10/01/201613:43:00
ĐẤT
NƯỚC LÂM NGUY
Phan
Thị Trọng Tuyến
.
.
Trong
quá khứ, Việt Nam từng dài lâu gian nan chật vật đối đầu giặc xâm lấn Nguyên
Mông Hán nhưng có lẽ chưa bao giờ nguy cơ mất nước lại rõ ràng như ngày nay. Kẻ
thù xưa, càng lúc càng phát triển, lớn mạnh, và người Việt càng suy đồi,
yếu kém.
Làm sao
ra khỏi nguy cơ bị mất nước, thoát nạn bị tộc Hán đồng hoá ? Hầu như ai cũng đồng
ý với đề nghị : Phải cải tiến đất nước, phải làm cách mạng kinh tế, chính trị,
văn hoá, giáo dục! Phải thay đổi con người.
Hơn 100
năm trước, Phan Châu Trinh phát động phong trào Khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh. Và cách đây 70 năm, đảng cộng sảnViệt
Nam với Hồ Chí Minh và nhất là Lê Duẩn tổng bí thư đảng từ
1960 đến 1986 hứa hẹn làm cuộc cách mạng long trời lở đất : Xây dựng nền
văn hoá mới, con người mới, xã hội chủ nghĩa. Chính ông tổng này tuyên
bố “ta không được phép..sợ người Trung Quốc” !
Chuyện
gì đã xảy ra khiến chỉ hơn ba mươi năm sau, thậm chí chỉ 20, 10 năm thôi, mọi sự
đổi thay nhanh chóng : vua Tàu thân chinh qua nước Việt răn đe dụ dỗ và vua
chúa dân quân quan lại Việt kéo nhau lần lượt sang chầu vua Hán, thần phục đến
mức độ ký mật ước xin làm hàng thần, xin hiến đất nước Việt làm một vùng tự trị,
một tỉnh của Tàu?
Nếu quả
thật là như thế thì những người Việt này hiểu gì về thân phận chư hầu, mơ màng
tơ tưởng điều gì cho số phận dân tộc và đất nước Việt Nam dưới cái tên đẹp đẽ vùng
tự trị của...Trung cộng?
Làm sao
có thể học hỏi được cái tiến bộ vượt bực của nước Tàu để cải tiến đất nước mà
giữ nguyên bản sắc, không cần phải trở thành người Tàu và bằng cách nào đối phó
với âm mưu bành trướng hung hăng ngạo mạn của họ ? Làm sao hiểu thái độ đa số
người dân và lãnh đạo Việt Nam : thần phục thiên triều, thờ ơ với vận mạng đất
nước ?
Vì sao
có đổi thay đột ngột này ? Không tự vấn sao được khi phần lớn các nước trên thế
giới đều tiến bộ ít nhiều trong các lãnh vực khoa học, kinh tế, xã hội văn hoá,
và con người nói chung tích tụ được những bài học lớn để áp dụng thích ứng vào
cuộc sống chung nhân loại trong lý tưởng hoà bình hạnh phúc mà VN và
Tàu đều ở bên ngoài giới hạn lý tưởng bình thường đó.... Tâm thức và lý trí
con người Tàu và Việt có tiến triển theo đà thế giới ? Những bài học năm xưa được
lãnh hội ra sao ?
Nếu bị
người Tàu đô hộ, dân mình, nước ta sẽ ra sao ? Nhiều người quá cùng quẫn, toan
tính thà làm dân Hán giấy, nô lệ, chư hầu của Tàu giàu có hơn làm dân nước Việt
tự do, nghèo nàn thiếu ăn. Có phải cuộc sống đầy bất công và khó khăn thêm vào
những thất vọng về hoà bình thống nhất đã khiến nhiều người không còn lòng tin
vào chính mình, vào dân tộc và tổ quốc ? Có phải ván cờ đã xong, chẳng còn thế
trận nào khác nữa?
Chúng
ta thử tìm nguyên nhân sự phát triển và âm mưu bành trướng của người Tàu
và nhất là suy tư về thân phận chư hầu hiện nay của các nước thuộc vùng tự trị
Trung quốc.
Biết
mình biết người để tự thay đổi và tiến lên.
I- Sức
mạnh Hán tộc và âm mưu thôn tính lân bang
A. Đại
quốc Trung Hoa và nước nhỏ Việt Nam : hai ngàn năm lịch sử láng giềng
Đứng
trước quốc gia khổng lồ với diện tích 9,6 triệu km² đông dân nhất (nhì?) trên
thế giới với vận tốc phát triển chiếm hàng đầu về quân sự, thương mại và cả về
thành tích lấn chiếm lân bang, làm sao có thể cả gan không “ hèn với giặc ” khi
bị láng giềng này trấn áp ?
Hình 1 Bản đồ China đời nhà Đường
Không chỉ nước Việt mà rất nhiều nước khác, trải thảm đỏ đón rước đại diện Tàu hòng giữ chân khách mua và bán rất “sộp” này[1].
Thật
ra muốn biết rõ hiện tại có lẽ phải đi ngược xa hơn nữa, khi cả hai còn sống
trong tăm tối lệ thuộc, để so sánh kết quả khác nhau của thay đổi ngoạn mục sau
hơn vài trăm năm, nhất là sau 40 năm trở lại đây : một bên tiến bộ vượt bực,
lãnh thổ tăng gấp đôi diện tích (hình 1), chế bom nguyên tử, cung cấp cho thế
giới khoảng 90 % hàng hoá đủ loại từ đồ chơi trẻ con, thức ăn đến hoả tiễn, nhà
máy (lò) điện nguyên tử, vệ tinh nhân tạo[2]; một bên thì thống nhất mà teo tóp mất đất mất rừng mất biển,
mất cả lòng (thương) người (và được người thương). Chuyện gì đã xảy ra cho người
Việt?
Hình 2
Bản đồ China thế kỷ 19
1) Thành
tựu lớn lao của Tàu :
Vào thế
kỷ 13, vua Möngke Khan xứ Mông Cổ sai em là Kubilai (Hốt Tất Liệt, cháu
Thành Cát Tư Hãn Gengis Khan) sang đánh nước Tàu. Một đạo quân được đưa xuống
phía nam để đánh chiếm Đại Lý rồi đánh luôn tới Đại Việt của vua Trần Thái Tông[3]. Sau khi lên ngôi và lập nên nhà Yuan
(Nguyên), Kubilai chiếm nốt nam Tàu của nhà (Nam) Tống. Và từ đất mới chiếm
này, với quân lính mới này, họ lại sửa soạn đánh Đại Việt[4]. Mấy lần đánh sang Đại Việt trong vòng vài năm
1285-1288, quân Tàu của triều đại Nguyên Mông này đều thất bại.
Người
Tàu (không gốc Hán) Zhu Yuan Zhang (Chu Nguyên Chương) lật đổ nhà Nguyên lập ra
nhà Ming (Minh - từ thế kỷ 14 đến 16), qua cuối thế kỷ đến lượt người Mãn
Châu diệt nhà Ming lập thành nhà Qing (Thanh), cai trị nước Tàu.(
hình 2)
Cái hận
bị bọn Bắc địch cai trị này chắc người gốc Hán thứ thiệt khó quên được.
Khi bị
các đế quốc phương Tây chia nhau ức hiếp (cuộc chiến tranh nha phiến) nhà Mãn
Thanh phải ký hoà ước cho họ vào Tàu buôn bán tại 5 cửa biển. Riêng nước Anh
chiếm Hongkong. Về sau đánh nhau với Anh, Pháp vì chuyện cấm đạo và buôn bán với
phương Tây, nhà Thanh phải nhường Pháp quyền bảo hộ nước An Nam (Hoà ước Thiên
Tân (Tien-Tsin) ký vào năm 1884 và 1885. Nước Việt không phải triều
cống Tàu nữa nhưng bị tròng vào cổ cái ách thực dân Pháp.
Năm 1911, lật đổ nhà Thanh, nước Trung Hoa dân quốc ra đời vào năm sau và từ 1927 bắt đầu cuộc nội chiến quốc - cộng Mao -Tchang (Tưởng) ( Mao Zedong - Tchang Kaï-chek) đến 1945 từ đó cho đến 1949 (khi Tưởng bỏ đại lục ra đảo Taiwan) được sử Tàu gọi là cuộc chiến tranh giải phóng.
Năm 1911, lật đổ nhà Thanh, nước Trung Hoa dân quốc ra đời vào năm sau và từ 1927 bắt đầu cuộc nội chiến quốc - cộng Mao -Tchang (Tưởng) ( Mao Zedong - Tchang Kaï-chek) đến 1945 từ đó cho đến 1949 (khi Tưởng bỏ đại lục ra đảo Taiwan) được sử Tàu gọi là cuộc chiến tranh giải phóng.
Chưa đầy
40 năm sau, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã nhảy một bước
dài và cao, tả xông hữu đột, dùng bạo lực (và cổ sử )
đánh Ấn, giành đảo của Nga, chiếm Tibet, sát nhập
Mông Cổ,[5] thổi cuồng phong cách mạng văn hoá chính trị, nên chỉ cần vài
(trăm ?) chục triệu người chết, biên giới cũ từ thời cổ đại (nhà Đường chẳng hạn)
từ phía Bắc sông Dương Tử, được bung cột mốc ra tứ phía. Trả thù người đại
Mông, Mãn, Tạng đã từng đô hộ tộc Hán bấy lâu nay.
Sau Mao, Deng Xiao Ping cho phép dân Tàu dùng mèo trắng mèo đen bắt chuột,
nghĩa là bắt tay /bắt chước (ăn cắp) tư bản chứ không thèm độc quyền giao du với
cộng sản anh em. Bên cạnh những cải tổ về tổ chức kinh tế, thương mại, khuyến
khích địa phương làm giàu, kỹ nghệ nặng và các doanh nghiệp nhà nước cũng phát
triển nhanh chóng (bất kể môi sinh, đạo lý mà “bọn tư bản” đã từng
“gãy răng sứt mũi” tìm phương cách sửa chữa tôn trọng) khiến cho Trung cộng chỉ
trong vòng vài thập niên trở nên cường quốc kinh tế và quân sự nhất nhì trên thế
giới. Hàng trăm triệu phú và tỷ phú Tàu mua đủ thứ của thế giới : quặng mỏ, đồn
điền ruộng nho làm rượu, đại công ty thuộc mọi ngành nghề từ du lịch, thuốc
men, mỹ phẩm, y phục, (chơi/mua) đồ cổ, tranh cổ, lâu đài cổ, đến hội hoạ âm nhạc
điện ảnh, thể thao, đến kỹ nghệ nặng xe cộ máy bay chiến hạm lò
nguyên tử (hạt nhân).
Về văn
hoá, du lịch họ cũng làm thế giới kinh ngạc, thán phục[6], người Tàu vực dậy ông Khổng Tử mà Mao đã chôn khi làm cuộc
cách mạng văn hoá hơn nửa thế kỷ trước. Họ xin lập viện nghiên cứu Nho học khắp
nơi trong những trao đổi/chưng bày văn hoá với các nước khác[7]như một thứ áo mão hương xa mời gọi nhiều bí ẩn nhưng che đậy một
ý đồ chinh phục...cũng chẳng mới mẻ.
