Lm. Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh
Thứ
ba, 08 Tháng 5 2012 16:22
Đức
Giám Mục Vinh-Sơn Nguyễn Văn Long
Kính
thưa Đức Cha,
Trước khi viết lá thư này, con đã ngần ngại. Đức Cha là linh mục Việt Nam thứ ba ở hải ngoại, và là người đầu tiên tại Úc được bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá. Ngay từ lúc thông tin này được loan tải, Đức Cha đã lôi kéo sự chú ý của công luận, từ phù hiệu của Đức Cha trong đó có lá cờ vàng ba sọc đỏ, đến những lời tuyên bố qua đó Đức Cha công khai nhìn nhận căn cước vượt biên tỵ nạn cộng sản của mình mà có thời bị xem như cặn bã của xã hội. Trong tư thế một ngôi sao đang lên của Đức Cha mà một linh mục ở tuổi về hưu như con, dám mon men ngỏ lời lại chẳng hoá ra “thấy người ta sang bắt quàng làm họ” hay sao, cho dù thực sự Đức Cha cũng như con, đều thuộc dòng họ Phan, con cái thánh Phan-xi-cô Át-xi-di. Nhưng yếu tố cuối cùng đã khiến con mạnh dạn viết thư này, chính là bài giảng của Đức Cha tại một nhà thờ bên Úc nhân ngày 30 tháng 04 vừa qua, ngày mà Đức Cha đau đớn gọi là ngày “quốc nạn”.
Thú thật với Đức Cha, con sợ bài giảng của các giám mục lắm. Cứ ý như là có mũ, có gậy rồi, muốn phán gì cũng được, dài bao nhiêu cũng được, có ai dám cãi đâu! Đến nỗi có anh em linh mục tuyên bố: “Biết ông đó sẽ chủ tế, tôi sẽ không đồng tế nữa!”. Có vị khi giảng chỉ nói toàn những chuyện thiêng liêng cao cả trên chín tầng mây, vị khác nữa, chữ nghĩa thì nhiều, ý tứ chẳng bao nhiêu. Sơ sơ vậy để Đức Cha hiểu cho tại sao con dị ứng.
Dám nói thẳng, nói thật
Điểm đầu tiên đáng chú ý trong bài giảng của Đức Cha, theo con, đó là tính thẳng thắn và lòng can đảm. Điều hiển nhiên là Đức Cha không né tránh, không nói vòng vo tam quốc, kiểu ba phải, huề cả làng theo chiêu bài “đối thoại” và “hợp tác” ! Đức Cha đã không ngần ngại gọi ngày 30 tháng 04 năm 1975 là ngày “Quốc Nạn”, khởi đầu cho bao đau thương, bao tai hoạ xảy đến cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam. Khi đề cập đến “những bế tắc của lịch sử”, Đức Cha không chỉ làm một thứ bảng liệt kê ngắn gọn nhưng đầy đủ các biến cố đau thương khởi đi từ ngày 30 tháng 04 năm 1975, nhưng còn vạch mặt chỉ tên những tác nhân của các biến cố đó. Vì không thể rút gọn hơn được, con xin phép trích dẫn đoạn này: “Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một khúc ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận đại. Nó cũng đánh dấu một bế tắc dẫn đến một sự băng hoại toàn bộ cho cả đất nước và dân tộc Việt Nam. Khi bao nhiêu bom đạn của cuộc chiến ý thức hệ đã gây chết chóc thương tích và tàn phá trên những người dân vô tội; khi bao nhiêu những chiến sĩ bỏ mình nơi chiến trận, phơi thây không một nấm mồ hay chết dần mòn tức tưởi trong các trại cải tạo; khi những thương phế binh bị ruồng bỏ trong một xã hội vô nhân bản; khi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nạn nhân trên biển cả trong bao tủi nhục đắng cay; khi cả khối dân Việt tại quốc nội phải sống trong một xã hội hoàn toàn băng hoại, bị cai trị bởi một chính thể đã bị đào thải trong thế giới tiến bộ; khi những người dân lưu vong tại hải ngoại chưa có cơ hội đóng góp vào tiến trình canh tân đất nước. Đây chẳng phải là những mệnh đề của người nhìn dưới lăng kính của kẻ chiến bại hay một nhóm người còn mang đầu óc hận thù chia rẽ. Nhưng đây là những bế tắc của lịch sử mà chỉ khi được khai thông mới mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.”
Thời sự dưới ánh sáng Lời Chúa
Ngày 30 tháng 04 thường rơi vào Mùa Phục Sinh là thời gian Giáo Hội mừng Chúa Ki-tô sống lại. Cũng như các cộng đoàn Do-thái lúc bấy giờ, cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi tiếp tục đọc Lời Chúa, nhưng từ nay, đọc dưới ánh sáng Chúa Ki-tô phục sinh. Câu Thánh Vịnh: “Tảng đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 117,22) không chỉ là một câu nói văn vẻ, nhưng qua cuộc thương khó của Chúa Ki-tô, rồi đến việc Ngài từ cõi chết phục sinh thì các Ki-tô hữu đã hiểu ra ai là thợ xây, ai là tảng đá. Đến lượt Đức Cha hôm nay cũng vậy, Đức Cha không chỉ đọc Lời Chúa và dừng lại đó, nhưng đã đem Lời Chúa chiếu soi các câu chuyện thời sự để nhận ra ai là thợ xây, ai là tảng đá. Con không có khả năng rút gọn mà chỉ xin phép trích dẫn nguyên văn: “Trong bối cảnh của đất nước chúng ta hôm nay, ‘người thợ xây’ là ai nếu không phải là chế độ phi nhân vong bản; ‘người thợ xây’ là ai nếu không phải là những công cụ đàn áp cưỡng chiếm đất đai của người dân vô tội như công an, cảnh sát cơ động và côn đồ. Và ‘phiến đá bị họ loại bỏ’ là ai nếu không phải là những người đấu tranh cho công lý và sự thật, là người giáo dân Thái Hà với lá cây vạn tuế, là Đồng Chiêm với một cây thánh giá, là Cồn Dầu với một nghĩa trang thiêng liêng, là anh Việt Khang với một bài ca ái quốc, hay là dân oan với chỉ những tiếng kêu than vô vọng…”
Thán phục lòng yêu nước
Chắc hẳn sau bài giảng của Đức Cha, sẽ có không ít người kể cả trong hàng giáo phẩm Việt Nam, trề môi bảo: “Ông ấy không sống tại Việt Nam, muốn nói gì mà chẳng được!” Trước hết, theo con biết, trong số các linh mục và giám mục Việt Nam hải ngoại, rất ít người công khai lên tiếng về hiện tình đất nước. Còn giả sử hôm nay Đức Cha đang sống ở trong nước, trong tư cách một Giám Mục, liệu Đức Cha có nói năng thẳng thắn và mạnh mẽ như Đức Cha đã làm không thì không ai biết. Nhưng điều không thể hoài nghi là qua bài giảng của Đức Cha, ngoài tính thẳng thắn và can đảm, Đức Cha còn cho thấy lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước, với người nghèo, người bị áp bức, bóc lột, gắn bó với tiền đồ của tổ quốc. Nếu vì chịu áp lực quá nặng mà các Giám Mục sống tại Việt Nam không dám mạnh mẽ lên tiếng bênh vực công lý, bênh vực tự do dân chủ, thì ít ra người dân cũng có quyền chờ đợi nơi các ngài nếu không phải là một sự dấn thân mạnh mẽ thì ít là một sự thông cảm, một sự nâng đỡ, đặc biệt đối với nạn nhân của bất công, tham nhũng, một sự gắn bó với tiền đồ của tổ quốc. Khi hoạ mất nước như thanh gươm treo lơ lửng trên đầu mỗi người Việt Nam mà Giáo Hội Công Giáo chỉ lo xây cất với lễ lạc, không mảy may có chút ưu tư với sự sống còn của dân tộc, liệu chúng ta có xứng đáng nhận mình là người Việt Nam? Chính lòng yêu tổ quốc, yêu đồng bào cùng với lòng tin của người Ki-tô hữu đã khiến Đức Cha thốt lên: “Như Thiên Chúa đã thực hiện qua sự khổ nhục, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, Ngài cũng sẽ thực hiện nơi những ai đứng về phía của công lý và sự thật. Chúng ta hãy vững tin và liên đới với nhau trong cùng một lý tưởng, một giấc mơ, một mục đích là ngày khải hoàn của chân thiện mỹ trên quê hương mến yêu.”
Xin cám ơn Đức Cha đã cho con tấm gương xán lạn của người mục tử dám hy sinh vì đoàn chiên, một chứng nhân kiên cường của công lý và sự thật, một người Việt Nam dù sống nơi xứ lạ quê người, vẫn nặng lòng với đồng bào, với quê cha đất tổ.
Kính thư,
Sài Gòn, ngày 04 tháng 05 năm 2012
Trước khi viết lá thư này, con đã ngần ngại. Đức Cha là linh mục Việt Nam thứ ba ở hải ngoại, và là người đầu tiên tại Úc được bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá. Ngay từ lúc thông tin này được loan tải, Đức Cha đã lôi kéo sự chú ý của công luận, từ phù hiệu của Đức Cha trong đó có lá cờ vàng ba sọc đỏ, đến những lời tuyên bố qua đó Đức Cha công khai nhìn nhận căn cước vượt biên tỵ nạn cộng sản của mình mà có thời bị xem như cặn bã của xã hội. Trong tư thế một ngôi sao đang lên của Đức Cha mà một linh mục ở tuổi về hưu như con, dám mon men ngỏ lời lại chẳng hoá ra “thấy người ta sang bắt quàng làm họ” hay sao, cho dù thực sự Đức Cha cũng như con, đều thuộc dòng họ Phan, con cái thánh Phan-xi-cô Át-xi-di. Nhưng yếu tố cuối cùng đã khiến con mạnh dạn viết thư này, chính là bài giảng của Đức Cha tại một nhà thờ bên Úc nhân ngày 30 tháng 04 vừa qua, ngày mà Đức Cha đau đớn gọi là ngày “quốc nạn”.
Thú thật với Đức Cha, con sợ bài giảng của các giám mục lắm. Cứ ý như là có mũ, có gậy rồi, muốn phán gì cũng được, dài bao nhiêu cũng được, có ai dám cãi đâu! Đến nỗi có anh em linh mục tuyên bố: “Biết ông đó sẽ chủ tế, tôi sẽ không đồng tế nữa!”. Có vị khi giảng chỉ nói toàn những chuyện thiêng liêng cao cả trên chín tầng mây, vị khác nữa, chữ nghĩa thì nhiều, ý tứ chẳng bao nhiêu. Sơ sơ vậy để Đức Cha hiểu cho tại sao con dị ứng.
Dám nói thẳng, nói thật
Điểm đầu tiên đáng chú ý trong bài giảng của Đức Cha, theo con, đó là tính thẳng thắn và lòng can đảm. Điều hiển nhiên là Đức Cha không né tránh, không nói vòng vo tam quốc, kiểu ba phải, huề cả làng theo chiêu bài “đối thoại” và “hợp tác” ! Đức Cha đã không ngần ngại gọi ngày 30 tháng 04 năm 1975 là ngày “Quốc Nạn”, khởi đầu cho bao đau thương, bao tai hoạ xảy đến cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam. Khi đề cập đến “những bế tắc của lịch sử”, Đức Cha không chỉ làm một thứ bảng liệt kê ngắn gọn nhưng đầy đủ các biến cố đau thương khởi đi từ ngày 30 tháng 04 năm 1975, nhưng còn vạch mặt chỉ tên những tác nhân của các biến cố đó. Vì không thể rút gọn hơn được, con xin phép trích dẫn đoạn này: “Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một khúc ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận đại. Nó cũng đánh dấu một bế tắc dẫn đến một sự băng hoại toàn bộ cho cả đất nước và dân tộc Việt Nam. Khi bao nhiêu bom đạn của cuộc chiến ý thức hệ đã gây chết chóc thương tích và tàn phá trên những người dân vô tội; khi bao nhiêu những chiến sĩ bỏ mình nơi chiến trận, phơi thây không một nấm mồ hay chết dần mòn tức tưởi trong các trại cải tạo; khi những thương phế binh bị ruồng bỏ trong một xã hội vô nhân bản; khi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nạn nhân trên biển cả trong bao tủi nhục đắng cay; khi cả khối dân Việt tại quốc nội phải sống trong một xã hội hoàn toàn băng hoại, bị cai trị bởi một chính thể đã bị đào thải trong thế giới tiến bộ; khi những người dân lưu vong tại hải ngoại chưa có cơ hội đóng góp vào tiến trình canh tân đất nước. Đây chẳng phải là những mệnh đề của người nhìn dưới lăng kính của kẻ chiến bại hay một nhóm người còn mang đầu óc hận thù chia rẽ. Nhưng đây là những bế tắc của lịch sử mà chỉ khi được khai thông mới mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.”
Thời sự dưới ánh sáng Lời Chúa
Ngày 30 tháng 04 thường rơi vào Mùa Phục Sinh là thời gian Giáo Hội mừng Chúa Ki-tô sống lại. Cũng như các cộng đoàn Do-thái lúc bấy giờ, cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi tiếp tục đọc Lời Chúa, nhưng từ nay, đọc dưới ánh sáng Chúa Ki-tô phục sinh. Câu Thánh Vịnh: “Tảng đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 117,22) không chỉ là một câu nói văn vẻ, nhưng qua cuộc thương khó của Chúa Ki-tô, rồi đến việc Ngài từ cõi chết phục sinh thì các Ki-tô hữu đã hiểu ra ai là thợ xây, ai là tảng đá. Đến lượt Đức Cha hôm nay cũng vậy, Đức Cha không chỉ đọc Lời Chúa và dừng lại đó, nhưng đã đem Lời Chúa chiếu soi các câu chuyện thời sự để nhận ra ai là thợ xây, ai là tảng đá. Con không có khả năng rút gọn mà chỉ xin phép trích dẫn nguyên văn: “Trong bối cảnh của đất nước chúng ta hôm nay, ‘người thợ xây’ là ai nếu không phải là chế độ phi nhân vong bản; ‘người thợ xây’ là ai nếu không phải là những công cụ đàn áp cưỡng chiếm đất đai của người dân vô tội như công an, cảnh sát cơ động và côn đồ. Và ‘phiến đá bị họ loại bỏ’ là ai nếu không phải là những người đấu tranh cho công lý và sự thật, là người giáo dân Thái Hà với lá cây vạn tuế, là Đồng Chiêm với một cây thánh giá, là Cồn Dầu với một nghĩa trang thiêng liêng, là anh Việt Khang với một bài ca ái quốc, hay là dân oan với chỉ những tiếng kêu than vô vọng…”
Thán phục lòng yêu nước
Chắc hẳn sau bài giảng của Đức Cha, sẽ có không ít người kể cả trong hàng giáo phẩm Việt Nam, trề môi bảo: “Ông ấy không sống tại Việt Nam, muốn nói gì mà chẳng được!” Trước hết, theo con biết, trong số các linh mục và giám mục Việt Nam hải ngoại, rất ít người công khai lên tiếng về hiện tình đất nước. Còn giả sử hôm nay Đức Cha đang sống ở trong nước, trong tư cách một Giám Mục, liệu Đức Cha có nói năng thẳng thắn và mạnh mẽ như Đức Cha đã làm không thì không ai biết. Nhưng điều không thể hoài nghi là qua bài giảng của Đức Cha, ngoài tính thẳng thắn và can đảm, Đức Cha còn cho thấy lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước, với người nghèo, người bị áp bức, bóc lột, gắn bó với tiền đồ của tổ quốc. Nếu vì chịu áp lực quá nặng mà các Giám Mục sống tại Việt Nam không dám mạnh mẽ lên tiếng bênh vực công lý, bênh vực tự do dân chủ, thì ít ra người dân cũng có quyền chờ đợi nơi các ngài nếu không phải là một sự dấn thân mạnh mẽ thì ít là một sự thông cảm, một sự nâng đỡ, đặc biệt đối với nạn nhân của bất công, tham nhũng, một sự gắn bó với tiền đồ của tổ quốc. Khi hoạ mất nước như thanh gươm treo lơ lửng trên đầu mỗi người Việt Nam mà Giáo Hội Công Giáo chỉ lo xây cất với lễ lạc, không mảy may có chút ưu tư với sự sống còn của dân tộc, liệu chúng ta có xứng đáng nhận mình là người Việt Nam? Chính lòng yêu tổ quốc, yêu đồng bào cùng với lòng tin của người Ki-tô hữu đã khiến Đức Cha thốt lên: “Như Thiên Chúa đã thực hiện qua sự khổ nhục, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, Ngài cũng sẽ thực hiện nơi những ai đứng về phía của công lý và sự thật. Chúng ta hãy vững tin và liên đới với nhau trong cùng một lý tưởng, một giấc mơ, một mục đích là ngày khải hoàn của chân thiện mỹ trên quê hương mến yêu.”
Xin cám ơn Đức Cha đã cho con tấm gương xán lạn của người mục tử dám hy sinh vì đoàn chiên, một chứng nhân kiên cường của công lý và sự thật, một người Việt Nam dù sống nơi xứ lạ quê người, vẫn nặng lòng với đồng bào, với quê cha đất tổ.
Kính thư,
Sài Gòn, ngày 04 tháng 05 năm 2012
Lm.
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
-------------------------------------------------------------
Phát
biểu của Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long trong buổi thắp nến cầu nguyện tại
Melbourne - Nov 19, 2012
Vào lúc 5 giờ chiều nay (giờ Úc Châu), tại tại
nhà thờ giáo xứ St Margaret Mary, số 51 Mitchell Street, Đức Giám mục Phụ tá
Melbourn Vencent Nguyễn Văn Long, đã dâng thánh lễ cầu nguyện cho đất nước, quê
hương và những ai đã bỏ mình vì tự do.
Trong
bài giảng lễ, ngài kêu gọi mọi người dân Việt khắp nơi trên thế giới: “Hãy liên
kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là
chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông dòng sông lịch sử để nó được chảy và
làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu. Xin Thiên Chúa chúc lành và kiện
toàn cho mọi hy sinh và nỗ lực của chúng ta, người con dân của tổ quốc trong và
ngoài nước đang khát khao và tranh đấu cho công lý. Hãy vững tin tiến về bình
minh mới, ngày mùa gặt mới của quê hương, vì “người đi gieo trong đau thương sẽ
về giữa vui cười”.
Chúng
tôi trân trọng gửi tới quý độc giả nội dung bài chia sẻ này.
-------------------------------
Kính thưa toàn thể qúy ông bà anh chị em,
Một lần nữa, ngày 30 tháng 4, ngày ghi sâu trong ký
ức của toàn dân Việt Nam như một ngày Quốc Nạn lại trở về với chúng ta, nhất là
những người Việt tỵ nạn cộng sản ở khắp nơi trên thế giới. Có nhiều người nói
rằng chúng ta không nên nhìn về qúa khứ nữa, chúng ta không nên tưởng niệm ngày
quốc nạn hay quốc hận nữa mà hãy hướng về tương lai. Có không ít người còn nói
rằng: “Việt Nam bây giờ đã đổi mới, chính thể Cộng Sản đã thay đổi với thời
đại, đâu còn gì để chúng ta phải ôn lại dĩ vãng xa xưa, hãy bắt tay vào việc
xây dựng tương lại của đất nước trong tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc”.
Nhưng làm sao chúng ta có thể tiến về tương lai nếu
chúng ta không biết nhận ra những bài học của lịch sử? Có “ôn cố mới biết tri
tân”. Tôi thiển nghĩ rằng, không ai thiết tha với vận mệnh của dân tộc Việt Nam
có thể làm ngơ trước những bài học của lịch sử. Nếu lịch sử là một dòng sông
thì những bế tắc trong chiều dài của nó phải được đả thông cặn kẽ. Lúc đó dòng
sông mới được chảy đều và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu; lúc đó
chúng ta mới mong có tương lai tươi sáng.
Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một khúc ngoặt
quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận đại. Nó cũng đánh dấu một bế tắc dẫn đến
một sự băng hoại toàn bộ cho cả đất nước và dân tộc Việt Nam. Khi bao nhiêu bom
đạn của cuộc chiến ý thức hệ đã gây chết chóc thương tích và tàn phá trên những
người dân vô tội; khi bao nhiêu những chiến sĩ bỏ mình nơi chiến trận, phơi
thây không một nấm mồ hay chết dần mòn tức
tưởi trong các trại cải tạo; khi những phương phế
binh bị ruồng bỏ trong một xã hội vô nhân bản; khi cả triệu người phải bỏ nước
ra đi, làm nạn nhân trên biển cả trong bao tủi nhục đắng cay; khi cả khối dân
Việt tại quốc nội phải sống trong một xã hội hoàn toàn băng hoại, bị cai trị
bởi một chính thể đã bị đào thải trong thế giới tiến bộ; khi những người dân
lưu vong tại hải ngoại chưa có cơ hội đóng góp vào tiến trình canh tân đất
nước. Đây chẳng phải là những mệnh đề của người nhìn dưới lăng kính của kẻ
chiến bại hay một nhóm người còn mang đầu óc hận thù chia rẽ. Nhưng đây là
những bế tắc của lịch sử mà chỉ khi được khai thông mới mở ra một kỷ nguyên mới
cho dân tộc.
Kính thưa toàn thể qúy vị và nhất là các bạn trẻ,
Hôm nay chúng ta cùng “ôn cố tri tân” trong niềm
tin vào tiến trình tất yếu của lịch sử. Lịch sử sẽ đào thải những gì không còn
thích hợp. Dù có ngoan cố cưỡng lại, không ai có thể ngăn cản thế lực của lịch
sử, cũng như không chính thể nào có thể làm ngược lòng dân mà tồn tại. Hôm nay
chúng ta tưởng nhớ đến những nạn nhân trước và sau 30 tháng 4 năm 1975. Chúng
ta cùng ôn lại những bài học của lịch sử. Nhưng trên hết, chúng ta hãy góp một
bàn tay khai thông những bế tắc hầu cùng với toàn thể dân tộc mở ra một kỷ
nguyên mới cho quê hương Việt Nam.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta sự an ủi và niềm tin
vào một tương lai tươi sáng, một bình minh mà bóng tối của tà thần sẽ không chế
ngự được. Thánh Phêrô đã dùng lời Thánh Vịnh để nói với dân chúng về Đức Kitô
rằng “Phiến đá mà người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường”. “Người
thợ xây” trong bối cảnh này chính là những con người tượng trưng cho thế lực
của bóng tối và tội lỗi. “Người thợ xây” đây là Giuda, là quân dữ, là những kỳ
mục, là Philatô, là Cêsarê và đồng thời là tất cả những ai đứng về phía của sự
dữ. Họ đã loại bỏ Đức Kitô, tức là loại bỏ ánh sáng và sự sống, công lý và sự
thật cùng tất cả những giá trị nhân bản và siêu nhiên. Nhưng Đức Kitô là phiến
đá bị họ loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường. Ngài đã chiến thắng trên tà thần
và tội lỗi. Chiến thắng của Ngài vượt không gian và thời gian, để rồi những ai
đứng về phía công lý và sự thật đều được thông phần vào chiến thắng của Ngài.
Qủa thế, dù cho thế lực của sự dữ lấn án sự lành, dù cho những kẻ cường bạo
giết hại những bậc chí nhân, nhưng chúng ta có thể tin chắc vào sự viên mãn của
công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy
vọng chúng ta.
Trong bối cảnh của đất nước chúng ta hôm nay,
“người thợ xây” là ai nếu không phải là chế độ phi nhân vong bản; “người thợ
xây” là ai nếu không phải là những công cụ đàn áp cưỡng chiếm đất đai của người
dân vô tội như công an, cảnh sát cơ động và côn đồ. Và “phiến đá bị họ loại bỏ”
là ai nếu không phải là những người đấu tranh cho công lý và sự thật, là người
giáo dân Thái Hà với lá cây vạn tuế, là Đồng Chiêm với một cây thánh giá, là
Cồn Dầu với một nghĩa trang thiêng liêng, là anh Việt Khang với một bài ca ái
quốc,hay là dân oan với chỉ những tiếng kêu than vô vọng. Như Thiên Chúa đã
thực hiện qua sự khổ nhục, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, Ngài cũng sẽ
thực hiện nơi những ai đứng về phía của công lý và sự thật. Chúng ta hãy vững
tin và liên đới với nhau trong cùng một lý tưởng, một giấc mơ, một mục đích là
ngày khải hoàn của chân thiện mỹ trên quê hương mến yêu.
“Ta là mục tử nhân lành. Ta hiến mạng sống vì chiên
ta”. Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay nói lên một chân lý bất hủ là chỉ có tình
yêu hiến thân cho người khác mới là lẽ sống của người tín hữu. Sứ mạng của Đức
Kitô cũng chính là hiến thân để sự sống viên mãn được thể hiện nơi con người.
Hôm nay, một cách đặc biệt, chúng ta tưởng nhớ đến những người con của tổ quốc
đã vì nước vong thân. Họ đã chẳng màng danh vọng, vinh quang, phú qúy hay
trường thọ. Họ hy sinh chính mạng sống ngay trong tuổi thanh xuân để quê hương
có ngày tươi sáng. Chúng ta nghiêng mình kính cẩn trước những gương anh linh
của tổ quốc. Chúng ta hãy cùng nhau hướng về mục đích mà chính họ đã làm những
viên gạch lót đường: đó là sự sống viên mãn cho tha nhân, sự phục hưng cho dân
tộc và sự trường tồn của cơ đồ tổ quốc.
Kính thưa qúy ông bà anh chị em,
Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một ngày quốc hận hay
quốc nạn. Nó là ngày mà chúng ta, nhất là những thế hệ trẻ phải “ôn cố tri
tân”. Nó là ngày chúng ta cùng động viên tranh đấu cho một tương lai Việt Nam
tươi sáng hơn.
Trong tinh thần Phục Sinh, người tín hữu chúng ta
nhìn vào biến cố lịch sử đó như là đoạn đường chúng ta phải đi để tiến vào
tương lai vinh thắng. Chúng ta phải can trường bước theo con đường mà các anh
hùng hào kiệt đã đi trước chúng ta, vững tin vào sự viên mãn của công lý và sự
thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta.
Hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và
gian ác là chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông dòng sông lịch sử để nó
được chảy và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu. Xin Thiên Chúa chúc
lành và kiện toàn cho mọi hy sinh và nỗ lực của chúng ta, người con dân của tổ
quốc trong và ngoài nước đang khát khao và tranh đấu cho công lý. Hãy vững tin
tiến về bình minh mới, ngày mùa gặt mới của quê hương, vì “người đi gieo trong
đau thương sẽ về giữa vui cười”.
+ Gm. Vincent Nguyễn Văn Long
---------------------------
Thông
báo về thánh lễ cầu nguyện cho quê hương nhân ngày 30/4
Theo
thông báo của Cộng đồng giáo dân Úc Châu, để đánh dấu 37 năm Miền Nam Việt Nam
rơi vào tay cộng sản, Đức Giám mục Phụ tá Melbourn Vencent Nguyễn Văn Long, sẽ
dâng thánh lễ cầu nguyện cho đất nước, quê hương và những ai đã bỏ mình vì tự
do.
.
.
.
No comments:
Post a Comment