TS.
Nguyễn Minh Tuấn*
5/02/2013
Điều
2 Câu 2 Hiến pháp 1992 khẳng định:“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân […]”, hay nói cách khác nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước,
nhưng ngay sau đó, tại Điều 4 lại qui định: “Đảng Cộng sản Việt Nam […] là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Hai điều này liệu có mâu thuẫn
không?
Hiến
pháp mà chúng ta đang xây dựng là “Hiến pháp của Đảng” theo nghĩa Đảng
“lãnh đạo nhà nước và xã hội”, lãnh đạo “việc sửa đổi Hiến pháp” (Điều 4, Điều
84 Khoản 1) hay đó là “Hiến pháp của dân” theo nghĩa“Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân” (theo Điều 2), trong đó quyền lập hiến cũng
thuộc về nhân dân?
Ở
Đức, các nhà lập hiến đã giải quyết khá triệt để vấn đề này. Điều 21
Luật cơ bản Đức qui định:
“Các
đảng phái cùng góp phần hoạch định chính sách chính trị của nhân dân[…].
Tòa án Hiến pháp liên bang có thẩm quyền phán quyết về sự vi hiến của đảng. Các
qui định khác có liên quan do Luật của liên bang qui định“.
Điều
2 Khoản 1 Câu 1 Luật về các đảng phái chính trị ở Đức làm rõ hơn địa vị pháp lý
của các đảng:
“Các
đảng là các tổ chức của nhân dân, tồn tại trong một thời gian dài, hoạt
động ở liên bang hoặc tiểu bang, là các tổ chức cùng tham gia hoạch định chính
sách và theo đuổi mục đích là đại diện cho nhân dân ở Hạ viện liên bang Đức
hoặc Hạ viện của tiểu bang […]”.
Trong
định nghĩa về đảng nêu trên ở Đức, có một cụm từ rất đắt giá đó là cụm từ “các
tổ chức của nhân dân” (Vereinigungen von Bürgern). Cụm từ này hàm chứa
ít nhất ba ý:
-
Thứ nhất,
các đảng phái ra đời ở Đức là xuất phát từ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Họ quan niệm rằng: “Nếu như tất cả quyền lực nhà nước
là thuộc về nhân dân (Điều 20 Khoản 2 Câu 1 Luật cơ bản), thì phải tồn tại
những thiết chế chính trị của nhân dân để cùng góp phần hiện thực hóa những
tiếng nói, nguyện vọng, lợi ích của họ – những thiết chế đó chính là các đảng
phái chính trị”[1]. Cho nên các đảng ở Đức
ra đời là để thực hiện chức năng liên kết giữa nhà nước và xã hội (Điều
1 Luật các đảng phái chính trị Đức), nhằm hiện thực hóa lợi ích của toàn thể
nhân dân.
-
Thứ hai,
một đảng nào đó dù qui mô lớn đến đâu cũng không thể đại diện cho sự đa dạng
các ý kiến, lợi ích của toàn thể nhân dân, do vậy họ dùng thuật ngữ “các tổ
chức của nhân dân” cùng các điều kiện kèm theo để làm rõ điều này. Đảng phái không
phải là những cơ quan nhà nước, không thuộc nhà nước, mà là những tổ chức dân
sự, những tổ chức của nhân dân.
-
Thứ ba, thành
viên của các đảng phái chỉ có thể là “công dân” (Bürger) Đức, không thể
là các pháp nhân hay các tổ chức tương tự, và cũng không bao gồm các đảng phái,
tổ chức của nước ngoài hay của liên minh Châu Âu.
Như
vậy, các đảng phái ở Đức có hai chức năng chính là chức năng cùng hoạch định
các chính sách từ nhân dân và chức năng liên kết giữa nhà nước và xã hội
(Điều 1 Luật các đảng phái ở Đức). Điều 21 Luật cơ bản qui định „Các đảng
phái cùng góp phần hoạch định chính sách chính trị của nhân dân“.
Sẽ
không thể tồn tại một chế độ độc tài trên nước Đức khi mà Luật cơ bản Đức đã
minh thị rằng: các đảng phái ở Đức có chức năng là cùng hoạch định chính
sách chính trị của nhân dân (mitwirken). Ẩn sau qui định này còn là việc
thừa nhận địa vị bình đẳng và sự cạnh tranh (wettbewerb) một cách công bằng
giữa các đảng phái chính trị.
Tòa
án hiến pháp liên bang giải thích rằng: “Không có cạnh tranh thì không có sự
phát triển. Cần phải thiết lập được sự đa dạng, sự cạnh tranh và tranh luận
tích cực giữa các chính sách. Chính sự đa dạng của những chính sách khác nhau
mới giúp hạn chế được việc một đảng nào đó có được khả năng độc tài, chuyên chế
và chọn lựa được chính sách đúng đắn phù hợp nhất. Những chính sách phù hợp sẽ
làm gia tăng sự giàu có của đất nước, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả
mọi người” (BVerfGE 104, 14ff.).