Thế là
Mao, Deng đã xây xong một thứ vạn lý trường thành quanh các vùng biên giới mới
đông tây nam bắc để “ tự vệ, đề phòng ngoại bang xâm lăng ”
Bức tường
này tạm thời chưa khép lại ở phía nam nơi biên giới Việt Trung, con đường và cửa
ngõ duy nhất cho Tàu tiếp tục mở rộng biên giới, bởi lòng tham của
Mao và con cháu[8], vì sự yếu kém của nước Việt ngày nay.
2) Và
những đổi thay cho thân phận tộc Việt:
Thật ra
tuy có đổi thay ngoạn mục sau cuộc chiến[9], nhờ dân số tăng, nhờ sức sống và môi trường thanh bình, nhưng
nước Việt luôn luôn nhỏ bé và yếu kém khác biệt về mọi mặt so với Tàu. Lãnh thổ
Việt ( khoảng 331000 km2) còn nhỏ hơn các tỉnh Tàu cỡ trung bình như Vân Nam,
Cam Túc..;dân số cũng nhỏ bé, của cải làm ra theo đầu người chỉ hơn mươi
nước Phi châu, chỉ riêng con đường chính trị và lịch sử rất giống Tàu :
* chiến tranh giải phóng khỏi tay đế quốc, *cải cách ruộng đất (miền Bắc rồi cải
tạo tư sản miền Nam)[10], *cuộc nội chiến quốc cộng Bắc Nam[11], chết vài triệu người anh em ruột thịt[12] và 58 000 lính Mỹ ( và một số nhỏ quân dân các nước
tư bản bảo vệ miền Nam thời bấy giờ như Úc, Tân Tây Lan, Đại (Nam) Hàn, Thái
Lan và Phi Luật Tân...),* áp dụng chủ nghĩa xã hội (theo định hướng...tư bản, sự
thật là kiểu tư bản đỏ vì tất cả trong tay đảng và đảng viên)* theo đường lối
tôn thờ cá nhân ( Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn).
Doanh
nghiệp nhà nước Việt luôn thua lỗ[13] chỉ lãnh đạo doanh nghiệp hay thanh tra mới giàu có !
Tình
hình Việt bị lệ thuộc Tàu đến mức báo động : người Tàu thống lĩnh (?)
trăm sự từ chính trị đến kinh tế, lũng đoạn xâm lấn mọi lãnh vực trong chiều hướng
xấu cho người Việt : chi phối các cuộc chuẩn bị chia ghế đại hội đảng, ký kết
các hiệp định, hiệp thương bất bình đẳng, tràn ngập hàng hoá đủ loại để giết chết
thương mại địa phương, phá rừng lấy gỗ, làm những dự án với phí tổn cao nhưng
vô ích và mang tính chất phá hoại : đào cát lấp sông, xây xa lộ xuyên Trường
Sơn, xây phi trường, khai thác mỏ bauxite, xây những vùng kinh tế hay quân sự
trá hình nơi yếu điểm hay trọng điểm chiến lược ngoài tầm mắt của dân Việt, “ cải
tạo ” đảo[14](hình 3&4). Đó là những dấu vết bên ngoài, bên
trong là những tàn phá nền tảng xã hội và văn hóa, truyền thống Việt qua những
viện trợ, trao đổi văn hoá và giáo dục có tính cách lũng đoạn[15]Đến năm nay thì nhà nước Việt tuyên bố hết tiền, sắp vỡ nợ.
Màn kịch sau cùng để nhà Xi ra tay nghĩa hiệp ? Kết quả kinh hoàng cho người Việt
: tài nguyên cạn kiệt, người tài tận tuyệt, văn hoá tan tành, lịch sử là con số
không.
Hình 3&4 : Tàu đòi đường lưỡi bò và
vùng họ lấn chiếm đảo Việt trên biển từ 1974- 2009.
(Tài liệu wikipedia)
B. Ngày nay
: Âm mưu Đại Hán và sự đầu hàng của lãnh đạo Việt
1) Âm
mưu bành trướng về phương nam và tham vọng đế quốc này được Việt Nam lớn
tiếng tố cáo sau khi quân Tàu đồng loạt tấn công vào các tỉnh biên giới Việt
Nam vào tháng 2 năm 1979. Vừa quân lính vừa dân công hơn nửa triệu, họ tràn vào
đánh, giết dân Việt, san bằng triệt để và có hệ thống các cơ sở văn hoá xã hội
trong thành phố.
Cuộc
xâm lăng này, mỉa mai thay đem một chút tin tưởng hão huyền vào sự độc lập tự
chủ của nước Việt Nam, vì theo kinh nghiệm lịch sử miền Nam ngày xưa, dù
đường ngoại giao tốt đẹp với Đài Loan, Hồng Kông, người Việt (Nam) vẫn
luôn cảnh báo dè chừng Trung Cộng[16]. Nhất là khi Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa năm
1974. Năm 1979 có cả những người trẻ Pháp gốc Việt trong Hội người Việt
tại Pháp ghi tên tình nguyện về nước đầu quân đánh giặc bành trướng!.
Kháng cự
dũng cảm, mạnh mẽ lần xâm lăng thứ 14 này[17], phải chăng là một chút tự hào hay sức mạnh dân tộc còn lưu lại,
không lẽ là cuộc chống trả sau cùng của tộc Việt ?
Hơn
nửa thế kỷ trước, vào tháng 9 năm 1949, khi đọc diễn văn chuẩn bị xua quân tiến
chiếmTibet, Mao Zedong hùng hồn (răn đe thế giới) :chúng ta, tám trăm
triệu (800 000 000) người “quyết tâm”. Khi đó ông ta cũng đồng thời
bình định Nội Mông, Tân Cương và cả tàn dư nguỵ gốc Tàu thuộc quốc dân đảng,
tư sản mại bản, phản động trong nước Tàu. Cũng như lăm le nuốt Taiwan.
Giờ
đây, tuy là một trong 5 nước cộng sản vỏn vẹn trên thế giới nhưng thế giới sẽ
tính sao với một tỷ rưỡi người ( Tàu gốc Hán ?![18]) quyết tâm, nhất trí Hán hoá thế giới ?
Thật vậy,
công việc bình định và Hán hoá vừa xong tại các vùng đất mới, ông Xi Jingping kế
tục Mao, vừa cho phép toàn thể nhân dân “đẻ thêm đứa nữa”[19], chưa tính đến đội quân trong các con ngựa thành Troie khả dĩ
trên khắp địa cầu, thế giới này sẽ ra sao nếu họ tiếp tụcnhất trí
quyết tâm với Xi, nên cần nhớ đến lời Mao nói trên lần nữa.
Tại sao
không, nếu tộc Hán “hoà gien “ cho 6 tỉ người trên địa cầu này cùng sống đẹp, sống
nhân hoà thì chắc ai cũng đồng thuận, khổ nỗi, sự thật lịch sử, các hình ảnh
phóng sự về đất nước và con người của xứ vĩ đại này không đem lại ước ao mong
được như họ...
Thời đại mới phương cách mới. Trung Quốc muốn mở rộng vùng ảnh hưởng xuống Đông
Nam Á, nơi sinh sống lập quốc của hậu duệ Trăm Việt cổ đại, bằng những thủ
đoạn khác nhau, từ đường hoàng hợp tác kinh tế, ký kết kẻ cả anh em viện trợ, cổ
võ hợp tác nghiên cứu giáo dục văn hóa, đẩy mạnh thương mại (một chiều), làm đường
xá, khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân bang đi lại
không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh đạo chính trị
của các nước này, nhất là Việt Nam theo bằng chứng và lời đồn đại khả tín[20].
Sau
khi đưa củ cà rốt (bánh bao), ông Xi (như ông Putin) hươi cây gậy (thiết bảng)
: quân đội nhân dân Tàu trang bị vũ khí tối tân hiện đại, sẵn sàng chiến đấu “
để tự vệ” : đầu đạn nguyên tử, hoả tiễn liên lục địa, chiến hạm, tàu ngầm
và một đội quân mấy (chục?) triệu, anh nào cũng đánh xáp lá cà giỏi như Jackie
Chan, Jet Li (?!). Chưa kể bom nguyên tử[21] Thật là sức mạnh vô địch : Quân sự, kinh tế, chính trị,
văn hoá hùng mạnh.
Trước
đó vài mươi năm, quan trọng nhất là năm 1974 và 1988, Mao, Deng chỉ cần
giết (74+65 người) hải quân Việt, chiếm được Hoàng Sa, và phần lớn Trường Sa của
Việt Nam trong chớp mắt, bây giờ Xi với đội quân khủng khiếp này, mà chỉ bắn
súng nước, cắt cáp, cướp máy ghe đánh cá, bắt ngư dân đòi tiền chuộc, vờn ta
như mèo vờn chuột. Tại sao ? Có phải chỉ vì Tàu sợ Mỹ sợ Nhật sợ thế giới
? Hay chỉ vì VN đã nằm trong tay họ ? Thật đáng sợ. Quả là sức
mạnh vô địch ! Rồi thì sao ?
2) Sự
đầu hàng của lãnh đạo Việt
Làm sao
giải thích được tình trạng từ một nước anh hùng nhờ đảng cộng
sản lãnh đạo « nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng » thế mà chỉ sau 40 năm phục vụ đồng
bào, nay lại « hèn với giặc, ác với dân », từ quyết tâm “đốt được
cả dãy Trường Sơn” mà giờ đây không cất nổi tiếng hô « giặc vào
nhà », kỵ cả tên gọi giặc? Điều gì đã xảy ra? Chỉ sau hai mươi lăm
năm thôi, chúng ta như ông đồ Vũ Đình Liên, ngậm hờn hỏi chiến sĩ nhân tài
thiên niên cũ hồn bây giờ ở đâu, để cho hậu duệ Đại Việt của Trăm Việt
trên vùng định mệnh[22] tiếp tục bị truy đuổi đến hàng chục thế kỷ
sau, đến tận cùng biển đảo? Chế độ này đã làm gì ?
Vì sao
không dám công bố mật ước và những lời cầu xin được làm một tỉnh hay vùng tự trị
của Tàu cộng mà không hé nửa lời cho dân biết ?
Vì sao
đàn áp triệt để mọi mầm mống tố cáo Trung Quốc xâm lược ?
Khi có
người nhìn xa thấy rộng, từ hàng chục năm về trước đã nào báo động mất đảo
HS-TS-VN, nào kêu gọi nhân dân tẩy chay thế vận hội Tàu, nào phản đối Tàu tuôn
vô độ hàng hoá đủ loại, vô bổ, độc hại, mua bán bất chính, và còn ngang ngược
đem giàn khoan cắm vào hải phận Việt Nam (chắc chắn không phải chỉ để) tìm dầu
khí. Để rồi những người yêu nước ấy bị công an Việt đàn áp bắt bớ. Từ trí thức
như ký giả, luật sư, bác sĩ đến thanh niên học sinh thường dân biểu tình ôn hoà
chống Trung cộng, thậm chí dân kêu oan vì mất đất ... đều bị nhà cầm quyền Việt
trấn áp, giam cầm trong sự thờ ơ lãnh đạm của nhân dân cũng như các cơ quan báo
chí nhà nước.
Có phải
vì đảng từ lâu giành giữ độc quyền trên mọi lãnh vực, cho nên dân chúng thờ ơ với
chuyện sinh tử cực kỳ của đất nước ? Có phải chỉ vì dân đã kiệt sức vì cuộc mưu
sinh khó khăn, đã vô vọng trước chính sách phân biệt, kỳ thị, phân chia ? Có
phải vì Trung Cộng đã mua “trọn gói” các lãnh đạo Việt ?
Các hạng
lãnh đạo địa phương chỉ còn cách chảy tuôn vào những ngõ hẹp được mở ra theo mật
ước, hàng ước, lợi dụng chính sách thương mại hay viện trợ quốc tế hay giản dị
hơn : tạo cơ hội cho cắc ké kỳ nhông chia nhau vụn bánh : bóc lột sức lao động,
lợi dụng bàn tay thanh niên, và nhan sắc phụ nữ.
Nhân
dân hết nước, hết cách chỉ có thể ùa nhau đi làm dâu, đi lao động, trao đổi học
tập đàn anh Tàu, ngoan ngoãn, choá mắt trước đất nước bao la giàu có này cho dù
nó mắng mình con hoang, vô ơn bạc nghĩa. Cho dù nó bôi bác chiến thắng và anh
hùng, tiết lộ (sự thật ?) về chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 và Sài Gòn 1975, về
cả nguồn gốc Tàu (khả dĩ ?) của lãnh tụ Việt.
3) Nhân
dân vất vả xoay sở bươn chải để sống còn...
Đến khi
anh em Đoàn Văn Vươn, cựu chiến binh quân đội nhân dân VN dân chủ cộng hoà, nổ
súng (tự chế) bắn vào đội quân đi cướp đất phá trang trại... Đến khi có các tổ
chức nhân quyền ngoại quốc lên tiếng... Đến khi có không ảnh Mỹ cho thấy Tàu
xây căn cứ, sân bay trên các đảo chiếm đóng, vận chuyển lính cải trang làm ngư
phủ...bắt, giết, cướp cả dân chài Việt thì ngài Thủ tướng mới đọc diễn văn đem
chút hy vọng viển vông rồi cũng ngài tiếp tục cho công an đàn áp, bắt bớ. Ngài
còn tuyên bố quyết tâm giữ gìn tình láng giềng hữu hảo lo giải quyết song
phương như ông to nào đó cho biết : biển Đông phẳng lặng hai kinh vững
vàng [23].
Trong
khi đó người Tàu tiếp tục ra vào nước Việt như vào chỗ không người, lãnh hải,
không phận, trên diễn đàn quốc tế, họ ngạo mạn tiến tới. Vừa ăn cướp vừa la
làng
Còn sao
nữa : sơn hà Việt Nam nguy biến ! Nghe cải lương và nhàm tai (phản
động ) với người ham thân phận chư hầu hay phù Tàu, nhưng đó là sự thật
theo cái nhìn thuần Việt
Tiếng dân
thật nhỏ, thật yếu ớt, còn triều đình thì toàn là hình tướng Lê Chiêu Thống, Trần
Di Ái, Trần Nhật Hiệu...!
Không
lo, không sợ sao được khi ngườiViệt còn bị duy trì mãi trong tình hận phân chia
quốc nội / hải ngoại, Nam/ Bắc, không nhìn thấy hậu ý gian tham của kẻ thù truyền
kiếp.
Không
buồn sao được khi nghe thấy dồn dập những tiếng kêu của Bùi Thị Minh Hằng,
Đỗ Thị Minh Hạnh, Phương Uyên, Thanh Nghiên, Mẹ Nấm, Thục Vy, Đoan Trang, Trần
Thị Hài, Cấn Thị Thêu, ... như những đóa hoa giữa một rừng gươm ! Không lo sao
được khi thấy Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Việt Khang[24], ....bị tù chỉ vì nói lên mối ưu tư, đề nghị một chương trình
cho đất nước tiến lên. Và bao nhiêu người khác bị bầm dập tù đày chỉ vì muốn vẫn
là con cháu Việt tộc còn nhớ ơn tiên tổ.
4) ...Hoang
mang lo sợ...
Không sợ
sao được khi ông Xi Jingping được đảng csVN trải thảm đỏ rước vào quốc hội người
Việt, đọc một bài diễn văn[25] cho mấy trămdân biểu do đảng cử (đại diện 3
triệu đảng viên) và họ đã nhất trí đứng lên vỗ tay hoan
hô nhà Xi như đảng biểu, không một ai ngồi yên hay dám bỏ ra ngoài tỏ ý phản đối
(như hy vọng của vài người Việt mơ màng viển vông). Bỏ ra ngoài phòng họp để
bày tỏ sự bất bình hay trái ý là điều thường thấy tại nghị viện đa số các nước
dân chủ trên thế giới. Nhất trí hoan hô những lời giả dối và ngạo mạn. Hai
tiếng nhất trí lý tưởng và lạ lùng, thường trực này chỉ có ở đất
nước độc tài, cộng sản, vào những lúc nguy nan.
Hoan hô
ông Xi vì ông ta trân trọng nhắc nhở nhân dân Việt Nam trong bài diễn văn, phải
thực hiện các khẩu hiệu 16 vàng, 4 tốt, cũng như các bài diễn văn của các ông
Tàu khác Jiāng Zémín, Hú Jǐntāo (trước
đây tại Thành Đô ) giao cho các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn văn Linh, Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh...mang về VN khuyến dụ nhân dân, nhưng điều đặc biệt là ở
đây ông Xi pha trộn thêm nước...đường (thi và ...Mao tập lẫn Hồ thi[26] : cùng nắm tay nhau, nhìn về một phía...Giải quyết song
phương nghĩa là theo một hướng mà thôi, hướng của kẻ mạnh...) cho nên tuy vẫn
là các khẩu hiệu nhàm chán sắt đá kẻ cả, vẫn là cuộc ép duyên thô bạo, mà con mắt,
lỗ tai Việt (lãnh tụ, đại biểu đảng viên ?) thoạt đọc, thoạt nghe, lại ra nhiều
du dương, lắm ngọt ngào, hứa hẹn. Ngọt ngào, hứa hẹn, ru ngủ đến đáng ngờ.
Qua lại thăm viếng... học tập, trao đổi...bình đẳng đến
ớn lạnh xương sống[27]. Nếu là người Mỹ, Pháp hay Thụy Điển, Hoà Lan, Nhật Bản mời mọc
hứa hẹn như vậy, cam đoan dân Việt xuôi tay chân mà đi theo, còn ở đây với hậu
duệ Trọng Thuỷ, con cháu Hùng Vương không thể không bàng hoàng e ngại, ngờ vực.
Không sợ sao ? Không buồn sao ?
Ngài
sang tận đất Việt nhắc nhở. Lời nhắc nhở khuyến dụ sau cùng vì cam kết đáo hạn
hay vì ngài muốn nhắc lãnh đạo Việt mau mau diễn tập màn kịch sau cùng ?
Hay chỉ
vì vua Tàu này muốn nhanh chân hơn tổng thống Obama ? Kế hoạch gì đây hay đoạn
kết màn vờn chuột sau cùng ? Kịch bản lớp lang soạn trước, ve vuốt dân Việt như
con sói già và cô bé quàng khăn đỏ? Nhiều câu hỏi đặt ra cũng vì thật sự
có người e tộc Hán mượn đường (Việt) chống xâm lăng (Mỹ?).
Thật
vậy, trong áng văn mà người Việt có thể gọi là bài ru
điệu bắc (...cục), ông Xi thiết tha hùng hồn gom Tàu và Việt vào một chủ (từ)
chung cho vô số cận cảnh, viễn cảnh, một Trung quốc-Việt Nam, hai Trung quốc-Việt
Nam, gắn bó thân thiện, như thể nước Việt to bằng nước Nga, nước Mỹ, hay Ấn Độ.
Tàu -Việt
song hành NHƯ MỘT NƯỚC, trí tuệ dày, tri thức cao (chắc cao to cỡ Thiên
San, Hoàng San), đồng lòng lên đỉnh Thái Sơn nhìn xuống : “một con đường một
vành đai ”, “ hai hành lang, một vùng kinh tế ”
: vòng đai biên giới mới từ Tây tạng đến lưỡi bò biển Đông ?. ngàn vàng để
mua láng giềng [28] mở rộng một thế giới...Hán. Người ngây thơ sẽ phỗng
mũi và tin sái cổ.
Nhưng
nước Việt không sao sánh vai ngang hàng với các nước kể trên, về nhiều mặt. Nước
Việt chỉ có một thứ của cực kỳ quý hiếm đáp ứng ước mơ đại Hán : cửa ngõ nhìn
ra biển, con đường đưa hàng và người Tàu tràn ngập Đông Nam Á và thế giới, để
người Tàu dễ chiếm lĩnh vai trò chủ nhân mọi châu mọi đại dương trên trái đất
này. Ham tiếng thì ông Xi cho tiếng và dân Hán lấy cái miếng. Chữ vàng chữ tốt
và vài tỉ đồng bọt bèo để công ty làm đường hạng bét của TQ sang xây dựng (một
cách phá hoại). Người đã ăn tiền sẽ gật gù khám phá thế là không sướng sao, tiếp
tục ngậm miệng ăn tiền, làm tòng phạm vung vãi chút vụn bánh mua chuộc, dụ dỗ
những hòn gạch tiếp tục lăn lưng xây vạn lý trường thành xâm lấn.
Láng giềng
gần gũi qua lại, tay trong tay thành một khối, đến năm 2020, sau các chi tiết
hai bên cam kết thi hành[29], Xi sẽ bắt tên láng giềng hảo ngọt, cựu chư hầu/anh em không
cùng gốc, không cùng gien “hoà bình” này ký một thứ hiệp ước rõ ràng, khác với
các mật ước trước đây, một thứ hiệp định kiểu Tàu –Tây Tạng hơn nửa thế kỷ trước[30], giờ đây sẽ giúp tộc Hán mở rộng thêm một phần tư lãnh thổ nữa
về vùng biển.
Vùng biển
Đông sẽ là một thứ tự trị Đông Tạng, giúp Tàu mở rộng thế giới Hán ra
toàn vùng đông Nam Á, trị giá tương đương với Tây Tạng. Viễn ảnh kỷ nguyên mới
này quả thật là một cục đường, một cái bánh khá bự cho người hảo ngọt. Dân Việt
ngoài đảng chưa nếm nhưng lắm người đã nghe bùi tai, miệng lưỡi, tim gan chưa
chi đã thấm thía ngất ngây ...hương vị ảo. Nhưng tất cả chúng ta không phải là
người hảo ngọt, ngây thơ hay là những lãnh tụ (không được dân bầu) hiện tại[31].
Cho nên
không phải đợi ông Xi hùng hồn du dương vừa ru vừa doạ, từ hai mươi năm trước
đã có những tiếng kêu sơn hà nguy biến, lẻ loi nhưng vang dội. Tàu đã chiếm rừng
chiếm đảo, đã xây đồn đấp lũy cấy gián điệp trong lòng đất Việt Nam, cài bùa ngải,
sinh tử phù trong lòng người Việt, thì chuyện diễn văn nhiều cục nhiều hòn này
chỉ là hoả mù che mắt thế gian, một lời thách thức ngạo mạn, coi mấy chục triệu
người Việt như không có. Chỉ vài mươi năm nữa thôi, chúng mày sẽ trở
thành thiểu số ngay chính tại quê hương của chúng mày, chúng ta là một là thế
đó. Cùng nhau sinh sôi nẩy nở, cái gien Hán hoà bình !
5) ...nhưng
bắt đầu định thần và lắng nghe, xích lại gần nhau...
Bloggers
thường dân và trí thức trong nhiều ngành văn hoá, học thuật trong ngoài nước,
dù không ai cử, không ai bầu, không hảo ngọt, đã vạch rõ cái hậu vị dụ dỗ răn
đe. Vừa ra khỏi đất Việt, Xi đã lấy lại giọng ngang ngược. Thì ra cái cục to của
ông Tàu này càng lộ thêm chân tướng ngạo mạn gian hùng khi ông ta khiêng nó qua
các nước anh em (thứ thiệt?) của mình. Với anh em Đài Loan, Tân Gia Ba, ông Xi
không ngần ngại khẳng định : biển Đông là của mình, tức giống Hán chúng ta, như
một hứa hẹn chia nhau bánh (thiệt), như một lời chửi xéo, như một tiếng răn đe
gởi tên láng giềng hữu hảo mà đã hơn một lần phản bội khó tin[32].
Nếu Trường
Sa Hoàng Sa là của ông Xi vào thời cổ đại thì thiên hạ sẽ hùa theo thừa thắng
xông lên đòi nước Mỹ cho nước... Anh; Brésil cho Portugal; Quảng
Đông, Quảng Tây cho Nam Việt, Tây Tạng cho dân Tibet, Ning Xia cho dân Tây Hạ,
Tân Cương cho dân Uyghur ? Và tại sao không, người Châu Mỹ...nên đòi về cho họ
cả thế giới này, từ châu Phi qua châu Âu và sang đông, trung, nam Á, chỉ mới
vài mươi ngàn năm chứ mấy! Của tiên tổ họ để lại dấu chân, xương xẩu từ thời cổ
đại thứ thiệt[33]!. A, thì ra đại cục này còn lâu mới là cục đường.
Giúp
xây cầu làm đường tại Việt Nam hay bất cứ nước nghèo nào tại Phi Châu,
Pakistan, Bangladesh...là giúp (hoặc đầu tư) phương tiện chuyên chở hàng hoá
buôn bán. Thế kỷ toàn cầu hoá, thì khai thác đường biển, đường hàng không, đường
bộ, cải cách truyền thông, luật lệ buôn bán, mậu dịch, trao đổi văn hoá là việc
phải làm cho bất kỳ quốc gia nào muốn mở mang và sống còn, nhưng với kẻ mạnh
thì người Tàu thương thuyết đa phương nhiều chiều, với đứa yếu thì khi doạ nạt
khi mềm dẻo dụ dỗ thương thuyết song phương. Rõ ràng họ chỉ muốn lấy phần lợi cả
về mình, ngạo mạn, tham lam, chèn ép nước bé, chủ trương lấy thịt đè người,
dương oai sức mạnh tiền tệ và bạo lực quân sự, đi ngược đạo lý và nhân cách con
người.
Của
đáng tội, thật ra như đã nhắc trên đây, các bloggers (và cả một ông nghị trong
số 500 người vỗ tay) đã cho thấy màn ru điệu bắc này cũng có vài nốt trật đường
rầy, tố cáo dã tâm của chủ nó[34]: đòi đãi ông Xi gỏi cá Bạch Đằng hay dãi yến Trường Sa với lời
cảnh cáo coi chừng nhé : chui ống đồng, mang số phận của Vương Thông, Liễu
Thăng, Tô Định, Thoát Hoan...
Nhìn những
im lặng khấu đầu của các cột trụ, lắm lúc, dân ta lại tưởng tượng rằng
lãnh đạo mình đang diễn màn Câu Tiễn. Không phải sao khi Lê Duẩn nói ta đánh
đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc...thật sự câu nói đầy đủ của ông ta
là ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc và cho nhân loại, cho xã
hội chủ nghĩa....và sau đó chính ông ta cũng đã nói[35] điều ngược lại ? Câu Tiễn hay thật sự đã trở thành Lê
Chiêu Thống ?
Cho dù
ngay từ khi đi xuyên qua Hà Nội (chạy /chẩu hơi lẹ làng chứ không chậm chạp thẩn
thơ bát phố bắt tay dân, ăn phở như Clinton năm nào) trong 21 tiếng đại bác, có
thể họ Xi không thấy được tận mắt sự “vô cảm” của nhân dân thủ đô đối với ông
ta (và đối với cả tiền đồ dân tộc). Không thấy cả hành động không nương tay với
họ của những người “anh là ai mà sao lại đánh tôi ”
để ông ta có thể cất giọng hát ru điệu bắc...
Tôi ở đây là những
(vài trăm?) người cả gan xuống đường hô lớn No Xi, No U. Cả hai miền Nam Bắc chỉ
bấy nhiêu anh hùng đã oai dũng cất tiếng kêu, tự triệu tập hội nghị Diên Hồng không
có vua[36]. Bô lão, thanh thiếu niên đây rồi. Còn triều đình ở đâu ? Trần
Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng là ai ? Còn hy vọng
nào không?
6) ....và
hy vọng
Chuyện
một ông giáo sư (dỏm?) nửa Tàu nửa Việt bị chê cười nhạo báng trên mạng,
vì đã bỏ họ Việt lấy họ Tàu, vì viết câu đối nửa Tàu nửa Việt, nửa “sáng tác” nửa
vay mượn, viết tự điển Việt sai be bét, bỏ áo the thâm choàng cái áo gấm Tàu đỏ
lòm khiến vô số người trong đó có tác giả bài này, tin rằng vận mạng Việt chưa
đến hồi tận tuyệt.
Làm sao
mà không đau lòng xót xa khi thấy những cô gái Việt đẹp đẽ mảnh mai rúm ró e dè
bên những anh Tàu mập mạp (cho dù là Tàu Đài Loan hay Đại Hàn tròn trịa, cho dù
là Nam Hàn hay Singapore) ? Nhưng hy vọng cũng nhóm lên khi nghe thấy đó
đây những lời kêu cứu, cảnh tỉnh, cứu hộ, những trường hợp ngoại lệ xác nhận tình
trạng chung.
Làm sao
không xấu hổ, thương hại khi có những người Việt đủ lứa tuổi, đủ thành phần xã
hội, từ công nhân đến giáo sư, từ con ông cháu cha đến du học sinh, từ phó thường
dân đến quan ngoại giao đi ăn cắp ở xứ người hay vi phạm pháp luật sở tại một
cách hồn nhiên đến trắng trợn. Ăn cắp từ hũ kem, cây son đến hoá chất, vàng bạc
kim cương, sừng tê giác. Buôn lậu thuốc lá, thuốc men làm giả, giết người, buôn
người, ăn trộm chó mèo ăn thịt, trồng/ bán cần sa v...v...Nhân cách con người,
lương tâm, giấy rách giữ lấy lề có hay không, nói chi đến tự hào dân tộc ?
Nhưng khắp nơi cũng có những tài năng nổi bật như một chút phân bua, giải lý hầu
kéo lại tẻo teo cân bằng, cũng là tia hy vọng le lói giữa bóng đêm bi phẫn.
Một ông
tướng (lai Tàu?) bị răn đe (mất tích một thời gian, rồi trở về với lời đồn bị
thay tim, thay não?) vì đã “ âu lo” cho một nước
Tàu không được dân Việt mến yêu; việc này khiến một số lớn trong chúng ta có thể
hát bài “tôi ơi đừng tuyệt vọng”.
Những
người trẻ và không trẻ bị nhà cầm quyền bắt giam vì đã dám hô lớn Trường Sa
Hoàng Sa là của Việt Nam, dám đòi “ Tàu khựa cút đi “, và vài người được
thả ra sau những ngày tháng bị giam cầm đày đoạ, tuy khoảng phân nửa sau đó bị
chết vì kiệt sức (hay vì bị đầu độc) phân nửa bị tạm tha hoặc đày ra ngoại quốc,
những người trẻ tuổi dân thường hay con cháu công thần dám kêu lên SƠN HÀ
NGUY BIẾN khiến ló dạng một ánh sáng cuối đường hầm/ nổi lên một cơn gió lạc
quan khiến cho vài (trăm? ngàn? triệu?) trong đa số thầm lặng đã mơ hồ ấm lên lạc
quan và hy vọng.
Trước
đây nhà cầm quyền giật thư, đạp xe, vu oan tội hình sự, gây tai nạn chết người,
rồi bây giờ chỉ biết ném phân, liệng đá, vứt mắm thối vào nhà người phản kháng,
bây giờ thuê du côn (Tàu?) đánh chém người đòi tự do, dân chủ. Quấy phá đám
tang, đám cưới nơi tư gia các vị tù nhân lưong tâm hay nhà dân chủ, thậm chí ôm
nhau nhảy điệu Tàu để làm rối loạn lễ kỷ niệm anh hùng Hoàng Sa Trường Sa, bọn
khuấy phá này chỉ có thể là gốc Hán, mới không tôn trọng lễ nghĩa ttruyền thống
Việt. Càng ngày càng xuống ...nước, phải chăng là dấu hiệu ...hết tiền của
nhà nước ? Không thể hy vọng được sao ?
Có những
người Việt 70 đến 90 tuổi, trí thức hay phó thường dân, thất phu hay đại trượng
phu, kẻ sĩ, nghệ sĩ, từng là công thần, là nguỵ dân/ ngụy quyên /“ phản động “,
đã từng trước đây say men chiến thắng hay đớn đau chịu đựng chiến tranh thảm khốc,
từng trải qua các cuộc vượt biên kinh hoàng/,đổi đời oan ức và cho dù giờ đây sống
đời an lành hiện tại trong nước cũng như ngoài nước Việt, vẫn không ngần ngại
nói/ viết/ gởi gấm tiếng kêu sau cùng trong những bức tâm thư/ hồi ký, trả sự
thật cho lịch sử....Họ nói lên tấm lòng tha thiết với quá khứ và với tương lai
quê hương đất tổ. Ai trong chúng ta có thể không rưng rưng cảm động trước những
bô (beaux) lão[37] này, nghe khơi dậy niềm tin nơi đồng bào/dân tộc?.
Tuy các cảm nhận và phản ứng có khác nhau về biến chuyển tình hình đất nước
nhưng các đợt sóng ngầm, những cơn gió này sẽ làm thành ngọn sóng thần đổi mới
cuộc sống (đmcs :-) ) và thành cơn bão quét xâm lăng, đưa đất nước ra khỏi vực
thẳm diệt vong.
Bài này là một gợn sóng bé nhỏ, một chút gió đìu hiu mong muốn góp phần trách
nhiệm.
Dĩ
nhiên “ bên kia bờ ”, vô số những người (thực dụng? nhìn xa?) vội vàng đi học
chữ Tàu, cho con cái đi du học bên Tàu, và có người đổi họ Tàu, như nhà thông
thái dỏm kể trên. Lắm người không những chỉ muốn “ nhập Hán ” mà còn dám nối
giáo cho giặc, làm gián điệp, làm nội tuyến, dám tin tưởng rằng người Tàu là tổ
tiên người Việt, trở về mái nhà xưa là châu về hiệp phố bởi vì sử đã chẳng ghi
Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ cháu Đế Lai, người Tàu[38]?. Bởi vì chẳng lẽ không có bàn tay Tàu trong chương trình
giáo dục muốn xoá (đi môn) lịch sử, nghĩa là bỏ những trang sử nhắc nhở rằng
người Việt không có gốc Hán, nhắc nhở rằng người Việt đã kháng cự suốt mấy ngàn
năm, đã trường kỳ khẳng định sắc tộc riêng với vùng đất vùng trời mình sống từ
bấy lâu nay?
Sự sùng
bái Thiên triều này, cha ông ta cũng đã có từ xưa nhưng luôn giữ được khoảng
cách tự trọng. Chuyện gì đã xảy ra ? Ta mất gì ? Còn gì ? Làm sao qua được cơn
nguy thập tử nhất sinh này ? Nhắc ai xin gởi đôi câu, đừng mê số kiếp chư
hầu Hán nô.
II-
Đừng ham thân phận chư hầu
A.Tấm
gương Tạng Hồi Mông Mãn trong các vùng tự trị Trung cộng
Các
cường quốc khi xâm lăng nước nhỏ và nghèo trong thế kỷ 16 đến 20 thường dùng
chiêu bài : Mượn đường buôn bán, thám hiểm, đem văn minh văn hoá tiến bộ, phát
triển tôn giáo, nhưng mục đích tối hậu chẳng hề khác nhau từ Âu sang Á tới Mỹ [39] : các đế chế xưa Hoà Lan, Tây Ban Nha, Pháp, Anh...
Hình 4 : Bản đồ Tàu đời nhà Qing (Thanh) do
Pháp vẽ năm 1735.
.
.
cướp
tài nguyên, dầu hoả, vị trí chiến lược, hải cảng bán buôn giao dịch. Nhưng hai
thế chiến đã xảy ra để họ điều hoà vị thế và chia nhau chiến lợi phẩm trong chừng
mực nào đó. Đồng thời những ánh sáng lương tâm và tâm thức, nhân cách con người
cũng trưởng thành sửa đổi...
Riêng
mưu đồ bành trướng có từ thời...cổ đại của tộc Hán, ở thế kỷ 21, với hành trang
chế độ cộng sản, tuy là hậu quả của chủ nghĩa tư bản đế quốc, vẫn sống hùng sống
mạnh và cũng chẳng đưa ra bài bản gì mới. Giải phóng ra khỏi tay xâm lăng. Mượn
đường đánh kẻ thù, giúp đỡ, hứa hẹn mang lại văn minh, cho phép tự do tôn giáo,
tôn trọng văn hoá. Ý định tốt đẹp hữu hảo này thật ra cũng bởi tại láng giềng
tuy nhu nhược, kém cỏi, nhưng lại có đất rộng, lắm tài nguyên, quặng mỏ, lại
thêm dân thưa, không thể tự vệ.
Đó là
chính sách nước Tàu tuyên bố và ghi rõ trên giấy trắng mực đen dành cho các
vùng tự trị Tibet, Hồi (Tân Cương), Mãn Châu, Mông Cổ và Ninh Hạ mà đa số bị
Tàu chính thức hoá ngay sau đệ nhị thế chiến.
Người
Tàu áp đặt chánh sách Hán hoá khắt khe trong thời gian đầu tại các nước này,
tàn sát tiêu diệt kẻ chống đối, vô hiệu hoá các tiềm lực phản kháng. Dân gốc
Hán, đủ loại đủ cỡ tràn ngập đè bẹp dân tộc vùngtự trị . Một số
nhỏ dân bản địa được o bế, dụ dỗ, cho hưởng quyền lợi, bổng lộc để tiếp tay người
Hán bình định đối kháng, chiếm giữ những địa vị chủ chốt quan trọng về ngoại
giao, quân sự, kinh tế, nhưng cho dù địa vị có cao sang quan trọng đến đâu cũng
vẫn thua kém dân Tàu gốc Hán một bậc. Kết quả nhãn tiền hiển nhiên là đa số
này quên hết cội nguồn, chỉ nói được một thứ tiếng Tàu chính thống vào bốn
mươi, năm mươi, sáu mươi năm sau. Và tuyệt đại đa số thường dân được khuyến
khích giúp đỡ để học...nghề tay chân trong nông nghiệp, công nghiệp, được khuyến
khích (thật ra bị ép buộc) làm lụng tay chân hơn trí óc.
Khi
Mao, Deng (XiaoPing), Xi (JingPing) giả vờ hay thật sự nới tay (cho
thêm quyền tự trị, ngôn ngữ, đi lại...) thì dân Tibet, Tân Cương, Mông Cổ...đã
trở thành thiểu sổ trong chính quê hương mình; những thế hệ trẻ được Bắc Kinh
nuôi dưỡng giáo dục từ nửa thế kỷ về trước, lần lượt trở lại quê cha đất mẹ
(như/với bọn hồng vệ binh Hán và em cháu tương đương) đốt chùa phá tự viện,
quên hết văn hoá tiền nhân, quên cả tiếng mẹ, và nhất là vô tôn giáo. Gien Hán
được cấy vào cuộc sống và trên giấy tờ cho những dân bị trị này. Để rồi
khi nước Tàu lâm chiến với các lân bang mới, tạo biên giới mới, thì chính những
công dân hạng hai này sẽ là đội quân tiên phong làm sát thủ, đi làm cả bia thịt,
tưởng mình mang sứ mạng bảo vệ quê hương và chủ nghĩa xã hội trong khi tộc
Hán được an lành làm rốn vũ trụ, lưu truyền gien Hán, giữ địa vị then chốt, nắm
quyền quyết định tối cao trong guồng máy cai trị trung ương lẫn địa phương.
Người
Tàu đã hát ru, hứa hẹn cho dân chúng, nhất là người lãnh đạo các nước Tây Tạng
(Tibet Hiệp định 17 điểm[40]), Tân Cương, Mãn Châu, Mông Cổ ..trước khi dùng thủ đoạn và bạo
lực tiến chiếm các nước này. Với mức độ khó khăn khác nhau, nhưng họ luôn thành
công.
Thành
công này chỉ có thể trọn vẹn khi họ chiếm cả vùng Đông Nam Á, bắt đầu là Việt
Nam (và Lào, Kampuchia). Tiến chiếm cả thế giới, làm chủ trái đất này có lẽ là
mục đích tối hậu, khi đó mới đáng gọi là Trung Hoa. Nhưng nghĩ cho cùng, mục
đích tối hậu của họ mai kia phải là chiếm cả vũ trụ !
Ngày
ký hàng ước mật Thành Đô, các ông lãnh tụ Việt ấy, chưa hình dung được vai trò
cửa ngõ Đông Nam Á, chứ nếu không đã dám cả tiếng hơn, xin được làm vạn miles
trường thành Đông Hải...Tạng vùng tự trị thứ sáu thuộc ...Hán tộc miền nam cho
oai.[41] Nhưng thâm tâm họ, phải thấy là sai nên không dám công bố
cho nhân dân, hay theo lời cam kết với chủ, giữ bí mật, bỏ lũ dân ếch vào nồi
nước ngọt, chất củi than, đợi đến 2015 khi ông Xi sang châm ngòi, mới nổi lửa ?
Nhưng thử
nhìn lại tình trạng kinh tế các nước chư hầu hiện nay nơi các vùng tự (bị)
trị của Tàu, thuộc Tàu và các tiểu quốc thuộc Liên Xô cũ, đa số đều nghèo, mức
sống thấp, khác xa với trường hợp các nước tự trị trong Khối thịnh vượng chung
Vương quốc Anh (commonwealth realm)[42] tuy xưa vốn là thuộc địa nhưng đa số thịnh vượng, tự do,
dân chủ như Úc, Gia Nã Đại, Tân Tây Lan...
Việt –
Miên – Lào
Nhưng
không biết vì muốn thoát nghèo nàn hay vì thật sự thèm khát tự do mà ngay khi
xã hội chủ nghĩa sụp đổ tại châu Âu, các nước trong khối Liên Xô lập tức tung
cánh ra khỏi vòng tay xã nghĩa, xô viết.
Chuyện
này không xảy ra cho các nước chư hầu Tàu, có phải vì các thuộc địa cũ hoàn
toàn bị đồng hoá, hay vì Tàu dùng bạo lực đè bẹp những cuộc nổi dậy lớn nhỏ đòi
lại độc lập. Các cuộc nổi dậy được chính quyền trương ương Tàu gọi là phản động
đòi ly khai, tuy xảy ra trong suốt thời gian từ ban đầu đến nay nhưng không nhiều
tiếng vang và kết quả ít ỏi. Các nước Tây Tạng, Tân Cương và Mãn Châu, nay chỉ
còn là những dân tộc thiểu số, bị Hán hoá, mất cả tiếng nói, quyền tự chủ, chỉ
còn là một thứ folklore địa phưong, mỗi năm vài lần, áo mão đẹp đẽ múa men hát
hò than van trước ông kính thế giới hay sung sướng cưỡi ngựa tranh cầu. Đa số đều
nghèo kém hơn người tộc Hán, đôi chút thay đổi có được cho vùng Tân Cương, ngày
nay trở thành vựa rượu[43], Tibet vựa nước, Mông Cổ mỏ vàng mỏ uranium, Ningxia gương mẫu
...và trong lãnh vực sông Hoàng Hà trở xuống cực nam, là vùng Bách Việt
ngày xưa [44] thì sự đồng hoá đã đến tận xương tuỷ, đa số đều quên ngọn
nguồn Bách Việt hay không Hán. Những người dân hạng hai ấy, triền miên bị đè đầu
đè cổ, tuy luôn luôn có những cuộc vùng dậy trong suốt quá trình " tự
trị " này, bởi vì họ góp phần làm giàu cho tộc Hán mà không hề được hưởng,
nhưng đồng thời, ý chí tìm lại tự do, tự chủ và bản sắc sẽ lụi tàn biến mất
theo thời gian.
Họ là
những " gương tày liếp " cho chúng ta nhìn vào, trước khi mọi sự trở
nên muộn màng, xin đừng chờ nước sôi lên mới nghe nóng, xin hãy lắng nghe lời
các bô lão, trí thức, sinh viên, nhà báo…những người hiếm hoi này sẽ cứu nguy
dân tộc nếu chúng ta cùng ủng hộ, tiếp tay, đồng lòng tham gia thứ hội nghị
Diên Hồng dân dã ngàn năm một thuở để giải cứu đất nước, vì giặc dữ đã vào nhà
mà chúng mạnh hơn ta cả trăm, ngàn lần.
.
.
.
Họ là dân Ouighur, Tây Tạng, Choang- Hmong- Mèo..., Mãn Châu, Hồi, Mông Cổ sống ở vùng đất biên thuỳ mới (tân cương) được gọi là tự trị. Người Tàu đặt tên cho các vùng tự trị theo tên các dân tộc thiểu số, trừ vùng người Hồi ở Ninh Hạ.
Họ là dân Ouighur, Tây Tạng, Choang- Hmong- Mèo..., Mãn Châu, Hồi, Mông Cổ sống ở vùng đất biên thuỳ mới (tân cương) được gọi là tự trị. Người Tàu đặt tên cho các vùng tự trị theo tên các dân tộc thiểu số, trừ vùng người Hồi ở Ninh Hạ.
1) Người
Duy Ngô Nhĩ ( Ouïghour/Uyghur ) của vùng Tân Cương(Khu
tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương)
Các
hình ảnh thuyền nhân bị đắm tàu được cứu vớt ở Ý hay các di dân nhập lậu qua đường
bộ bất chấp hiểm nguy được đưa ra thường xuyên trong thời gian gần đây trên các
mạng lưới truyền thông khiến dân Âu Châu xúc động. Các chính phủ trong cộng đồng
này phải tìm cách giải quyết khẩn cấp.
Người tỵ
nạn chạy trốn đàn áp, chạy trốn chiến tranh chết chóc. Đa số dân chúng, và người
trách nhiệm tuần tra biên giới các nước đều thông cảm và nhiều khi phải làm ngơ
cho qua, hay ra tay cứu vớt người vượt biên vì họ hiểu được nguồn cội, nguyên
nhân của những quyết định vượt biên tưởng như điên rồ này.
Và đa số
người Việt chúng ta không khỏi quặn thắt cõi lòng, nhớ lại những chuyến vượt
biên gian nan của chính mình hay của người thân, của bạn bè, hàng xóm trong những
năm 75, 80, 85, 90.
Từ vài
năm gần đây dân Uyghur (Ouïghour/Duy Ngô Nhĩ) được cộng đồng mạng nhắc đến
trong tình trạng khốn khó, hiểm nguy mà đất nước gây hoạ cho họ là Tàu: dân
Uyghur bị mổ lấy nội tạng, bị truy đuổi, bắt giết ở vùng biên giới các nuớc
láng giềng của Tàu như Việt Nam, Thái Lan và cả Cam Bốt nữa. Những hình ảnh đàn
bà trẻ con bị truy đuổi này khiến thế giới chấn động, và ...rơi vào quên
lãng ?
Khi biết
người Duy Ngô Nhĩ chính là hậu duệ của Tây Độc Âu Dương Phong, có lẽ các thế hệ
sinh ra trong những năm 1980, 1990 mê phim Tàu, phim Đại Hàn, nhất là người
thành thị miền Nam (trước 1975) sẽ lưu ý đến số phận của người Duy Ngô Nhĩ.
Vâng, chính người Duy Ngô Nhĩ là đồng bào của tác giả thế Hàm Mô Công vô cùng
quen thuộc với người xem truyện kiếm hiệp Kim Dung[45]. Trên mạng nhiều blogger phân tích truyện, ý nghĩa và cá tính
các tay giang hồ giỏi võ tuyệt vời độc đáo, tung hoành (một thời tại Sài Gòn,
Chợ lớn) trong Võ lâm ngũ bá, Anh hùng xạ điêu.... Và « nỗi băn
khoăn » của chúng ta bây giờ, giản dị, không mang màu triết lý, khác
với Nguyễn Mộng Giác cách đây gần nửa thế kỷ[46], ta chỉ hỏi tại sao những người này mang gia đình con cái, vượt
biên Tàu, trốn qua Việt Nam, Thái Lan để bị công an, quân đội Tàu truy nã, bắt
bớ, bắn giết ?
Họ là
người Hồi nói tiếng Thổ đến từ vùng tự trị Tân Cương trong nước Tàu. Là ngôi
sao Hồi trong cách diễn dịch thứ hai về ý nghĩa các sao trên cờ Trung Cộng :
Hán (sao to nhất )Tráng Mãn Hồi Tạng là bốn sao nhỏ xung quanh để chỉ 4 vùng tự
trị lớn nhất[47]
Từ
thời lập quốc ở vùng Tây Vực, nay là Tân Cương, như các tiểu quốc khác, dân
Ouighour đã có mối giao hảo sóng gió và an lành với Tàu, xưa kia quê
hương họ mang tên Tây vực đô hộ phủ và từ đời Đường An
tây đô hộ phủ và Bắc Đình đô hộ phủ : như nước Việt
thời xưa, người Ouïghour cũng từng nhận sắc phong của đế quốc Tàu, thời ấy nước
Việt đã thuộc Tàu (Bắc thuộc lần thứ 2 : An Nam đô hộ phủ ),
cũng như nước Cao Ly (Triều Tiên, Đại Hàn bây giờ) lúc đó là An Đông đô
hộ phủ. Nhân đây xin nhắc là trong các nước chư hầu cổ xưa của Tàu chỉ có Đại
Hàn sau này dù chia đôi nam bắc, trở thành nước độc lập hùng mạnh, cho nên Xi
chưa đòi đứa con (giàu có này) trở về với Hán tộc.
Cho nên
lưu ý đến họ thật ra không chỉ vì lý do hời hợt liên quan đến cảm tính như nói
trên và cũng không chỉ vì nỗi ngờ vực : có phải họ mang hình ảnh của số phận
người Việt trong tương lai -từ sau năm 2020- ? Thật vậy, như người Việt, họ
cũng nhiều lần nổi dậy chống Mông Cổ, chống Tàu dành lại độc lập, lần sau cùng
chưa xa lắm, khi họ đẩy được người Mông Cổ để rồi rơi vào tay của MaoTrung Cộng.
Thật
khó lòng không liên tưởng đến hiệp ước mật Thành Đô với những câu chữ u ám lường
gạt đã được nhân dân sửa lại cho đúng hơn[48].
Ai,
nhất là người trải qua gian khổ vượt biên hay tị nạn chính trị, khi xem qua các
hình ảnh phóng sự, cũng phải chua xót trước cảnh người Ouïghour bị quân Tàu
truy nã, rượt đuổi từ đất Tàu qua đến tận đất Việt và bị bắt/ giết trước sự thờ
ơ của những người lính Việt gác biên giới. Người lính Việt vùng này không biết
hay đã quên rằng có một thời một số đồng bào cha anh hắn đã bỏ nước, vượt biên,
bị truy nã. Như trước đó lính gác Việt đã vô cảm và bất lực trước cảnh du khách
Tàu tự do tràn qua đất Việt, ngạo mạn cười giỡn chụp hình, làm selfie nơi các cột
mốc mới?
Người
Ouïghour đi trốn với từng nhóm phụ nữ, trẻ con, ai nấy mặt mày tốt đẹp
phương phi, trẻ con bụ bẫm. Điều đó muốn nói họ đi trốn khỏi nước Tàu không vì
lý do kinh tế, họ chỉ giống Tây Độc, chủ nhân xấu xí tàn ác của món võ ghê gớm
Hàm Mô Công ở chỗ khăn quấn đầu tóc của người Hồi giáo, và vô cùng giống mọi
con người ở một chỗ khác là tình gia đình. Âu Dương Phong nhớ thương vợ, ôm đàn
luyện khúc Lục chỉ và ngày nay ta biết thêm da họ không đen đúa như Kim Dung đã
tả. Có thể trắng thêm ra, phương phi ra vì đã qua gần 1 thế kỷ bị Hán hoá ?
Họ là
những người Tàu trên giấy tờ, nhưng bị truy nã vì thuộc gốc Duy Ngô Nhĩ. Vì sao
có những người Hồi không thích làm công dân Tàu, dù đã hơn nửa thế kỷ nếm mùi tự
trị ? Vùng Tây vực, hoang dã Tân Cương, quê hương của họ bao la hơn 1 triệu
cây số vuông, nằm cực tây bắc nước Tàu hiện tại, chứa nhiều khoáng sản, mỏ, đất
đai trù phú. Những kẻ tuyên bố và tin chắc như bắp rằng tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân làm sao có thể cho nhân dân, nhất là nhân dân hạng hai thuộc giống
nam man, tây khuyển, đông di, bắc địch/cẩu tặc vân vân... được bình đẳng và tự
do tôn giáo[49] ? Một người trí thức ly khai gốc Ouïghour [50] đã tố cáo nhũng hứa hẹn giả dối này. Và ngay từ thế kỷ
19, họ đã từng trốn chạy ra khỏi vùng Tân Cương qua các nước khác, như người
Tây Tạng.
2) Người
Tây Tạng (nước Tibet cũ)(vùng tự trị dân tộc Xizang)
Thực hiện
cuộc xâm lăng, người Tàu viện cớ giải phóng dân Tibet, vốn “thuộc Tàu từ đời cổ
đại” [51]. Số người Tây Tạng (Tibet) bị ngưòi Tàu sát hại trong
cuộc kháng chiến chống Tàu trước khi bị sát nhập vào Tàu rất lớn so với tổng số
dân ít ỏi. Những người trí thức yêu nước, hay dân thường ái quốc, nhanh chóng bị
loại ra khỏi chiến trường và chính trường. Để chỉ còn lại nhũng người hoàn toàn
bị khuất phục. Và sau mấy mươi năm bị Hán hoá, bị tràn ngập lấn áp bởi người gốc
Hán, người Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính quê hương của mình.
Người
Tàu đã ồ ạt đưa dân gốc Hán vào Tây Tạng và chiếm lĩnh các vai trò lãnh đạo từ
địa phương đến trung ương. Những điều luật ban hành cho vùng tự trị Tây Tạng chỉ
có giá trị trên giấy tờ. Người gốc Hán được khuyến khích lấy vợ Tây Tạng, được
giúp đỡ trợ cấp nhiều hơn người bản xứ. Các thành phố chính đều tràn ngập người
Tàu gốc Hán. Trẻ con được học tiếng Tạng trong thời tiểu học hoặc sau này trong
cấp phổ thông, nhưng các cơ quan hành chính, nhất là thủ đô hay tỉnh lớn đều
dùng tiếng Tàu. Dân Tạng muốn kiện cáo, việc hành chánh quan trọng phải dùng tiếng
Tàu vì chánh án, quan toà lớn, cán bộ gộc trong các bộ máy đều là gốc Hán và
không cần phải học tiếng Tạng.
Thứ
ngôn ngữ Tàu áp đặt dùng khắp nơi trong các tổ chức hành chánh, khiến Tạng ngữ,
dù mãi về sau này được cho phép dạy nhiều hơn trong các trường, đã bị lép vế dần
và trở nên mai một.
Thiểu số
người Tây Tạng theo Tàu làm tay sai được o bế hứa hẹn một tương lai sáng sủa,
dù muốn cũng không đủ khả năng và sáng suốt để lật ngược tình hình. Là một dân
tộc thấm nhuần đạo Phật không hề bạo động, người Tây Tạng thà tự thiêu hơn là
đi giết quân Tàu. Nhưng trong suốt hơn 60 năm bị cai trị, bị giết hại, trấn áp,
họ vẫn nổi dậy và chống đối. Ngày nay số người Tibet (tên Tàu đặt là Xizang) 6
triệu bị pha loãng trong
Hình 5 : người Tàu và người Hồi bán hàng
trên đường phố vùng Lhassa (photo Trọng Tuyến)
hơn 10
triệu người Tàu và chỉ tiêu của nhà cầm quyền trung ương (Tàu) là gởi thêm 5
triệu người Hán nữa vào đây trong vòng 5 năm tới.
Tây Tạng
với vùng cao nguyên trên 4000m chứa lượng nước ngọt khổng lồ, với diện tích
nguyên thuỷ khoảng 2 triệu rưỡi km2, nhưng bị cắt xén sát nhập vào các tỉnh tàu
lân cận như vùng Qinghai.
Vùng tự
trị dân tộc Xizang ngày nay chỉ còn 1 221 600 km², tuy là 40 % đất thuở ban đầu,
và mất tên Tibet, vẫn còn là nơi chứa nhiều (nhất nước Tàu) nguyên liệu và quặng
mỏ đất hiếm, là tiền đồn nhìn về Ấn Độ, là nơi Tàu đặt hoả tiễn và vũ khí
nguyên tử “ phòng vệ ” chống xâm lăng.
3) Vùng
Nội Mông (khu tư trị dân tộc Mông Cổ)
Đất rộng
( 1.280.000 km2) nhưng người thưa, nếu gộp luôn nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ
phía bắc, chúng ta hình dung được đất nước mênh mông của đại đế Thành cát Tư
Hãn vào thế kỷ 13, và các thủ lãnh của “rợ” Hung Nô, khiến người Tàu (đời Tần)
phải xây vạn lý trường thành hòng ngăn bước chân xâm lược đe doạ hàng mấy trăm
năm.
Thế kỷ
13 – 14 là thời kỳ huy hoàng của họ. Người Mông Cổ chiếm nước Tàu và đoạt được
hầu hết các nước ngoại biên kể cả Tây Tạng, chỉ chịu thua Việt Nam và Đại Hàn
(trước khi Kubilai lên ngôi). Người Đại Hàn gốc Việt do hoàng thân triều Lý thống
lĩnh là Lý Long Tường đã có đóng góp quan trọng trong chiến tranh Cao Ly
( Koryo) chống Mông Cổ. (hình 6)
Hình 6 : đất Tàu dưới đời nhà Nguyên
-Wikipedia –
Chỉ qua
thế kỷ 14 đế quốc này bị người Mãn Châu chiếm, thôn tính nhà Ming lập thành nhà
Thanh. Vào năm 1911, khi triều Thanh sụp đổ, Mông Cổ được độc lập nhờ Nga hoàng
ủng hộ.
Sau đó,
Mông Cổ bị chia đôi, phần phía bắc bị Nga liên xô bảo hộ từ 1922 đến 1992
trở thành nước “cộng hoà nhân dân”. Phần phía Nam bị Nhật cai trị cùng với Mãn
Châu đến khi Nhật thua trận năm 1945.
Sau
1945, phần nam Mông trở lại thuộc Tàu theo sự phân chia giữa các cường quốc ở hội
nghị Yalta và trở thành vùng tự trị đầu tiên (1947), được Tàu Mao khánh thành sớm
nhất (1947). Thật ra thì năm 1947, người Mông Cổ phù Hán đã nhờ quân Mao giúp lấy
lại độc lập, nhưng khi chiến thắng, Mao trở mặt, dựa vào sự ngây thơ và thần phục
Tàu của thanh niên và trí thức Mông, cuối năm 1949, nam Mông Cổ trở thành Khu tự
trị dân tộc Mông Cổ thuộc nước Tàu, chuyên chính cộng sản thay thế chính thể
quân chủ lập hiến của Nội Mông. Chùa chiền bị phá bỏ, những vụ án xử tử người
Mông Cổ “phản động và phản cách mạng” tiêu diệt nốt những người Mông Cổ
yêu nước sau cùng. Mông Cổ là dân du mục truyền thống, người Tàu đã chỉ cần giết
các đại thảo điền chủ, tịch thu những đàn thú thảo nguyên khổng lồ, tập thể hoá
của cải này là thừa sức phá tan truyền thống du mục.
Năm
1954 hiến pháp TQ ghi nhận quyền cho phép nói và dạy tiếng Mông Cổ, nhưng qua
1957 thì lại cấm dạy ở tiểu học. Vào năm 1958 trong bước đại nhảy vọt,
để cả nước tiến như nhau, phong tục, tập quán, tôn giác khác biệt các vùng tự
trị đều bị trừ bỏ.
Dân số
nội Mông trên 20 triệu, trong đó chỉ có 17 % là người Mông Cổ, phần còn lại
là người gốc Hán, và dân các vùng tự trị khác. Nguồn gốc, tập tục, văn hoá, tiếng
nói, ngôn ngữ của từng dân tộc trở nên mờ nhạt xa vời. Những biện pháp nới tay,
mở rộng thêm chút quyền tự do, dân chủ v..v..đều được ban hành muộn màng, khi
người dân đã hoàn toàn bị Hán hoá. Dĩ nhiên ban hành là một chuyện, trên thực tế
có áp dụng không lại là chuyện khác.
Từ những
năm 80 ( 1987, 1990 ...) đã có những cuộc biểu tình nổi dậy, nhưng tất cả đều
nhanh chóng bị dẹp tan. Ngày nay, đọc sử hay đi viếng đất (Nội) Mông Cổ, du
khách học rằng Thiết Mộc Chân Thành Cát Tư Hãn Nguyên Thế tổ, đại đế Mông Cổ
tung hoành thế giới xưa kia, nay là anh hùng người ...Tàu[52] !
Ngoại
Mông vẫn giữ chính thể độc lập và cố gắng chống sự Hán hóa từ phía Nam. Tuy
nhiên, sự yếu kém về kinh tế trước nước Tàu cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 khiến
Ngoại Mông đã bị tràn ngập bởi hàng hóa Tàu, người Tàu. Ngày nay họ cũng phải bỏ
Nga quay về cầu cạnh người (phía) Tàu...
Vùng
ngoại Mông này cũng đất rộng (1.564.116 km2) người thưa, nhiều mỏ, nguyên
liệu quý báu như đồng, vàng, sắt, kẽm, molybden, nhôm, khí đốt tự nhiên,
dầu mỏ… Mông Cổ có trữ lượng uranium hơn 1 triệu tấn. Nước này đất rộng với chỉ
3 triệu dân hiện đang lâm vào tình thế lệ thuộc Tàu, nguy nan hơn cả nước
Việt Nam.
Sau những
năm lệ thuộc khối cộng sản, Mông Cổ Nam lẫn Bắc, dù đất giàu tài nguyên, mênh
mông thảo nguyên, sa mạc vẫn là dân tộc nghèo nhất trong vùng, nghèo nhất nước
Tàu. Người gốc Hán tràn ngập đất Nội Mông, nắm hết mọi quyền hành và quyền lợi.
Người Tàu mua rác- thải công nghệ hạt nhân đem đổ tại đất nước này. Tương lai
Mông Cổ bây giờ là một khúc vạn lý trường thành bảo vệ tộc Hán khỏi cái nhìn
xâm lăng của ...Putin.
4) Vùng
Quảng Tây : khu tư trị dân tộc Zhuang (Choang hay Tráng)
Cuối
tháng 9 qua đầu tháng 10, hàng loạt vụ nổ xảy ra tại vùng Quảng Tây, vùng tự trị
của dân tộc Tráng (Choang hay Nùng) bên Tàu gây chú ý trên thế giới. Cùng với
Quảng Đông, đây là vùng Lưỡng Quãng, có giáp ranh với Việt Nam, ngày xưa có
liên quan quen thuộc với Âu Lạc và Tây Âu thời cổ đại[53]. Thuộc ngôn ngữ Thái -Kadai
Người
Tráng chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ bên cạnh người gốc Hán, chỉ đông hơn các dân tộc thiểu
số khác như Mèo, Lô Lô, Thái... Sự phát triển kinh tế khá chậm so với toàn thể
nước Tàu nhưng dân số đông nhất so với các khu tự trị khác, gần 50 triệu dân
cho một diện tích gần bằng nước Việt 237 693 km2. Ta có thể xem như vùng
này thuộc tộc Bách Việt, khoảng thế kỷ 1 trước công nguyên đến thế kỷ 3 sau CN
không ngừng bị người Tàu, hết Tống đến Nguyên[54] xâm chiếm, cai trị. Dân Choang đã từng ủng hộ cuộc nổi dậy
của hai bà Trưng chống nhà Đông Hán. Về sau một người Choang là Nùng Trí Cao[55], một thời làm run sợ nhà Tống, đánh nhau ngang ngửa với tướng
Tàu Địch Thanh, xưng đế lập quốc giữa thế kỷ 11, đánh chiếm một vùng rộng
lớn thuộc Quảng Châu, Quảng Tây.
Qua đời
nhà Minh, người Hán giúp khí giới cho người Choang đánh nhau với người Mèo. Năm
1912 khi nhà Thanh mất, họ cũng muốn vùng lên đòi độc lập nhưng không thành, đến
năm 1927 khi họ nổi dậy thì bị Tchang Kai Chek đè bẹp. Họ hoàn toàn thần phục
người Tàu, từ năm 1949, và trở nên vùng tự trị vào năm 1958 dù không hề đòi hỏi.
Gien Hán của nhiều người Choang chắc là nhiều hơn gien Bách Việt và xa hơn người
Việt hiện tại qua hơn hai ngàn năm bị Hán hoá!
Chút
xíu dấu vết còn lại của tộc Bách Việt nơi này hoạ chăng là ở câu ca dao rất giống
người Việt Nam. Ếch nhái là con gái nhà trời. Coi ếch là con
gái của thần sấm sét, dân Choang nhảy múa điệu ếch để cầu mưa. Người Việt mình
thì nói con cóc là cậu ông trời, hễ ai đánh nó thì trời đánh cho. Chắc
chưa đủ để nhìn bà con tộc Việt? Nhưng khoan lo, xin xem hồi sau sẽ rõ.
Khu tư
trị Ninh Hạ có gần 7 triệu người, tôn giáo chính là đạo Hồi. Với diện tích
62 818 km2, Ningxia là khu nhỏ nhất trong các khu tự trị của Tàu và
cũng là vùng có tổng sản lượng quốc gia thấp nhất nước Tàu. Nằm giữa phía bắc
nước Tàu, nơi có Hoàng Hà chảy qua, giáp giới các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc và
khu Nội Mông. Thủ phủ là Ngân Xuyên, xưa là thủ đô nước Xixia (Tây Hạ) của các bộ tộc Đảng
Hạng, Thổ Phồn sau một thời lập quốc xưng đế, từ thế kỷ thứ 9, từng dựa Đường,
nhờ Tống giúp đỡ chống cự hay xâm chiếm các nước lân cận (Liêu, Mông Cổ...) trở
nên hùng mạnh vào thế kỷ 11.
Nhưng rồi
cũng như các nước phương Nam thời đó (phía nam Dương Tử giang), vùng Tây Hạ lệ
thuộc tộc Hán trong nhiều giai đoạn, tù đời nhà Tần, và sau cùng hoàn toàn bị
Hán hoá. Gọi là dân tộc Hồi nhưng họ chỉ có 20% còn tộc Hán chiếm 79% dân số!
Sau khi
bị Mông Cổ thống trị thế kỷ 13, người Đột Quyết theo đạo Hồi di chuyển dần
vào Ninh Hạ từ phía tây vùng này mới trở thành vùng Hồi giáo. Như vậy, mặc dù
có sự pha trộn với người Hán, vùng này là cát địa của nhiều bộ tộc phương bắc
khác với tộc Hán cho đến gần đây. Như người Hồi đến từ Trung Á, họ có màu da sậm
và mắt màu nhạt hơn dân Hán, cũng như có y phục, tập quán, tôn giáo của người Hồi.
Trước đó dân Tây Hạ theo đạo Phật, ngày nay còn nhiều di tích, lăng mộ ở đó.
Kim
Dung đã đưa vào Lục Mạch Thần Kiếm nhân vật Tiêu Phong. Tiêu Phong gốc Liêu[56] và Cưu Ma Trí người Thổ Phồn làm quốc sư nước này là những
người võ công thật cao, một chính một tà. Truyện cũng có một đoạn dài xảy ra ở
thủ đô Tây Hạ, với mối tình đẹp giữa Hư Trúc và công chúa Tây Hạ Ngân Xuyên.
Như vậy qua Kim Dung ai cũng biết có nhiều người tài giỏi trong các nước độc lập
ven biên Tàu mà ngày nay đã bị Tàu sát nhập.
- B. Nhìn người lại ngẫm đến ta
Trong lịch
sử thế giới, các đế quốc hùng mạnh nhất, hung dữ nhất từ đế quốc Hy
Lạp cổ đến La Mã đều không thoát được vô thường.
Khi liên
bang Xô Viết sụp đổ, khối này vỡ tan thành 13 quốc gia độc lập. Riêng nước Tàu
vẫn đứng vững và tiến triển cực kỳ nhanh chóng. Tại sao ?
1) Sức
mạnh chủ lực :
Sức mạnh
Trung cộng đến từ khối đông đảo người Tàu. Tàu chính gốc Hán và Tàu...gốc Bách Việt
(và gốc khác từ các vùng bị Hán xâm chiếm từ xưa). Sức mạnh của Trung cộng còn
là sức mạnh của Hán ngữ, có hệ thống chữ viết hoàn chỉnh, giàu có, thêm bạo lực
vào nên sức bành trướng mãnh liệt. Sức mạnh ngôn ngữ này ta đã thấy nơi vùng
nam Mỹ với Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Người
Tàu được (nhà nước Tàu) gọi là tộc Hán phương nam và Hán phương bắc, nói chung
là tộc Hán nhưng sống tại hai miền nam bắc chia cách đại khái bởi sông Trường
giang hay Dương Tử giang. Nhưng đa số dân Hoa nam tại hạ lưu Trường giang xưa
kia rất có thể là dân tộc Bách Việt (xem phần sau).
Người
Hán thời đó đặt tên các nhóm khác nhau của Bách Việt là: Dương Việt, Tây Âu, Lạc
Việt, Ư Việt, Điền Việt, Dạ Lang (xem bản đồ hình 7) Phần lớn vùng này bị mất
vào tay quân Hán phương bắc vào cuối đời nhà Tần bên Tàu, rồi trở thành nước
Nam Việt của Triệu Vũ Vương, chư hầu phía Nam của nhà Hán.
Các nước
cũ, nay là vùng tự trị, đều ở vùng ven biên, làm tường thành che chắn cho tộc
Hán và đều là những vùng nghèo so với thủ đô và các tỉnh lớn khác.
Quyền
hành gọi là tự trị được phân chia theo luật định trung ương, cho các nhóm dân
thiểu số ít đông hơn nhóm dân chính. Như thấy ở trên, vùng Tibet, ngoài dân Tây
Tạng chính cống, còn nhiều dân tộc khác nữa, không kể đến dân Hán chiếm đa số.
Cho nên dù các đại diện mọi dân thiểu số có hợp sức lại, cũng không thể chống lại
đa số Hán. Mỗi dân tộc thường chỉ có thể tranh đấu cho nhóm dân tộc mình. Chưa
nói đến mọi quyết định quan trọng của chính quyền địa phương nằm trong tay đảng
cộng sản, mà bí thư luôn luôn là người tộc Hán. Vô phương cục cựa ! Nhưng về mặt
sinh tồn, sức sống của những trăm triệu người nơi vùng này vẫn tiếp tục và ít
nhiều hoà lẫn, cho dù ta vẫn thấy Hán phương Nam nhỏ con, giống người Việt...ta,
khác với Hán phương Bắc da trắng, mi mắt sưng mỡ, gò má cao, mũi cao. Khác nhau
như hai người tình của Marguerite Duras[57]. Khác nhau như Deng và Xi.
Xin làm
vùng tự trị hay khác hơn, trở thành tỉnh lớn của Tàu thì thân phận tôi đòi hay
chư hầu cũng không khác chi một thứ dã tràng cặm cụi xe cát cho tộc Hán tiếp tục
xây lâu đài.
(
Cho gien Hán có chỗ tiếp tục sinh sôi cai trị áp bức !)
2) Việt
ở phương Nam
Thời
chiến quốc (giữa thiên kỷ I trước công nguyên), cũng như các bộ tộc sống phía
Nam rặng
Ngũ Lĩnh, Vương quốc Nam Việt mất vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Từ lúc đó nhiều
nước Bách Việt bị các vương quốc liên tiếp thuộc Hán tộc bắt làm thuộc địa
(hình 8 ), các quận nhà Hán trong vùng Bách Việt ở đất Lĩnh Nam vào
đầu Công Nguyên). Mãi đến khi Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán dân Việt mới được
độc lập từ năm 939 với triều Ngô, sau một ngàn năm lệ thuộc Hán tộc.
Hình 7 : Lạc Việt và Âu Việt
Hình 8. Các quận của Bách Việt ở Lĩnh Nam và
Nam Việt vào thời Đông Hán
Các nước
chư hầu Bách Việt khác ở đất Lĩnh Nam có lẽ đa số không còn nhớ gì về thời cổ đại,
không còn nhớ cội nguồn văn hóa Hòa Bình rất cổ xưa. Thật ra cội nguồn nào
kháng cự lại được các chính sách đồng hoá của các vua Hán từ trên ngàn năm nay,
và nhất là ngày nay với bạo lực và tuyên truyền, bóp méo lịch sử của chế độ thực
dân kiểu cộng sản Tàu ; từng giai đoạn, người tộc Hán, nắm giữ quyền trung ương
lẫn địa phương đã lần hồi tiêu diệt các trí thức cũ và đồng hoá tối đa tuổi trẻ
(Trăm hoa đua nở, cách mạng văn hoá ). Suốt hàng ngàn năm lệ thuộc,
chắc chắn một số can cường đã ra đi tìm đất sống mới, nhiều đợt ra đi, tụ hội,
hoà huyết với người bản địa lập thành bộ lạc mới, nước mới trên bước đường
thiên di. Người ở lại, quên mối đau thương chia lìa, quên hận vong quốc, trở
thành người...Tàu (phương nam).
Nhưng
có dễ quên không ? Ngược dòng lịch sử người Tây Tạng, Tân Cương, và người Tráng
( Choang hay Nùng – Nông -) tuy bị Hán hoá đã lâu nhưng đến đầu thế kỷ 20, vẫn
luôn có người nổi dậy, muốn ly khai Trung quốc, nhưng người Choang, người Mông,
nằm giữa trùng vây Hán tộc, cho dù chỉ là Hán thiểu số, bên cạnh các dân tộc
thiểu số khác, bất đồng ngôn ngữ và văn hoá. Và sắc tộc nào cũng là thiểu số
trong đa số các sắc tộc ấy, muốn truyền thông, sống còn với nhau và với trung
ương, chỉ còn một “lựa chọn duy nhất” : nhận lấy thứ ngôn ngữ, văn hoá áp đặt :
chữ Hán của Trung quốc. Đây chính là thượng sách trong phương cách rất thực dân
chia để trị của Hán tộc.
III
A. Tình trạng bi đát của tộc Việt hiện nay
1) Hành
trang nhược tiểu Việt Nam
Một
Bách Việt phương nam, ngàn năm bị Tàu đô hộ, đã tiến (hay lui dần) về phương
Nam tìm đường sống, chiếm đoạt đất đai của người yếu hơn, so với Tàu cũng đã
phình ra sau vài trăm năm. Đây là cơ may để tiến bộ của người Lạc Việt,
nhờ sự pha trộn với lãnh thổ và cư dân bản địa, giống gien Đông Nam Á hoà trộn
lại với con cháu những tổ tiên của các đợt di dân nghìn xưa, rửa bớt văn hoá và
gien Hán của một nghìn năm đô hộ. Vận may thứ nhì đến lần nữa qua trăm năm thuộc
Pháp. Một lần nữa, tộc Việt bị buộc phải quay nhìn về phương khác, học hỏi, hoà
hợp, khẳng định lại bản sắc (mới). Chỉ một phần mười thời gian chịu ảnh hưởng
Tàu, nhưng giá trị rất lớn, trong khi tộc Bách Việt còn lại tại chỗ, bị Hán hoá
đến tận cùng xương tuỷ.
Sau thế
chiến hai, như đa số các nước trên thế giới, đất Việt nhân/chia đôi thành hai
nước, nói theo kiểu lạc quan. So với các nước bị thần phục như Tây Tạng, Tân
Cương, Mông Cổ, hoặc các quốc gia bị băm vằm chia cho bên thắng cuộc sau thế
chiến, người Việt nghĩ mình còn may mắn. Đi tản lạc ra khắp thế giới, học và áp
dụng song song chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản và mang kết quả cùng hệ
luỵ tất nhiên của các chủ nghĩa này.
Nhưng với
quyết tâm giải phóng miền Nam, chỉ cần nhờ người Tàu
giúp (khí giới ?), miền Bắc cộng sản đã toại nguyện sau 20 năm nội chiến tàn khốc.
Mỹ Ngụy nhào và cút, trong hơn 10 năm, 17 triệu người miền Nam mất
đi 3 triệu vì cuộc chiến, 3 triệu bỏ nước ra đi, hơn phân nửa ở lại, (hoà ?) hợp
với người Việt miền Bắc, cùng xây dựng lại đất nước. Tưởng rằng từ đó (1975) nước
Việt sẽ phát triển trong tự do, độc lập, dưới (chế độ xã hội chủ nghĩa), và
thêm sự "giúp đỡ" của hai đàn anh cộng sản đồ sộ Nga, Tàu. Thế nhưng
bây giờ hơn 85 triệu dân, mà vẫn như các nước trong liên bang Xô viết cũ :
nghèo đói chậm tiến, bị xếp hạng bét hay áp bét về lợi tức trung bình đầu người
(thu nhập hàng năm) trong khối Đông Nam Á, đứng đầu trên vài ba chục nước
...nghèo kém nhất thế giới, lại thêm mối nguy mất tên, mất nước vì đàn anh
Trung Quốc.
Như vậy
tự hỏi hay vô cùng nghi ngờ về phương cách giúp đỡ cũng như tình nghĩa vô
sản của các nước lớn này là điều hiển nhiên. Riêng người Tàu,
còn kể ơn và muốn người Việt trả nợ đạn bom và hợp tác “toàn diện” với họ trong
chiều hướng họ quyết định.
Môi lưỡi
tay chân anh em xã hội chủ nghĩa đã thực hiện tình hữu hảo huynh đệ thế nào để
nước Việt ra như thế ?
Ra khỏi
cuộc nội chiến, Việt Nam thống nhất dư thừa ngạo mạn hân hoan nhưng kiệt quệ về
mọi mặt. Hay nói kiểu ba phải thì nửa vui, nửa buồn. Nửa giàu lên, nửa nghèo
đi. Nửa ăn mừng chiến thắng, nửa ngậm đắng nuốt cay. Nửa mạnh (dẹp Khmer đỏ) nửa
yếu ( bị Tàu san bằng vùng biên giới). Nửa cộng nửa tư bản ...đỏ. Nên lạ lùng
chẳng giống ai. Cho nên chỉ 10 năm sau trận đánh tàn khốc vùng biên giới, Tàu
khuất phục được (tinh thần ?) nước Việt.
Tinh thần,
tâm thức của người Việt phải chăng đã bị bào mòn qua ba mươi năm chiến tranh gần
như không ngưng nghỉ ?Hai mươi năm nội chiến từng ngày, bom tấn, bom bi,
bom napalm, lựu đạn, mìn claymore, Ak 45, 47, M16, CKC, pháo kích, không kích,
oanh kích, B52, B40... Rồi sau tháng tư 1975, Bắc (tự nguyện) vào nam, Nam (bị
lôi) ra Bắc. