Người Việt Online
Saturday, January 16, 2016 4:31:21 PM
HÀ NỘI
(NV) - Việt Nam vẫn xác định nông nghiệp là một trong những “trụ cột của nền
kinh tế” (chiếm 20% GDP) song năm vừa qua, tốc độ tăng GDP của lĩnh vực này thấp
đến mức đáng ngạc nhiên.
Trong
báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam năm 2015, Tổng Cục Thống Kê của Việt
Nam cho biết, tốc độ tăng GDP của nông nghiệp Việt Nam chỉ có 2.41%. Đây là mức
tăng thấp nhất trong vòng năm năm vừa qua.
Nói
cách khác, tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp tiếp tục sụt giảm vì khả năng cạnh
tranh càng ngày càng kém. Tất cả các nông sản xuất cảng đều giảm cả về số lượng
lẫn giá trị. Bao gồm cả những loại nông sản được xem là “chiến lược” như gạo,
thủy sản, cà phê.
Phương
thức cạnh tranh duy nhất của Việt Nam trong xuất cảng nông sản là giảm giá.
Phương thức này được xem là đã vượt quá khả năng chịu đựng của nông dân. Bởi
nuôi, trồng thứ gì, loại nào cũng lỗ, thậm chí mực độ thua lỗ càng ngày càng lớn,
nông dân thi nhau bỏ ruộng, phá vườn, lấp ao.
Điều
này khiến các doanh nghiệp chế biến nông sản, thủy sản thiếu nguyên liệu để sản
xuất hàng hóa cung ứng cho cả thị trường nội địa lẫn xuất cảng. Cũng vì vậy,
các khoản chi cho việc nhập cảng nông sản, thủy sản càng lúc càng lớn. Năm
ngoái, riêng nhập cảng thủy sản, Việt Nam đã phải chi ra hơn một tỷ Mỹ kim.
Chi phí
nhập cảng các loại nguyên liệu khác như đậu nành, bắp, hoặc rau củ, trái cây...
làm thực phẩm cũng tăng vọt - tương đương bốn tỷ Mỹ kim, gấp 1.4 lần so với số
Mỹ kim thu về nhờ xuất cảng gạo.
Nhiều
chuyên gia đã từng cảnh báo, bởi nông nghiệp là lĩnh vực nuôi sống khoảng 60%
dân số Việt Nam. Khi sức cạnh tranh giảm, nông nghiệp xiêu vẹo, nông dân không
thể sống, hậu quả về kinh tế và xã hội sẽ khó có thể lường nhưng chính quyền Việt
Nam chỉ đưa ra các tuyên bố nghe thì rất kêu nhưng không có hiệu quả.
Chẳng hạn
dù chính quyền Việt Nam liên tục giới thiệu hang loạt chính sách được tuyên
truyền là “ưu đãi” nhằm phát triển “tam nông” (nông dân-nông thôn-nông nghiệp)
nhưng năm 2000, đầu tư vào nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) chỉ
chiếm 4.7% GDP, đến năm 2005 giảm xuống còn 3.1%, năm 2010 còn 2.4% và năm 2012
chỉ còn 1.6%,...
Hồi 2001,
vốn đầu tư của ngoại quốc (FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 8% tổng vốn
FDI vào Việt Nam. Cho dù Việt Nam là quốc gia nằm trong nhóm những quốc gia xuất
cảng gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su... nhiều nhất thế giới nhưng đến năm ngoái,
FDI vào nông, lâm, ngư nghiệp chỉ còn khoảng 1.46% tổng vốn FDI vào Việt Nam.
Một số
chuyên gia khẳng định, giới đầu tư ngoại quốc không mặn mà với việc rót tiền đầu
tư vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam một phần vì Việt Nam thiếu chiến lược
phát triển nông nghiệp một cách rõ rang, ổn định, phần khác vì hạ tầng giao
thông thiếu đồng bộ, môi trường đầu tư, thủ tục hành chính nhiêu khê và phải
chi quá nhiều khoản phi chính thức. Chẳng hạn muốn nuôi, mổ, chế biến một con
gà, doanh nghiệp phải nộp tới... 14 loại phí! Hoặc giấy phép kiểm dịch trứng chỉ
có giá trị... một ngày, kiểm dịch trứng làm giá bán trứng... tăng thêm 50 đồng/trái.
Việc gọi là kiểm dịch đối với mật ong và con giống trong lĩnh vực thủy sản chỉ
được thực hiện theo kiểu “ngó qua, giao giấy rồi thu tiền”... Giới đầu tư ngoại
quốc không dại để dấn vào một lĩnh vực có quá nhiều bất cập và phi lý như thế.
Đó cũng
là lý do khiến nông dân Việt Nam đi từ nghèo tới mạt. Trực tiếp làm ra nông sản,
thủy sản song cuộc sống của họ Việt Nam luôn luôn bấp bênh vì có tiêu thụ được
sản phẩm hay không (?), bán được rồi thì tiền thu về có đủ bù cho những chi phí
và công sức đã bỏ ra hay không là những chuyện họ không thể biết và cũng chẳng
có ai bảo đảm. (G.Đ)
-----------------
Bài liên quan
No comments:
Post a Comment