Bên
cạnh đó, Luật cơ bản Đức cũng đã lường tính, tạo lập một sân chơi pháp lý bình
đẳng để các đảng phái có thể hoạt động hiệu quả bằng việc thừa nhận quyền
bình đẳng về cơ hội của các đảng (Điều 3, 21, 38 Luật cơ bản), đồng thời
không một đảng phái nào thoát khỏi sự kiểm soát từ bên trong lẫn bên ngoài
đó là các nhóm lợi ích khác,cơ chế tài chính, sức mạnh báo chí và đặc
biệt là khả năng có thể bị Tòa án hiến pháp liên bang tuyên vi hiến và bị
giải tán (Điều 21 Luật cơ bản)[2].
Chú thích: Hình vẽ trên thể
hiện chức năng liên kết giữa nhà nước và xã hội của các đảng phái ở Đức (Điều 1
Luật các đảng phái chính trị ở Đức).
–
Thứ nhất,
từ quan điểm thực chứng có thể thấy: con người vốn dĩ không ai hoàn thiện, học
thuyết, tư tưởng, thậm chí tổ chức của con người cũng vậy. James Madison trong
tập sách “Các bài viết chủ trương chế độ liên bang 1787-1788”, đã nhận
định: “Con người không phải là những thiên thần. Nếu con người là những
thiên thần, thì chính quyền cũng chẳng cần thiết phải tồn tại làm gì” [3]. Vậy thì tại sao chỉ có “chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” mới là “nền tảng tư tưởng” (Điều 4
Hiến pháp)? Phải chăng chỉ có chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
luôn đúng trong mọi thời đại, còn các tư tưởng khác thì không? Nếu chủ nghĩa
Mác – Lê nin là “luôn đúng”, là “chân lý” như vậy, thì tại sao hiện nay ở gần
như đa số tuyệt đối các nước trên thế giới, trong đó có cả các nước nơi đã hình
thành nên những tư tưởng này, như ở Cộng hòa liên bang Đức hay Liên bang Nga
hiện nay, họ lại không coi đó là “nền tảng tư tưởng” qui định trong Hiến pháp
giống như chúng ta?
–
Thứ hai,
tổ chức của con người cũng không hoàn thiện, vậy Đảng có phải là một tổ chức
hoàn thiện nhất không? Nếu không, thì hiện nay hơn ba triệu đảng viên không do
dân bầu ra, họ đang đại diện cho ai và liệu họ có thể đại diện cho tiếng nói,
lợi ích của hơn chín mươi triệu đồng bào, trong đó có rất nhiều người không
phải là đảng viên hay không? Ở các nước dân chủ, các đảng theo đuổi mục đích
đại diện cho lợi ích đa dạng của nhân dân ở Nghị viện. Ở Việt Nam, Quốc hội
Việt Nam sẽ đại diện cho lợi ích của tổ chức Đảng, cho đảng viên hay “của nhân
dân”, khi mà thực tế Quốc hội hiện có đến 91,6% tổng số đại biểu là đảng viên[4], được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo” (Điều 4) và nguyên tắc “tập trung dân chủ”
(Điều 6)? Hơn nữa, về mặt thuật ngữ, từ đảng chính trị (tiếng Anh: political
party; tiếng Đức: politische Partei; tiếng Pháp: parti politique) đều bắt nguồn
từ gốc tiếng La tinh là từ “pars”, có nghĩa là “bộ phận”. Nếu Đảng được
hiểu theo nghĩa gốc chỉ là “bộ phận”, vậy một đảng mà thành viên không do dân
bầu, là “một bộ phận”, có thể đại diện cho “toàn thể nhân dân ViệtNam” hay
không?
–
Thứ ba, nếu
quan niệm Đảng cũng không phải là một tổ chức hoàn thiện, vậy khi Đảng mắc sai
lầm trong hoạch định chính sách, thì tổ chức hiến định nào có vị trí pháp lý
tương đương có thể đứng ra phản biện lại hay góp ý cho Đảng? Khi Đảng vi
phạm Hiến pháp thì hệ quả pháp lý đối với chính tổ chức Đảng là gì?
Song song với việc
giải quyết những câu hỏi kể trên, tôi nghĩ khi xây dựng Hiến pháp, các nhà lập
hiến không nên xa rời mà cần trở về đúng với cội nguồn của Hiến pháp là bản
“Hiến pháp của dân”.
