẽ không còn có lý do chiến đấu nữa.42

Cho đến đầu tháng Ba 1953, khi Thống chế Juin, Tổng thanh tra quân lực Pháp, tới Việt Nam quan sát tình hình, Bảo Đại còn phàn nàn rằng “nước Pháp đẩy sang cho chúng tôi một đống viên chức vô dụng chỉ dùng thì giờ để thọc gậy bánh xe. Những người mà chúng tôi cần là chuyên viên chứ không phải là những viên chức hành chánh thuộc địa.”43 Bảo Đại còn cho thấy nhiều bằng chứng khác về quan niệm “đỡ đầu” lỗi thời của Pháp đối với các nước Đông Dương, đến nỗi quốc vương Cam-bốt Norodom Sihanouk cũng công khai phản đối chính phủ Pháp và đe dọa: “Nếu nước Pháp không thỏa mãn những yêu cầu của chúng tôi, chúng tôi sẽ phải đi đến chỗ hợp tác với Việt Minh”44

Về mặt quốc tế, thái độ “cố đấm ăn xôi” của Pháp ở Đông Dương cũng làm hại chính nước Pháp và các nước Đồng Minh trong cuộc Chiến tranh Lạnh khi không thật sự quan tâm đến Đông Dương, “một tiền đồn” chống cộng sản quốc tế, như Bộ trưởng các Quốc gia Liên kết đã phát biểu ở Hội nghị tay ba (Pháp-Anh-Mỹ) tháng Ba 1953: “Đặc tính chủ yếu của chiến tranh Đông Dương là chiến đấu chống cộng sản quốc tế. Trên danh nghĩa đó, cuộc chiến tranh này không thể coi là biệt lập mà phải được coi là một tiền đồn của cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối.” Từ quan điểm ấy, Bộ trưởng Jean Letourneau đã kêu gọi “các cường quốc trong Liên minh Đại Tây Dương, nếu muốn thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện thời và tiến đến một giải pháp thắng lợi cho cuộc chiến ở Đông Dương để cho nước Pháp có thể giữ được những điều cam kết với Âu châu, hãy xét lại những đóng góp về tài chánh, cam kết cụ thể hơn về việc bảo vệ quân đội viễn chinh trong trường hợp có sự tấn công của Trung Quốc, nghiên cứu khả năng phòng vệ Bắc Kỳ trong trường hợp như vậy, và phối hợp các chính sách và chiến lược trong vùng Thái Bình Dương.”45 Lời yêu cầu này rất chính đáng nhưng người ta cũng không khỏi thấy rằng, khi nhắc đến vai trò của Pháp ở Âu châu và mối đe dọa của Trung cộng ở Á châu, chính phủ Pháp vẫn có ý bắt chẹt các nước đồng minh, nhất là Hoa Kỳ, phải tiếp tục hỗ trợ sự hiện diện và quyền lợi của Pháp ở Đông Dương hơn là thật tâm vì nghĩa vụ và mục tiêu chung. Mặc dù thất bại nặng nề về quân sự, chính phủ Pháp lúc đó vẫn còn mù quáng với tham vọng đế quốc của mình.

Một sự kiện trớ trêu khác cho thấy chính sách lúng túng và thái độ chủ quan của Pháp đã đem lại cho phe quốc gia một cơ hội xác định chủ quyền của Việt Nam. Vì muốn làm cho Hoa Kỳ được hài lòng và tăng thêm viện trợ, và cũng vì tin rằng đa số các nhân vật chính trị ở miền Nam vẫn còn thân Pháp, vào đầu tháng Chín 1953, chính phủ Pháp phái tướng Catroux, cựu Toàn quyền Đông Dương, đến gặp Bảo Đại và thúc dục ông triệu tập ở Sài gòn một hội nghị gồm đại diện các đoàn thể chính trị và tôn giáo để thảo luận về tình hình đất nước. Bửu Lộc, Cao ủy Việt Nam ở Pháp, được Bảo Đại giao cho phụ trách việc này. Ngày 14 tháng Mười, một Hội Nghị Toàn Quốc gồm hai trăm đại biểu từ khắp nơi được mời về tham dự. Cựu thủ tướng Trần Trọng Kim, một người không đảng phái và có lẽ vì là người lớn tuổi nhất, được hội nghị bầu làm chủ tịch. Vấn đề quan trọng hàng đầu được đem ra thảo luận lại chính là vấn đề quan hệ giữa Việt Nam và Liên Hiệp Pháp. Ngày 16, Hội Nghị đồng thanh quyết nghị như sau:
Xét rằng Liên Hiệp Pháp, được thành lập theo Hiến pháp năm 1946 của nước Pháp, trái ngược với nguyên tắc chủ quyền quốc gia, Hội Nghị Toàn Quốc quyết định:
- Nước Việt Nam độc lập không gia nhập Liên Hiệp Pháp;
- Sau khi đã được bàn giao mọi chức năng mà chính phủ Pháp còn nắm giữ, Việt Nam sẽ ký với Pháp một hiệp ước liên minh trên căn bản bình đẳng, tùy theo nhu cầu của các phe kết ước và tùy trường hợp cần thiết, trong một thời gian do chính phủ Việt Nam quyết định.

Quyết định này làm cho chính phủ Pháp hết sức ngỡ ngàng và bất mãn. Tướng Catroux lập tức chuyển lời của Tổng thông Auriol yêu cầu Bảo Đại về ngay Sài gòn để phủ nhận quyết định của hội nghị. Bảo Đại từ chối lời yêu cầu này với lý do không có trách nhiệm gì về việc triệu tập cũng như quyết định của Hội nghị. Mấy ngày sau, do sự can thiệp của Bửu Lộc, Hội nghị sửa lại lời lẽ trong quyết định là “...không gia nhập Liên Hiệp Pháp trong hình thức hiện thời. ”46

Có những dấu hiệu cho thấy có sự can thiệp hay ít nhất cũng có ý kiến của Hoa Kỳ về việc triệu tập Hội Nghị Toàn Quốc cũng như việc sửa đổi quyết định cho nhẹ nhàng hơn đối với Pháp. Trước đó mấy tháng, một nhóm trí thức trong đó có Ngô Đình Nhu đã gặp Bảo Đại ở Đà-lạt và đề nghị dân chủ hoá chế độ bằng việc thành lập quốc hội. Adlai Stevenson, thống đốc tiểu bang Illinois và là ứng cử viên Tổng thống đảng Dân Chủ, trong một cuộc hội kiến với Bảo Đại ở Ban-mê-thuột, cũng đã gợi ý giống như lời yêu cầu của Catroux. Đại sứ Hoa Kỳ Donald Heath ở Việt Nam cũng theo dõi rất sát các phiên họp của Hội nghị toàn quốc. Tướng Clark, Tổng tư lệnh quân lực Hoa Kỳ ở Viễn Đông, sang quan sát mặt trận ở Việt Nam. Tất cả những hoạt động đó báo hiệu trước việc chấm dứt sự can thiệp của Pháp vào vấn đề Việt Nam đồng thời chấm dứt vai trò của Bảo Đại năm 1955. Có nhiều điểm đáng phê bình về vai trò và tác phong của vị cựu hoàng này trong giai đoạn 1945- 1955 nhưng ở đây chỉ đề cập đến những điểm cho thấy chính sách sai lầm của Pháp. Ngày 4 tháng Sáu 1954, tức là sau khi đã thất trận Điện Biên Phủ, thủ tướng Joseph Laniel mới ký với thủ tướng Bửu Lộc (được bổ nhiệm thay thủ tướng Nguyễn Văn Tâm ngày 17 tháng Mười Hai 1953) một hiệp định xác nhận Việt Nam “hoàn toàn độc lập” với đầy đủ chủ quyền được công pháp quốc tế thừa nhận. Ngày 16 tháng Sáu, Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ về làm thủ tướng thay cho Bửu Lộc. Sau hiệp định Genève, Ngô Đình Diệm tiến hành việc thâu hồi chủ quyền hoàn toàn cho Quốc Gia Việt Nam và loại trừ mọi phe cánh thân Pháp ở miền Nam. Ngày 20 tháng Mười 1955, Bảo Đại bị truất phế qua một cuộc trưng cầu dân ý. Một giai đoạn lịch sử mới bắt đầu với Chính thể Cộng Hoà Ngô Đình Diệm và sự tham gia của Hoa Kỳ vào một cuộc chiến khác ở Việt Nam.

Chính Sách Mâu Thuẫn của Hoa Kỳ
Trong khi còn đang chiến đấu với Đức và Nhật, Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã có một viễn kiến về tương lai chế độ thuộc địa của các nước Tây phương trong một thế giới thời hậu chiến. Tầm nhìn này đã được Roosevelt tâm sự với Elliott, con trai ông, ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến: “Con chớ có khi nào nghĩ rằng người Mỹ sẽ chết ở Thái Bình Dương đêm nay, nếu chẳng phải là chết cho lòng tham lam thiển cận của Anh, Pháp và Hòa Lan.”47 Nhìn thấy trước sức hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Roosevelt muốn các nước Tây phương trả lại độc lập cho các thuộc địa của họ, nhất là ở Á châu, sau khi Thế chiến II chấm dứt. Hồi đó, Roosevelt cũng như nhiều nhà lãnh đạo khác, chưa có một ý niệm rõ rệt về các nước Đông Dương và vẫn nghĩ rằng Đông Dương là một nước với ba chục triệu dân nghèo và thiếu học. Vì vậy, qua kinh nghiệm của Hoa Kỳ ở Phi-líp-pin, ông thấy cần có một cơ chế của Liên Hiệp Quốc để bảo trợ và hướng dẫn họ trong một thời gian từ hai mươi đến ba mươi năm, trước khi họ có đầy đủ khả năng và điều kiện độc lập. Mặc dù biết Anh quốc không tán thành sáng kiến này, ông vẫn chỉ thị cho các viên chức ngoại giao Mỹ thảo luận với các nhân vật người Anh mỗi khi có dịp về việc các nước Âu châu cần phải chấm dứt chế độ thuộc địa ở Á châu.

Roosevelt đặc biệt chỉ trích chính sách thực dân của Pháp ở Đông Dương. Từ năm 1942, trong một phiên họp với Hội Đồng Chiến Tranh Thái Bình Dương (gồm Trung Hoa, Phi-líp-pin, Úc, Tân Tây Lan và Canada), Tổng thống Mỹ đã cho biết là ông không muốn thấy chế độ thuộc điạ Pháp được phục hồi ở Đông Dương. Trong một thư nội bộ cho Bộ trưởng Ngoại giao Cordell Hull ngày 24.1.1944, ông viết: “Đông Dương không nên bị trả cho Pháp mà cần được đặt dưới quyền ủy trị của quốc tế. Pháp chiếm đóng xứ này... đã gần một trăm năm mà dân chúng ở đây còn khổ cực hơn lúc ban đầu... Nhân dân Đông Dương có quyền được hưởng những điều kiện tốt đẹp hơn.”48 Theo Bernard Fall, Roosevelt từng đề nghị với de Gaulle là ông muốn gửi một số chính trị gia Phi-líp-pin sang làm việc với chính phủ Pháp để giúp Pháp thiết lập “một chính sách tiến bộ hơn ở Đông Dương” như Mỹ đã làm đối với Phi- líp-pin, nhưng de Gaulle chỉ đáp lại bằng một “sự im lặng suy tư.”49

Tại hội nghị Cairo tháng Mười Một 1943, Roosevelt nêu vấn đề Đông Dương với Tưởng Giới Thạch và ngỏ ý muốn giao phần đất này cho Trung Hoa bảo trợ, nhân danh Liên Hiệp Quốc. Lúc này, Tổng thống Mỹ muôn xây dựng cho Trung Hoa thành một đồng minh có thế lực ở Á châu trong thời kỳ hậu chiến, và rất hài lòng khi Tưởng Giới Thạch từ chối nhận trách nhiệm một mình mà muốn có sự hợp tác và giúp đỡ của Hoa Kỳ. Tại Hội nghị Teheran một tuần sau đó, Roosevelt cũng than phiền với Stalin về chính sách thuộc địa của Pháp và cho biết là ông đã thảo luận với Tưởng Giới Thạch về một cơ chế bảo trợ có nhiệm vụ chuẩn bị cho dân tộc Đông Dương được độc lập trong một thời gian nhất định, có lẽ 20 hay 30 năm. Stalin đồng ý và còn nói thêm rằng ông không muốn “các nước Đồng minh đổ máu để trả lại Đông Dương... cho chế độ thuộc địa cũ của Pháp.”50

Tuy nhiên, sáng kiến của Tổng thống Roosevelt không có cơ hội thực hiện. Do sự lạnh nhạt của Anh và nỗ lực vận động của Pháp, các viên chức Hoa Kỳ cũng bất đồng ý với nhau về chính sách đối với Đông Dương. Vụ Viễn Đông trong bộ ngoại giao Mỹ muốn xúc tiến chuẩn bị hình thức quốc tế bảo trợ, trong khi vụ Âu châu lại ủng hộ việc Pháp trở lại Đông Dương. Ý kiến của phe ủng hộ Pháp được biểu hiện một cách thô bạo qua thái độ của William Langdon, tổng lãnh sự Mỹ tại Côn Minh, khi tiếp một phái đoàn Việt Minh vào tháng Chín 1944. Langdon xác nhận là Hoa Kỳ có quan tâm tới “tương lai chính trị và sự thăng tiến của các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” nhưng vì người An Nam là “công dân nước Pháp” (?) nên không có lý do gì mà “nước Mỹ, trong khi bỏ bao nhiêu sinh mạng và tài sản để cứu giúp nước Pháp thoát khỏi vòng nô lệ nước Đức, lại đồng thời làm cho đế quốc Pháp bị sụp đổ.”51 Tháng Mười, thủ tướng Anh Churchill tự ý giao cho Pháp một phần công tác của Bộ Chỉ Huy Đông Nam Á (SEAC) mà không đợi sự chấp thuận của tổng thống Mỹ. Sau hội nghị Yalta tháng Hai 1945, Roosevelt đã tóm tắt thái độ của đồng minh về kế hoạch quốc tế bảo trợ: “Stalin thích ý kiến này. Trung Hoa cũng tán thành. Anh quốc không ưa vì sợ đế quốc của họ bị tan vỡ.”52

Dù sao, các biến chuyển sau hội nghị Yalta cũng khiến cho tổng thống Roosevelt phải uyển chuyển thái độ đối với Pháp: Tưởng Giới Thạch phải lo ngăn chặn thế lực đang bành trướng của Mao Trạch Đông trong khi chiến đấu với Nhật, Anh quốc đang giúp cho quân kháng chiến Pháp hoạt động tình báo và chuẩn bị cho dự định của đồng minh đổ bộ vào đảo Hải Nam và Vịnh Bắc Việt khoảng tháng Ba 1945.53 Ngoài ra Mỹ và Anh cũng cần có Pháp để tăng cường khả năng ngăn chặn ảnh hưởng của Nga Sô ở Âu châu sau khi chiến tranh chấm dứt. Roosevelt tỏ ý có thể chấp thuận cho Pháp trở lại Đông Dương trong vai trò bảo trợ với điều kiện là phải cho Đông Dương độc lập thực sự sau một thời hạn nhất định.54 Chính sách mới này chưa được qui định rõ rệt thì ông đột ngột từ trần ngày 12 tháng Tư, ba mươi ba ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương.

Ngày 21 tháng Tư, Vụ Viễn Đông cố gắng vớt vát hi vọng bằng một bản nhận định trình lên tân Tổng thống Harry s. Truman. Tài liệu này xác nhận chính sách của Hoa Kỳ là giúp cho Pháp phục hồi sức mạnh để có thể chia sẻ trách nhiệm duy trì hòa bình ở Âu châu, nhưng cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải theo đuổi chủ thuyết của Tổng Thống Roosevelt là “Đông Nam Á càng ngày càng quan trọng đối với Hoa Kỳ”:

Tổng thống (Roosevelt) nhận thấy rằng những động lực đòi quyền tự cai trị đang lớn mạnh ở Á châu; rằng Hoa Kỳ — với tư cách là một đại cường quốc dân chủ— không thể và không được tìm cách trì hoãn sự phát triển này mà phải hành động nhịp nhàng với nó; và rằng trình trạng bất ổn về xã hội, kinh tế hay chính trị ở trong vùng có thể đe dọa nền hòa bình và ổn định ở Viễn Đông và cả thế giới nữa... Nếu Pháp không áp dụng chính sách thực sự cởi mở đối với Đông Dương — nhìn nhận quyền lợi tối thượng của nhân dân sở tại và đảm bảo cơ hội thiết lập một chính phủ của riêng họ trong một tương lai có thể thấy trước được— thì sẽ có đổ máu và rối loạn rất lớn trong nhiều năm, đe dọa tiến bộ kinh tế và xã hội cũng như hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á...
Chúng ta đang chiến đấu để đem lại hòa bình và ổn định ở Viễn Đông và quả thật sẽ gánh phần trách nhiệm chính để duy trì tình trạng ấy sau cuộc chiến. Việc khuyến khích và giúp đỡ các dân tộc Đông Nam Á tự cai trị một cách dân chủ, kết hợp chặt chẽ với các cường quốc Tây phương, không những chỉ thích hợp với chiều hướng chính trị trong vùng mà còn là một giải pháp thực tế đảm bảo được hòa bình và ổn định ở Viễn Đông. Nếu chính sách này không được thực hiện, hàng triệu người trong khu vực sẽ có thể đi theo những ý thức hệ trái ngược với chúng ta —hay cuối cùng sẽ thành lập một phong trào liên-Á châu chông lại Tây phương.55

Tuy nhiên, ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Truman đã chú trọng tới tương lai của Âu châu và không quan tâm đến việc ủng hộ cho Đông Dương được độc lập. Ông đồng ý với Vụ Âu châu tại bộ Ngoại giao là chính phủ Hoa Kỳ không nên chống lại việc nước Pháp muốn lấy lại Đông Dương mà chỉ nên khuyến khích Pháp cởi mở hơn về chính trị và kinh tế đối với dân bản xứ. Tại hội nghị San Francisco hồi tháng Năm đưa tới việc thành lập Liên Hiệp Quốc, ngoại trưởng Mỹ Edward Stettinius đã đi quá lố để lấy lòng Pháp khi tuyên bố rằng chính phủ Mỹ “chưa bao giờ đặt nghi vấn dù bằng ngụ ý vấn đề chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.”56 Hoa Kỳ cũng loan báo không còn thúc đẩy dự định đặt Đông Dương duới sự bảo trợ của quốc tế, và đưa ra một đề nghị lúng túng và mơ hồ rằng Hoa Kỳ “nhấn mạnh vào sự cần thiết có một tiến trình về chính phủ tự trị cho tất cả các dân tộc bị lệ thuộc mong muốn được độc lập trong tương lai hoặc được sát nhập vào một hình thức^iên bang, tùy theo hoàn cảnh và khả năng nhận lãnh trách nhiệm của những dân tộc đó.”57

Thật tình mà nói, ngay cả trong trường hợp lý tưởng là chủ thuyết Roosevelt được áp dụng và Pháp sẵn sàng cởi mở hơn đối với các dân tộc Đông Dương, hòa bình và ổn định trong vùng này vẫn chưa chắc được đảm bảo. Trong trường hợp Việt Nam, câu hỏi căn bản là: Liệu Hoa Kỳ có nên đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh và giúp cho Việt Minh thỏa hiệp được với Pháp hay không? (chẳng hạn thực thi hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba 1946).

Nếu câu trả lời là “có” thì chuyện gì sẽ xảy ra cho chính phủ liên hiệp bất đắc dĩ lúc bấy giờ, nhất là khi các đảng phái quốc gia đã bị chính phủ Trùng Khánh bỏ rơi? Hồ Chí Minh, cũng như tất cả những người làm cách mạng chống Pháp, là một người yêu nước nhưng ông cũng chỉ tin tưởng ở chủ nghĩa cộng sản. Như vậy làm sao có hòa bình và ổn định giữa người Việt Nam với nhau, và giữa Việt Minh với Hoa Kỳ ? Giả thử Hồ Chí Minh thật tình ưa thích Hoa Kỳ vì lý tưởng tự do dân chủ và chủ trương của nước này giúp cho các nước nhỏ yếu được độc lập như ông đã bày tỏ nhiều lần58, liệu ông có thể tự do đi với Mÿ, từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, bất chấp Liên Xô và Trung Quốc?

Nếu câu trả lời cho câu hỏi căn bản trên kia là “không” thì Hoa Kỳ phải tìm cách loại trừ Việt Minh ngay từ 1945 bằng cách giúp cho Pháp thỏa hiêp với các đảng phái quốc gia lập một chính phủ liên hiệp chống cộng sản mà người lãnh đạo có lẽ không có ai khác hơn là Bảo Đại, không phải chờ đến thỏa hiệp Elysée năm 1949. Trong trường hợp này, trừ phi Hoa Kỳ cương quyết chống thái độ tham lam giả dối của Pháp và ủng hộ phe Viêt Nam quốc gia đạt được độc lập thực sự, chiến tranh sẽ kéo dài và kết quả không tránh được vẫn là phe quốc gia bị mất chính nghĩa và Pháp bị thua trận nhục nhã.

Hoa Kỳ đã không giúp cho Hồ Chí Minh và cũng không giúp cho Bảo Đại nhưng ủng hộ Pháp, mặc dù đây chỉ là một lựa chọn bất đắc dĩ. Sự lựa chọn sai lầm này sẽ được phân tích ở những trang sau và các cơ hội bỏ lỡ sẽ được thảo luận kỹ hơn trong những chương 5 và 8 dưới đây.

Tình trạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 quả thực rất phức tạp. Nhiều câu hỏi, nhiều giả thuyết khác có thể được nêu ra, ngoài và chung quanh câu hỏi căn bản nêu trên, theo đó lịch sử có thể đã đổi khác. Có thể Hoa Kỳ đã bỏ lỡ cơ hội từ năm 1945 khi Hồ Chí Minh tha thiết mong muốn được Hoa Kỳ giúp đỡ. Trước thái độ lạnh nhạt của Liên Xô (Stalin vẫn nghi ngờ Hồ Chí Minh không đích thực là cộng sản quốc tế) và viễn tượng bị Trung Quốc đô hộ, một chính trị gia khôn ngoan và thực tế như Hồ Chí Minh đã cho biết ông sẵn sàng thỏa hiệp với Pháp về một nước Việt Nam tự do trong khối Liên Hiệp Pháp với một lộ trình tiến tới độc lập từ năm đến mười năm. Như Hồ Chí Minh đã nói thẳng: “Thà ngửi cứt thằng Tây một thời gian còn hơn phải ăn cứt thằng Tàu suốt cả đời’’59. Giải pháp này trong thời điểm 1945-46 có thể thành công nếu có sự can thiêp của Hoa Kỳ. Trong trường hợp đó, một chính phủ liên hiệp quốc gia sẽ có cơ sở hơn hình thức liên hiệp quá mỏng manh và giả tạo do áp lực của các tướng Tiêu Văn và Lư Hán. Khó có thể tin rằng sẽ không có tranh chấp và đổ vỡ nhưng ít nhất cũng có được một thời gian ổn định và các đảng phái quốc gia cũng có được cơ hội củng cố và chứng tỏ khả năng lãnh đạo của mình. Dù sao, Hoa Kỳ đã quyết định ủng hộ Pháp và sau chín năm đã phải nhận lãnh kết quả là Hiệp định Genève 1954. Từ nay, Hoa Kỳ lại phải chuẩn bị thay thế cho Pháp ở Việt Nam và dấn thân vào một cuộc xung đột khác kéo dài thêm hai mươi năm nữa.

Bây giờ, chúng ta hãy trở lại với chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954, qua bảy năm dưới chính quyền Truman và mười chín tháng đầu tiên dưới chính quyền Eisenhower. Đúng ra thì phải nói là chính sách của Mỹ đối với Pháp ở Đông Dương, vì ngay cả sau khi Hoa Kỳ đã công nhận chính phủ Bảo Đại năm 1950, mọi vấn đề quan trọng về Việt Nam, Cam-bốt và Lào vẫn chỉ được giải quyết với chính phủ Pháp. Đây là một sai lầm nghiêm trọng của Hoa Kỳ, vì chỉ thừa nhận một quốc gia trên giấy tờ mà không thừa nhận chủ quyền của quốc gia ấy trong thực tế. Điều này không những không giúp được gì cho nguyện vọng độc lập của các dân tộc Đông Dương mà đã thực sự giúp cho Pháp làm mất uy tín và chính nghĩa của phe quốc gia trong cuộc chiến đấu chống cộng sản.
Không phải Hoa Kỳ không nhận thấy cái nghịch lý trong chính sách của mình là một mặt ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương, một mặt muốn cho các nước Đông Dương được độc lập. Hoa Kỳ cũng biết là Pháp còn nặng đầu óc thực dân, không thành thực trao trả độc lập cho các cựu thuộc địa, và chỉ lợi dụng chiêu bài chống Việt Minh cộng sản để khôi phục chủ quyền ở Đông Dương. Tuy nhiên, mọi khuyến cáo của Hoa Kỳ đều vô hiệu và Hoa Kỳ vẫn phải chiều chuộng Pháp vì cần có sự tham gia của Pháp vào Cộng Đồng Phòng Thủ Châu Âu (European Defense Community - EDC ).60 Từ đầu năm 1947, tân Ngoại trưởng George Marshall, sau khi phân tích tình hình Đông Dương đã nhận ra chính sách mâu thuẫn và thế kẹt của Hoa Kỳ, nhưng ông cũng chỉ biết than thở: “Thật tình, chúng tôi chẳng thấy có giải pháp nào để đề nghị.”61 Khi Dean Acheson lên làm Ngoại trưởng, ông đã dứt khoát ủng hộ Pháp trong suốt nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Truman (1948-1952). Bị Pháp bắt chẹt, Hoa Kỳ cứ tiếp tục sống với nghịch lý đó cho tới cuối cuộc chiến năm 1954.

Sai lầm căn bản của Hoa Kỳ thể hiện trên cả hai khía cạnh tinh thần (danh nghĩa chống cộng) và vật chất (viện trợ quân sự và kinh tế) trong chính sách đối với Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.

Trước hết, Hoa Kỳ chỉ trông cậy vào Pháp trong công cuộc ngăn chặn cộng sản ở Đông Dương. Làm sao mà một cựu đế quốc đang chiến đấu để giành lại quyền lợi của mình ở một cựu thuộc địa lại có được chính nghĩa bảo vệ cho nhân dân của chính cựu thuộc địa ấy? Những nhà làm chính sách của Hoa Kỳ, trừ phe thiểu số trong Vụ Viễn Đông ở Bộ Ngoại giao, không hiểu rằng đông đảo quần chúng ủng hộ Việt Minh không phải vì ý thức hệ mác-xít mà chính vì lòng thù ghét thực dân Pháp và niềm khao khát được độc lập và tự do. Giới lãnh đạo Hoa Kỳ hồi đó không biết rõ về Việt Nam mà chỉ có một khái niệm mơ hồ và ngớ ngẩn về Đông Dương như một khối dân tộc lạc hậu, cần được Pháp bảo trợ và hướng dẫn về độc lập, dân chủ trong một thời gian vài ba chục năm. Họ không nhận biết được rằng Việt Nam đã có một lịch sử lâu dài chiến đấu cho độc lập và tự do, và sau gần một thế kỷ dưới sự đô hộ của Pháp, Việt Nam đã có một tầng lớp trí thức có kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc về văn minh Tây phương và chính trị quốc tế. Hầu hết số trí thức này cùng với những nhà cách mạng còn sống sót qua những cuộc tàn sát thời Pháp thuộc là những nhà ái quốc chân chính nhưng đã không có được thời cơ hoặc đã không thể cạnh tranh với Việt Minh vì những lý do đã nói đến ở chương đầu. Một số người theo Việt Minh vì chống Pháp, một số người hợp tác với Pháp vì không thấy có lựa chọn nào khác để chống lại cộng sản, một số khác không chấp nhận Việt Minh nhưng cũng không tin tưởng ở sự thành thực của Pháp nên quyết định không tham gia chính trị hoặc ngưng hoạt động để chờ thời, do đó trong giai đoạn lịch sử này có một lớp người được mệnh danh là “nhân sĩ trùm chăn.”

Mặc dù đặt nhiều hi vọng vào Hoa Kỳ, Bảo Đại đã không được Hoa Kỳ thật tình ủng hộ và sẵn sàng bỏ rơi sau 1954, lý do chính vì ông bị coi là đã hợp tác với Nhật và là một “bù nhìn” của Pháp. Hoa Kỳ và những người chống ông đã không hiểu được rằng, sau cuộc đảo chính 9 tháng Ba 1945, Bảo Đại chỉ nhân cơ hội Pháp bị lật đổ để xây dựng một nước Việt Nam độc lập. Chính phủ Trần Trọng Kim do Bảo Đại thành lập là những người thực sự yêu nước, đã làm hết sức mình để giúp đỡ dân chúng và đã đem lại độc lập và thống nhất cho dân tộc trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Trong khi chưa có thể hợp tác với Đồng Minh, họ đã không làm điều gì chống lại Đồng Minh. Trái lại, họ còn là nạn nhân của bom đạn do phi cơ Mỹ đánh phá những đường giao thông tiếp tế và cơ sở sản xuất, làm thiệt hại đời sống của nhân dân về mọi mặt.

Ngày 18 tháng Tám, đồng thời với việc chính phủ Trần Trọng Kim thành lập “Ủy Ban Cứu Quốc” kêu gọi các chính đảng đoàn kết để bảo vệ nền độc lập của xứ sở, Bảo Đại gửi thư cho Tổng Thống Truman và các nhà lãnh đạo Đồng Minh (ngoại trừ Stalin,) kêu gọi ủng hộ Việt Nam độc lập. Trong thư gửi Truman khi de Gaulle sang Hoa Kỳ, Bảo Đại viết:

Nhân dịp vị lãnh đạo Chính phủ Lâm thời của nước Pháp sắp thảo luận với Ngài về tương lai của Đông Dương, tôi hân hạnh kính tin để Ngài rõ là các Quốc gia Đông Dương đã tuyên cáo độc lập và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của họ.
Về phần dân tộc Việt Nam, chúng tôi không coi người Pháp là kẻ thù; chúng tôi tôn trọng quyền lợi kinh tế của họ, nhưng chúng tôi sẽ vận dụng toàn lực để chống lại việc Pháp tái lập chủ quyền trên lãnh thổ Việt Nam bất cứ dưới hình thức nào.
Chế độ thuộc địa không còn thích hợp với chiều hướng lịch sử hiện tại. Một dân tộc như Việt Nam với trên hai ngàn năm lịch sử và một quá khứ huy hoàng không thể chấp nhận sống dưới sự đô hộ của một dân tộc khác.
Nước Pháp phải tuân theo nguyên tắc bình đẳng mà cường quốc Hoa Kỳ đã tuyên cáo và bảo vệ. Nước Pháp phải vui lòng nhìn nhận điều đó để tránh khỏi thảm họa chiến tranh trên đất nước chúng tôi.62

Đáng tiếc là chính quyền Truman đã thiếu hiểu biết về tình hình ở Việt Nam và gạt bỏ lời kêu gọi chính đáng này.
Bảo Đại không phải là một nhà cách mạng mà chỉ là một ông hoàng quen thụ hưởng cuộc sống vật chất, nhưng Bảo Đại cũng là một người yêu nước, chống chính sách thực dân và những hứa hẹn giả dối của Pháp. Ngay sau khi được tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, Bảo Đại đã kêu gọi “những nhà ái quốc hữu danh và ẩn danh” nên mau mau ra giúp nước để “đương đầu với một cuộc tái hồi ngoại thuộc.” Lúc đó, trước khi Việt Minh giật được chính quyền, đương kim Hoàng đế đã phát biểu một lời nói lịch sử: “Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hi sinh nhưTrẫm.63 Ngay cả Hoàng Hậu Nam Phương cũng gửi thông điệp kêu gọi thân hữu trên thế giới ủng hộ cuộc chiến đấu chống Pháp của dân tộc Việt Nam: “Bản thân tôi đã từ bỏ không luyến tiếc mọi đặc quyền của một Hoàng hậu để sát cánh cùng với chị em phụ nữ của tôi giúp cho chính phủ — mỗi người tùy theo khả năng của mình — bảo vệ chính nghĩa thiêng liêng của nền độc lập của chúng tôi. Hiện nay máu đang đổ ra rất nhiều... nhiều nhân mạng đã phải hi sinh chỉ vì lòng tham của một số người Pháp thực dân... Nhân danh 13 triệu phụ nữ Việt Nam, tôi kêu gọi các thân hữu của cá nhân tôi, những người bạn của Việt Nam, hãy lên tiếng đòi tự do và quyền làm người (cho chúng tôi)... Hãy yêu cầu chính phủ của các bạn can thiệp để thiết lập một nền hòa bình công chính, một bổn phận tối quan trọng đối với nhân loại được toàn thể dân tộc chúng tôi biết ơn.”64 - Đáng tiếc là Bảo Đại đã không biết áp dụng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông” tức là bắt chẹt Pháp bằng chính thế võ mà Pháp đang sử dụng đối với Mỹ, vì Pháp không thể có giải pháp nào khác hơn là “giải pháp Bảo Đại.” Nhược điểm và sai lầm của Bảo Đại là mặc dù chống đường lối của Pháp nhưng cuối cùng vẫn để cho Pháp lèo lái. Nếu ngay từ đầu, Bảo Đại dứt khoát đòi Pháp trả lại Nam Kỳ với một lịch trình rõ rệt trao lại độc lập hoàn toàn cho Việt Nam thì chính nghĩa mới sáng tỏ so với hiệp định Sainteny-Hồ 6 tháng Ba 1946 và tạm ước Hồ-Moutet 14 tháng Chín 1946. Ngoài ra, Bảo Đại đáng lẽ không nên chấp nhận việc Pháp đưa Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu ra làm thủ tướng mà phải nhất định thành lập lấy một chính phủ gồm những nhà ái quốc chân chính để lôi cuốn được sự tin tưởng của nhân dân. Việc Bảo Đại nhận tiền hối lộ của Bình Xuyên và ủng hộ trùm “mafia” Bảy Viễn cũng là một lỗi lầm trầm trọng.

Cũng đáng tiếc là lúc đó Việt Nam chưa có những người biết làm lobbypublic education ở Hoa Kỳ để vận động các nhà làm chánh sách cũng như dư luận ở xứ này, giải thích cho họ hiểu và ủng hộ những đòi hỏi chính đáng của Việt Nam, đồng thời thấy rõ hơn hậu quả tai hại của việc chọn lựa Pháp lãnh đạo các dân tộc Đông Dương chống cộng sản. Mặc dù trong xã hội Hoa Kỳ còn nhiều kỳ thị và bất công, chính phủ và nhân dân Mỹ rất tôn trọng hiến pháp và các nguyên tắc dân chủ, đặc biệt là có khuynh hướng binh vực kẻ yếu thế. Thí dụ, một sai lầm lớn của Mỹ là đã công nhận Việt Nam mà không hề tham khảo ý kiến của Việt Nam, nhất là không bao giờ mời Việt Nam, tham dự những phiên họp với Pháp để lấy những quyết định về Việt Nam. Chỉ cần một lá thư của Quốc trưởng hay Thủ tướng Việt Nam gửi Tổng thống Hoa Kỳ hay một bài báo của Đại sứ Việt Nam trên tờ New Fork Times, than phiền rằng Mỹ đã kỳ thị hoặc coi thường chủ quyền của các dân tộc Đông Dương, cũng có thể làm cho chính quyền cảm thấy lầm lỗi và Việt Nam sẽ được dư luận bênh vực. Phe quốc gia Việt Nam có nhiều lý do vững chắc để thuyết phục Hoa Kỳ đáp ứng đúng nguyện vọng độc lập và tự do của dân tộc. Giả thử Hoa Kỳ thực sự giúp cho “giải pháp Bảo Đại” được thành hình với sự hợp tác của những nhà ái quốc chân chính, thay vì để cho nó biến thành “giải pháp Pha-lang-sa” như lời than phiền của Bảo Đại65 thì có thể đã lôi cuốn được sự ủng hộ của đa số nhân dân. Quan hệ hợp tác giữa Bảo Đại với Pháp là tình trạng “đồng sàng dị mộng”. Ông cần có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để thực hiện giấc mộng của mình. Một khi Bảo Đại đã có cái thế để bắt chẹt lại Pháp thì Hoa Kỳ sẽ không phải lo bị Pháp làm yêu làm sách nữa.

Về vấn đề viện trợ kinh tế và quân sự, lúc đầu Hoa Kỳ chỉ chú trọng viện trợ quân sự cho Pháp, mãi đến 1951 Hoa Kỳ mới thúc đẩy Pháp thành lập quân đội Việt Nam, nhờ mối đe dọa của Mao Trạch Đông. Trước đó, cho đến khi Hiệp định Hạ Long được ký kết hồi tháng Sáu 1948, toàn quốc chỉ có vài chục ngàn địa phương quân dưới quyền điều khiển của các tỉnh trưởng. Một năm sau, quân lực Việt Nam có được hai mươi ba ngàn người, trong đó có hai tiểu đoàn chính qui. Mọi việc vẫn tiến hành rất chậm chạp. Ngày 30 tháng Mười Hai 1949, gần mười tháng sau Hiệp định Elyse, Cao ủy Léon Pignon mới ký thỏa ước quân sự ấn định các nguyên tắc thành lập quân đội Việt Nam. Tháng Hai 1951, tân Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh de Lattre de Tassigny hứa sẽ lập cho Bảo Đại một quân đội tân tiến nhất ở Viễn Đông, nhưng để đổi lại, Bảo Đại phải chấp thuận cho Trần Văn Hữu lập chính phủ.66 Tháng Bảy năm đó, một số đơn vị tác chiến của quân lực Việt Nam tham dự cuộc diễn binh kỷ niệm ngày 14.7 của Pháp tại Hà Nội dưới quốc kỳ Việt Nam với ý nghĩa một đạo quân đồng minh của Pháp. Ngày 16, Bảo Đại ký nghị định động viên toàn quốc. Mãi đến tháng Ba 1952 mới có một sĩ quan thân Pháp, thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, được cử làm tham mưu trưởng quân lực Việt Nam bên cạnh tướng Raoul Salan là người thay thế tướng de Lattre mới qua đời. Cuối năm đó, Bảo Đại than phiền với tướng Salan về sự chậm trễ trong việc tổ chức quân đội Việt Nam nhưng Salan chỉ hứa sẽ cho Bảo Đại nhiều quyền hơn ở miền Nam.67

Đầu năm 1953, khi tướng Henri Navarre sang thay Salan, quân đội Việt Nam mới thật sự được thành lập. Với sự chi viện của Mỹ, Navarre quyết định thành lập chín tiểu đoàn quân đội các Quốc gia Liên kết và gọi đây là chương trình “nhuộm vàng” (hay‘hoàng hóa’)68 quân đội để có đủ nhân lực chiến đấu với quân đội Việt Minh trong những trận đánh qui ước. Quốc Hội Mỹ lần đầu chấp thuận ngân sách 400 triệu đô-la, chỉ vài tháng sau lại tăng thêm 385 triệu cho tài khóa 1954. Tính đến cuối năm 1953, số tiền viện trợ cho Pháp đã lên tới 500 triệu và Hoa Kỳ vẫn cung cấp mỗi tháng mười ngàn tấn vũ khí, đạn dược. Chương trình này rốt cuộc không thành công vì đã quá chậm và kế hoạch Điện Biên Phủ của Navarre bị lâm nguy. Ngoài ra, binh sĩ Việt Nam không có tinh thần chiến đấu, như Nixon đã nhận xét trong chuyến đi Việt Nam cuối năm 1953: “Các tướng lãnh Pháp không tin cậy những đơn vị độc lập của dân bản xứ, và dân bản xứ không muốn chiến đấu dưới sự lãnh đạo của người Pháp.”

Về kinh tế, Hoa Kỳ chính thức viện trợ cho Đông Dương năm 1950, chỉ mấy tháng sau khi Mao Trạch Đông làm chủ lục địa Trung Hoa. Chính sách này do Dân biểu Charles Deane đề nghị với Tổng thống Truman sau khi lên tiếng cảnh cáo rằng muốn đánh bại chủ nghĩa cộng sản ở Á châu không thể chỉ dùng sức mạnh quân sự mà phải có một cách tiếp cận toàn diện. Hoa Kỳ phải cố gắng làm giảm bớt nạn nghèo đói và phải ủng hộ những phong trào dân tộc tự chủ. Deane viết: “Nếu chúng ta trung thành với truyền thống tự do của chúng ta và, với lòng nhiệt thành của sứ mệnh truyền giáo, gắn liền chính sách ở Viễn Đông của chúng ta vào những nguyên tắc thăng tiến tự do và nâng cao mức sống vật chất cũng như nhân phẩm của con người, chúng ta không thể chỉ ngăn chặn cộng sản mà phải nhất quyết đẩy cộng sản vào thế thủ.”69 Tuy nhiên, vì đã quyết định đi với Pháp và tin tưởng một cách sai lầm ở khả năng và uy tín của Pháp đối với các nước Đông Dương, Tổng thống Traman và Ngoại trưởng Acheson đã chỉ viện trợ kinh tế cho Liên Hiệp Pháp, không đúng với đề nghị của Dân biểu Deane. Trong bản tuyên bố sau khi họp với bộ trưởng quốc phòng Pháp René Pleven ở Paris ngày 8 tháng Năm 1950, Acheson đã lập luận rất lạ lùng rằng “Việt Nam, Cam-bốt, và Lào đang được hưởng độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp” và loan báo: “Chính phủ Hoa Kỳ tin tưởng rằng không làm gì có độc lập hay dân chủ ở bất cứ nơi nào bị đế quốc Sô-viết thống trị, vì vậy quyết định viện trợ kinh tế và quân sự cho các Quốc gia Liên kết Đông Dương và nước Pháp để giúp cho các nước này có thể phục hồi sự ổn định và thực hiện công cuộc phát triển hòa bình và dân chủ.”70

Trong chuyến đi hồi tháng Chín/Mười 1951 để tìm hiểu tình hình Trung và Viễn Đông, dân biểu John F. Kennedy (Tổng thống tương lai) có ghé thăm Việt Nam và cũng nhận định tương tự như dân biểu Deane. Mặc dù không ưa Bảo Đại, Kennedy đồng ý với quyền Đại sứ Edmund Gullion là Hoa Kỳ cần phải áp lực Pháp để cho Việt Nam được tự do hơn. Ông cũng tán thành việc viện trợ quân sự trực tiếp cho chính phủ Bảo Đại thay vì chuyển hết viện trợ qua tay Pháp. Ông nhấn mạnh đến sự quan trọng phải liên kết với dân chúng chứ không phải với chính phủ và lo ngại rằng Hoa Kỳ đã tự đồng nhất với chính sách thuộc địa của Pháp. “Chúng ta liên minh với những người bạn Tây Âu và chúng ta sẽ giúp họ tự bảo vệ lấy xứ sở của họ. Nhưng giúp đỡ và bảo vệ những ước vọng thuộc địa của họ lại là một chuyện khác. Đó là vấn đề của họ, không phải của chúng ta.”71

Cũng nên biết thêm rằng trong năm 1953, khi Bảo Đại nhận thấy chi phí quân sự của Mỹ giúp cho Pháp ở Việt Nam quá tốn kém, ông muốn Mỹ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam. Mặc dù Hoa Kỳ đồng ý, chính phủ Pháp không chịu chấp thuận yêu cầu này. Tổng thống Vincent Auriol tuyên bố về viện trợ Mỹ: “Chúng ta muốn họ giúp chúng ta ở Đông Dương nhưng không để cho họ can thiệp vào đó.”72 Năm 1950, sở dĩ Bảo Đại bị tướng de Lattre de Tassigny ép phải để cho Trần Văn Hữu (thân Pháp) làm Thủ tướng thay cho Nguyễn Phan Long (độc lập) cũng là vì có dư luận cho rằng Mỹ sẽ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam. Sau vụ nhượng bộ này, Bảo Đại phàn nàn với Lãnh sự Mỹ ở Hà Nội: “Tính chất độc lập của chính phủ này là cái gì? Ở chỗ nào? Một chính phủ có thể độc lập mà không có ngân sách được không?”73 Mặc cho những khuyến cáo trên đây, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ủng hộ Pháp vì “không còn có cách nào khác” như kết luận của một nhà phận tích trong Bộ Ngoại giao: “Hoa Kỳ phải đứng trước sự chọn lựa là trợ giúp cho Pháp ở Đông Dương hay đương đầu với sự bành trướng của cộng sản trên phần đất còn lại của Đông Nam Á và có thể lan xa hơn về phía Tây.”74 Một lần nữa, Ngoại trưởng Acheson lại phát biểu còn lạ lùng hơn cả lần tuyên bố năm 1950. Tháng Hai 1952, khi được chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Tom Connally hỏi xem vấn đề Đông Dương có thể để cho Liên Hiệp Quốc giải quyết hay không, Acheson trả lời rằng Đông Dương “không còn là vấn đề mâu thuẫn giữa người Pháp và người Việt. Người Việt Nam đã có mọi tự do và cơ hội mà họ có thể sử dụng hay mong muốn. Thật ra họ đã có nhiều hơn là họ có thể sử dụng hay mong muốn.” Ông cũng nhấn mạnh rằng mục đích của Hoa Kỳ là “giữ cho [người Pháp] tiếp tục làm chuyện họ đang làm, tức là đảm nhận trách nhiệm tiên quyết trong cuộc chiến đấu [chống cộng sản] ở Đông Dương, và không để cho họ chuyển lại trách nhiệm đó cho chúng ta.”75.

Đầu năm 1953, khi đảng Cộng Hòa lên cầm quyền dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Dwight D. Eisenhower, Hoa Kỳ vẫn thấy không có sự chọn lựa nào khác hơn là ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh chống cộng sản ở Việt Nam. Tình hình lúc đó đã quá trễ để xây dựng cho Việt Nam một quân đội độc lập được trang bị đầy đủ, huấn luyện tinh nhuệ và có một hệ thống chỉ huy cao cấp. Chương trình Navarre, như đã chứng tỏ, chỉ có mục đích lập những tiểu đoàn bổ sung cho quân đội Pháp, và đã thất bại. Quan trọng hơn nữa là không thể kịp tổ chức một chính quyền mới có đủ chính nghĩa, uy tín và kinh nghiệm, có thể lấy được niềm tin của quân và dân để tranh phần thắng lợi với chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh. Như nhận định của Phó Tổng thống Richard M. Nixon, sau chuyến đi quan sát Đông Dương cuối năm 1953:

Pháp đã thất bại vì không huấn luyện đầy đủ và tạo được niềm tin cho người Đông Dương để họ có thể tự bảo vệ. Pháp đã không tạo được một chính nghĩa —hay một lực lượng nòng cốt — có thể đốì phó với những lời kêu gọi ái quốc và chống thực dân của những người Cộng sản. Quân đội Việt Nam sống trong những điều kiện đáng phàn nàn. Họ không có lòng tự tin, không có lãnh đạo làm cho họ phấn khởi. Quan trọng nhất là họ không có một khẩu hiệu tác chiến, một merdeka, để phân biệt giữa việc phải chiến đấu với việc muốn chiến đấu.” Ông kết luận: “Nếu Pháp phải rút ra khỏi cuộc chiến thì Việt Nam —và có thể Lào và Cam-bốt nữa— sẽ bị lôi cuốn đi như vỏ trấu trước cơn gió lốc cộng sản. Do đó, tôi quyết định rằng Hoa Kỳ sẽ phải làm mọi chuyện để tìm cách giữ người Pháp ở lại Việt Nam cho đến khi cộng sản đã bị đánh bại.76

Khi Pháp bị vây hãm ở Điện Biên Phủ thì Hoa Kỳ không chịu can thiệp quân sự để giải cứu cho Pháp vì không muốn tham chiến một mình trong khi kế hoạch “hành động hợp nhất” (united action) của ngoại trưởng Dulles lại không được Anh quốc tán thành. Khi Anh và Pháp quyết định tiến hành cùng với Liên Xô và Trung quốc trong việc giải quyết chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đành phải miễn cưỡng tham dự hội nghị Genève, dù chỉ để theo dõi và hoạt động hậu trường hơn là thảo luận chính thức.

Thái độ thiếu dứt khoát của Hoa Kỳ đối với tham vọng thực dân của Pháp ở Đông Dương đã đưa tới một chính sách mâu thuẫn và lúng túng trong suốt tám năm của cuộc chiến tranh Việt Nam đầu tiên. Hoa Kỳ đã gánh chịu cho Pháp phần phí tổn lên tới 78 phần trăm và kết quả là lãnh luôn trách nhiệm trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai.77 Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa không giống như quan hệ giữa Pháp và Quốc Gia Việt Nam, nhưng sự hợp tác giữa hai nước trong cuộc chiến chống cộng sản lại có những kinh nghiệm và hậu quả đáng buồn khác, tạo thành một “hội chứng Việt Nam” mà mấy chục năm sau chiến tranh vẫn còn ám ảnh tâm tư của những nhà lãnh đạo và các cựu chiến binh Hoa Kỳ.

——-

Ghi chú:

[1] Journal Officiel de la République Française, 25.3.1945. Năm đơn vị lãnh thổ Đông Dương gồm Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine), Cam-bốt và Lào. Nên chú ý là những tên Tonkin, Annam, và Cochinchine do Pháp đặt ra không có hàm ý rằng đây là ba miền (kỳ) của một nước Việt Nam, như trong tên tiếng Việt. Đây là chủ ý của người Việt Nam khi dịch sang tiếng Việt để bảo vệ ý nghĩa thông nhất của ba miền đất nước.
2 Jean Sainteny, Histoire d’une Paix Manquée: Indochine 1945-1947 (Paris: Fayard, 1967), 49.
3 David Shoenbrun, Av France Goes (New York, 1957), 214. Mỉa mai thay, chưa đầy hai mươi bôn tiếng đồng hồ sau, Toàn Quyền Đông Dương Georges Catroux đã phải chấp thuận tối hậu thư của Nhật do Đại sứ Pháp từ Tokyo chuyển tới đòi “đóng cửa biên giới (Đông Dương) không cho chuyên chở (sang Trung Hoa) bằng đường bộ hay đường sắt các vật liệu như dầu xăng, xe vận tải, đồng thời phải để cho Nhật kiểm soát việc đóng cửa biên giới này.” (Amiral Decoux, 66).
4 Philippe Devillers, Paris-Saigon-Hanoi, 21-22.
5 Charles de Gaulle, Allocution prononcée à l’occasion de l’ouverture de la conférence de Brazzaville, 30 janvier 1944.
6 Lực lượng 136 (Force 136) từ đầu năm 1943 đã tuyển một số tù chính trị cộng sản Việt Nam bị Pháp giam giữ ở Madagascar đưa sang Calcutta huấn luyện về truyền tin, đến giữa 1944 thì được thả dù xuống Việt Bắc để chống Nhật. Tất cả những người này đều bắt liên lạc được với Việt Minh để hoạt động chống Pháp. Như Lê Giản đã nhận xét sau đợt nhảy dù đầu tiên của ông và Hoàng Đình Rong: “Thế là keo đầu tiên chúng tôi đã thắng đế quốc Anh trong sách lược lợi dụng bọn chúng nhằm phục vụ mục đích của mình.” (Lê Giản, Những Ngày Sóng Gió [Hà Nội: NXB Công An Nhân Dân, tái bản năm 2000], 118). Lê Giản làm Tổng Giám đốc Công An vào tháng Hai 1946, rất có công trong công cuộc truy lùng các đảng viên VNCMĐMH và VNQDĐ. Trong những năm gần đây, ông lại là một trong những đảng viên lão thành lên tiếng tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Ông mất năm 2003.
7 Jacques de Folin, Indochine 1940- 1945: La Fin d’Un Rêve (Paris: Perrin, 1993), 99.
8 Ibid., 99.
9 Ibid., 128.
10 bid., 98. Ở đây, de Gaulle nhắc đến bản Tuyên cáo 24.3.1945 của Chính phủ Lâm thời Pháp lúc đó còn lưu vong ở bên Anh.
11 Decoux,. 488-489.
12 Philippe Devillers, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952 (Paris: Editions du Seuil, 1952), 242.
13 Trên đường về Hà Nội, Hồ Chí Minh nói với tướng Raoul Salan, phụ tá của d’Argenlieu: “Nếu Đô đốc (d’Argenlieu) nghĩ rằng tôi bị khiếp đảm vì sức mạnh của hạm đội Pháp thì ông ấy đã lầm. Chiến hạm của các ông sẽ chẳng bao giờ có thể tiến được vào những con sông của chúng tôi.” (Duiker, 368).
14 Chính phủ Nam Kỳ Tự Trị do Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng. BS Thinh là một người yêu nước, lúc đầu tham gia đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu sau lập ra đảng Dân Chủ Đông Dương cùng với BS Trần Văn Đôn (thân phụ tướng Trần Văn Đôn). Khi ông thấy Pháp không thật tâm trao quyền cho Chính phủ cộng hòa Nam Kỳ Tự trị và bị dư luận lên án, ông treo cổ tự tử ngày 10.11.1946
15 Sainteny, Histoire d’Une Paix Manquée, 231.
16 Jean Sainteny, Ho Chi Minh and His Vietnam: A Personal Memoir, trans­lated by Herma Briffault (Chicago: Cowles Book, 1972), 88.
17 Devillers, Histoire du Vietnam, 244.
18 Sainteny, Ho Chi Minh, 71.
19 Devillers, Histoire du Vietnam, 269.
20 Sainteny, Ho Chi Minh, 92; Gary R. Hess, The United States’ Emergence as a Southeast Asia Power (New York: Columbia University Press, 1987), 201.
21 Duiker, 395-397.
22 Ibid., 400-401.
23 Bao Dai, 174-175.
24 Ibid., 175.
25 Ibid., 176.
26 Ibid., 177.
27 Ibid., 179.
28 Ibid., 180.
29 Ibid., 181.
30 Quả thật, trong cuộc hành quân “Léa” xuống Bắc Cạn ngày 7.10.1947, tướng Valluy đã cho quân nhảy dú phối hợp với bộ binh đánh trúng chiến khu đầu não của Việt Minh trong lúc Hồ Chí Minh đang họp với Bộ Tham mưu. Nhờ sự hướng dẫn của Chu Văn Tân, vốn gốc người địa phương, ông Hồ cùng toàn thể chính phủ (trừ bộ trưởng Nguyễn Văn Tố bị giết) đã chạy thoát kịp thời. Quân Pháp còn thấy những mẩu thuốc lá còn cháy dở và thư từ ông Hồ chưa kịp ký bỏ lại trên bàn (Duiker, 409).
31 Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: The North Carolina University Press, 2000), 13. Thực ra, Việt Minh và quân đội giải phóng của Mao Trạch Đông đã bắt đầu hợp tác không chính thức ở vùng biên giới từ 1946. Xem chú thích 41 dưới đây.
32 MTQGLH được thành lập ngày 17.2.1947 ở Nam Kinh nhằm “tranh thủ độc lập và thống nhất quốc gia, củng cố chánh thể cộng hòa dân chủ, thực thi chế độ dân chủ chân chánh.” Thành phần gồm có: Nguyễn Hải Thần (VNCMĐMH), Nguyễn Tường Tam (VNQDĐ), Nguyễn Hoàn Bích (Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng), Trần Côn tức Văn Tuyên (Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn), và Lưu Đức Trung (Đoàn thể Dân chúng). Đến tháng Năm lại có thêm sự gia nhập của hệ phái Cao Đài Tầy Ninh và Tịnh Độ Cư Sĩ. (Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, tập B: 1947-1954, 21, 48).
33 Cousseau là tùy viên tòa Tổng Lãnh sự Pháp ở Hong Kong, đã từng ở Việt Nam, nói giỏi tiếng Việt, được d’Argenlieu cử đi gặp Bảo Đại từ tháng Giêng 1947. Cousseau nhận bản đề nghị bảy điểm do Trần Trọng Kim soạn với sự đồng ý của Bảo Đại và sau đó đưa cựu Thủ tướng họ Trần về Saigon ngày 2 tháng Hai. Trong cuộc gặp gỡ lần này với Bảo Đại (tháng Năm 1947), Cousseau so sánh đòi hỏi “độc lập” của Bảo Đại với qui chế “tự do” trong Hiệp định Sơ bộ Hồ-Sainteny ngày 6.3.1946.
34 Bảo Đại, 182.
35 Ellen J. Hammer, The Struggle for Indochina 1940-1954 (California: Stanford University Press, 1954), 213; Allan B. Cole, ed., Conflict in Indochina and International Repercussions: A Documentary History, 1945-1955 (Ithaca: Cornell University Press, 1956), 62-66.
36 Bauo Naii, 184.
37 Bảo Đại không dùng phương tiện chuyên chở của chính phủ Pháp. Chiếc thủy phi cơ Catalina là của một công ty úc do hoàng thân Vĩnh cẩn mướn. Khi trở lại Vịnh Hạ Long để chứng kiến việc ký hiệp định Bollaert-Nguyễn Văn Xuân ngày 5.6.1948, Bảo Đại cũng vẫn mướn chiếc thủy phi cơ này.
38 Danh sách chính phủ gồm có: Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng; Trần Văn Hữu, phó thủ tướng; ba quốc vụ khanh đại diện ba miền: Nghiêm Xuân Thiện (Bắc), Phan Văn Giáo (Trung), và Lê Vàn Hoạch (Nam); bảy tổng trưởng: Nguyễn Khắc Vệ, tư pháp; Nguyễn Khoa Toàn, bộ lễ và giáo dục; Nguyễn Trung Vinh, kinh tế-tài chánh; Phan Huy Đán, thông tin; Trần Thiện Vàng, canh nông; Đặng Hữu Chí, y tế; Nguyễn Văn Tỷ, công chánh; và hai bộ trưởng là Trần Quang Vinh, quốc phòng; Đinh Xuân Quảng, phủ thủ tướng.
39 Bảo Đại, 201-202.
40 Ibid., 205-206.
41 Từ tháng Ba 1946, Đệ nhất Trung đoàn của Hồng quân Mao đã được phép sử dụng phần đất phía Việt Nam ở biên giới làm hậu cứ để tấn công quân đội Tưởng Giới Thạch. Một ngàn quân của trung đoàn này được Việt Minh tiếp tế lương thực và thuốc men. Để đáp lại, các sĩ quan Trung Quốc huấn luyện quân đội Việt Minh ở Thái Nguyên và Bắc Giang từ tháng Sáu 1946. Năm 1947, 1.000 binh sĩ người Việt gốc Hoa cũng được huấn luyện và sát nhập vào quân đội Việt Minh (Qiang Zhai, 11-12). Từ 1950 đến 1954, Mao liên tiếp gửi sang Việt Nam những đoàn cố vấn chính trị, hành chánh và quân sự, mở trường đào tạo sĩ quan và viện trợ “tất cả mọi thứ vũ khí, đạn dược mà Việt Nam cần đến” (Ibid., 45 và 20-49). Có thể trong thời kỳ này Trung Quốc đã có chủ ý lấn đất biên giới bằng cách cho gia đình binh sĩ định cư luôn tại các căn cứ của họ và sát nhập de facto những nơi này vào lãnh thổ Trung Quốc.
42 The Pentagon Papers, vol. 1, ch. 1.
43 Bao Dai, 307.
44 Ibid., 311.
45 CAOM, HCI-150. Các nước đồng minh với Pháp ở vùng Thái Bình Dương gồm có: Trung Hoa Dân Quốc, Phi-líp-pin, Úc và Tân Tây Lan. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Trung Quốc thì Phi-lip-pin rút ra. Hội nghị năm nước (Hoa Kỳ, Anh, Pháp, úc, lần Tây Lan) cũng họp nhiều lần để thảo luận về tình hình an ninh ở Đông Nam Á.
46 Bảo Đại, 315-316.
47 Hess, 48.
48 Thomas G. Paterson and Dennis Merrill, ed., Major Problems in American Foreign Policy (Lexington , MA: D.C. Health and Company, 1995), vol. II: since 1914, 4th edition, 189.
49 The Pentagon Papers, Gravel edition, vol. 1, ch. 1 (Boston: Beacon Press, 1971), “Summary”.
50 Robert D. Schulzinger, A Time for War: The United States and Vietnam, 1941-1975 (New York: Oxford University Press, 1997), 13-14.
51 Marr, 282.
52 Hess, 142. Khi vấn đề này được nêu lên ở Hội nghị Yalta, Churchill giận dữ tuyên bố ông không bao giờ “bằng lòng cho bốn, năm chục nước thọc tay can thiệp vào sự tồn tại của Đế quốc Anh.” (William R. Louis, Imperialism at Bay 1941-1945: The U.S. and the Decolonization of the British Empire, Oxford University Press, 1977, 458).
53 Mặc dù dự định này vẫn còn đang được ban tham mưu liên quân bàn cãi, sự gia tăng hoạt động oanh kích của Hoa Kỳ ở Đông Dương đã khiến cho Nhật chặn trước cuộc đổ bộ của Đồng Minh bằng cuộc đảo chính Pháp ngày 9.3.1945 nhằm phá huỷ các lực lượng nội ứng của Đồng Minh.
54 Hess, 145.
55 “Memorandum for the President,” Far Estern Division, April 21, 1945, trong The Pentagon Papers (GPO ed.) Bk.8, V.B.2, 13-15.
56 Duiker, 330.
57 Marr, 270.
58 Không kể bản tuyên ngôn đòi “tự trị” và các quyền tự do căn bản cho Việt Nam gửi cho Tổng thống Wilson tại Paris năm 1919, Hồ chí Minh đặc biệt tìm hiểu lý tưởng dân chủ của Hoa Kỳ qua tài liệu của Phòng Thông tin Chiến tranh (OWI) Liễu Châu năm 1943-1944. Sau đó là việc hợp tác với OSS và một loạt lời kêu gọi Mỹ ủng hộ, đáng kể là điện văn gửi Truman ngày 17.10.1945 và cuộc gặp Đại sứ Mỹ Caffery trong thời gian hội nghị Fontainebleau ở Pháp. Theo tài liệu Bộ Ngọai giao Mỹ, Hồ chí Minh đã từng mong muốn Việt Nam được đặt dưới sự bảo hộ của Mỹ như trường hợp Phi-lip-pin khi trước (Schulzinger, 19; Duiker, 340.) OSS cũng báo cáo rằng “đối với người An Nam, sự hiện diện của chúng ta là biểu tượng không phải cho sự giải phóng khỏi nạn chiếm đóng của Nhật mà giải phóng khỏi hàng chục năm dưới chế độ thuộc địa. Chính phủ Việt Nam coi Hoa Kỳ là nhà vô địch bênh vực cho quyền của các dân tộc nhược tiểu.” (Hess, 178-179).
59 James Pinckney Harrison, The Endless War: Fifty Years of Struggle in Vietnam (New York: Free Press), 109.
60 EDC được các kế hoạch gia quân sự Mỹ và Âu châu quan niệm như một liên minh phòng thủ Âu châu trong đó có sự tham gia của quân đội Đức để ngăn ngừa sự bành trướng của Liên Xô. Pháp vẫn lạnh nhạt với kế hoạch này vì không muốn tái võ trang nước Đức, nhưng mặt khác cũng muốn dùng EDC để bắt chẹt Mỹ phải viện trợ cho Pháp ở Đông Dương. Rốt cuộc, sau hội nghị Genève 1954, Pháp vẫn quyết định không gia nhập EDC (30.8.1954).
61 Hess, 206.
62 Dẫn bởi Nguyễn Phú Đức, The Vietnam War, bản thảo chưa xuất bản, tập I, trang 102.
63 Trần Trọng Kim, 195-196.
64 Bernard Fall, The Vietminh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of Vietnam (New York: Institute of Pacific Relations & Cornell University, 1956), 69.
65 “N’ai-je donc pas raison quand on me parle ‘d’expérience Bao Dai’ de rectifier en soulignant qu’il s’agit d’une ‘expérience française’?” Bao Dai, 285.
66 Không bao lâu, de Lattre dẫn lời của Pignon gọi Trần Vàn Hữu là “đồ chó đẻ” (canaille) và chính ông cũng tố cáo Hữu là kẻ bất lương đã biển thủ công quĩ và chuyển ngân bất hợp pháp nhiều triệu đô-la. (Công điện mật 2.11.195 của Đại sứ Heath gửi Bộ Ngoại giao — FRUS, 1951, vol. VI, 539).
67 Bảo Đại, 302.
68 Sau này, ở miền Nam, Nixon cũng có một chương trình tương tự gọi là “Việt Nam hoá chiến tranh” nhưng có tính chất toàn diện, trong đó quân đội Việt Nam hoàn toàn thay thế quân đội Mỹ.
69 Thư của Dân biểu Charles Deane gửi Tổng thống Truman ngày 19.10.1949. Dẫn bởi Robert Mann, A Grand Delusion: America’s Descent into Vietnam (New York: Basic Books, 2001), 63.
70 Department of State Bulletin (May 22, 1950), 821.
71 JohnF. Kennedy’s speech, 19.11.1951, trong Pre-Presidential Papers, Box 102, JFK Library. Dẫn bởi Mann, 85.
72 Bảo Đại, 304.
73 Schultzinger, 40.
74 Mann, 73
75 Ibid., 87.
76 Richard Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon (New York: Grosset and Dunlap, 1978), 125-126.
77 Chiến tranh 1945-1954 còn được gọi là Kháng chiến chống Pháp, Chiến tranh giành độc lập hay Chiến tranh Việt-Pháp. Tên gọi chiến tranh 1955- 1975 thì phức tạp hơn: CHXHCNVN gọi là Chiến tranh chống Mỹ cứu nước, hay gọn hơn, Chiến tranh của Mỹ (American war); Hoa Kỳ thì dùng tên chiến trường mà gọi là Chiến tranh Việt Nam. Thật ra, cuộc nội chiến bắt đầu từ 1955 khi miền Bắc phát động các phong trào đấu tranh chính trị và chính phủ Ngô Đình Diệm thực hiện chiến dịch “tố cộng” nhằm triệt hạ các cơ sở và cán bộ cộng sản còn ở lại miền Nam. Hoa Kỳ chỉ trực tiếp tham chiến từ 1965 đến 1973. Để tránh ý nghĩa chính trị chủ quan, sách này căn cứ vào tên chiến trường và thứ tự thời gian để gọi hai cuộc chiến là Chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất và Chiến tranh Việt Nam lần thứ hai.


--------------------------------------

BON-PHUONG’S BLOG





No comments:

Post a Comment

View My Stats