Các Hiến pháp dân chủ đầu tiên trên thế giới ra đời đều là kết quả của các
cuộc cách mạng dân chủ như Cách mạng tư sản Anh, Mỹ, Pháp. Đây là những bản
Hiến pháp của dân, thể hiện được ước vọng của nhân dân, bảo vệ quyền con người,
chống lại sự độc tài, sự áp bức, bóc lột và nguy cơ lạm quyền của nhà nước. Sở
dĩ gọi những Hiến pháp đầu tiên này là Hiến pháp của dân vì những bản Hiến pháp
này chỉ qui định hành vi của nhà nước, xuất phát từ mục đích giới hạn quyền lực
của Nhà nước, tạo lập và bảo vệ xã hội dân sự một cách hợp pháp, thúc đẩy tiến bộ
xã hội, ngăn chặn hành vi lạm quyền từ phía Nhà nước.
Ở Việt Nam, muốn xây
dựng một bản Hiến pháp của dân thì trước tiên quyền lập hiến của nhân dân
phải được tách ra khỏi quyền lập pháp của Quốc hội[5]. Muốn vậy, tôi cho
rằng trước tiên về mặt thủ tục cần phải thành lập một Quốc hội lập hiến
do dân bầu. Hiến pháp trước tiên phải do Quốc hội lập hiến này thông
qua. Sau khi đã được Quốc hội lập hiến thông qua, bản Hiến pháp đó
phải được đưa ra toàn dân phúc quyết. Quốc hội lập hiến khi hoàn
thành nhiệm vụ sẽ tự giải tán, nhân dân sẽ bầu ra một Quốc hội lập pháp (hay
Nghị viện) mới. Quốc hội lập pháp nàysẽ không được quyền sửa Hiến pháp,
mà chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp đã qui định. Mọi sự sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp (nếu có) đều phải được đưa ra toàn dân phúc quyết. Kiến
nghị này không mới, cũng không xa lạ với lịch sử của bản Hiến pháp 1946[6], vấn đề chỉ giản đơn là: lúc
đó ta chưa có điều kiện để làm, thì nay ta cần phải làm và làm một cách
nghiêm túc.
Tóm
lại, Hiến pháp đích thực bao giờ cũng là một “khế ước xã hội”[7], thể hiện “ý chí, nguyện vọng
của mọi tầng lớp nhân dân”[8]. Những vấn đề sửa đổi Hiến
pháp của chúng ta hôm nay không chỉ liên quan đến chính chúng ta, mà còn là sản
phẩm tinh thần gửi gắm đến thế hệ tương lai – con cháu của chúng ta mai sau.
Hiến pháp sửa đổi lần này vì thế cần phải mạnh dạn hội nhập với Hiến pháp của
các nước trên thế giới, cần phải trở lại những vấn đề căn bản nhất: Hiến pháp
là “Hiến pháp của dân”, đảng chính trị là “tổ chức của nhân dân, cùng
hoạch định các chính sách của nhân dân và thực hiện chức năng liên kết giữa nhà
nước và xã hội, vì lợi ích của toàn thể nhân dân”.
N.M.T.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
*Đại học Saarland, Cộng hòa liên
bang Đức
[1]Gröpl, Staatsrecht I, 4.
Aufl., 2012, Rn. 391 f.
[2] Xem thêm: Gröpl, Staatsrecht
I, 4. Aufl., 2012, Rn. 394 f.
[3]Hamilton/Madison/Jay,
Die Federalist Papers – vollständige Ausgabe, 2007, S. 320.
[4]Xem thống kê công bố công khai
tại trang chủ của Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử, “8,4% đại biểu Quốc hội
hiện tại, Quốc hội khóa XIII là người ngoài Đảng”, tại địa chỉ:
http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx, truy cập gần nhất ngày 2/2/2012.
[5]Xem thêm: Nguyễn Đăng Dung
(chủ biên), Quốc hội ViệtNam trong Nhà nước pháp quyền (Chuyên khảo dành cho
sau đại học), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội, 2007, tr. 291–387.
[6]Thực tế bản Hiến pháp 1946 chưa
từng được sửa theo cách thức mà Điều 70 đề nghị, thì đã bị thay thế bởi các tuyên
bố chính trị khác. Xem thêm: Phạm Duy Nghĩa, Bản hiến pháp 60 năm trước
và những món nợ lịch sử, Tạp chí Tia Sáng, đăng ngày 2/2/2007; Nguyễn Sỹ
Dũng, Học ở Hiến pháp năm 1946, Tạp chí Tia sáng, đăng ngày 16/9/2011, truy
cập tại địa chỉ: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=4377;
Nguyễn Minh Tuấn, Hiến pháp 1946: thể hiện cơ chế phân công và kiểm soát
quyền lực, Tạp chí Tia sáng, đăng ngày 14/12/2011, truy cập tại địa chỉ:
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=4377.
[7]Nguyễn Sỹ Dũng, Khế ước
xã hội, Tạp chí Tia sáng, đăng ngày 3/1/2013, truy cập tại địa chỉ: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=6036.
[8]Nguyễn Sỹ Phương, Hiến
pháp là nền tảng, còn nền tảng của Hiến pháp?, Tạp chí Tia sáng, đăng ngày
23/1/2013, truy cập tại địa chỉ:
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=6093.
No comments:
Post a Comment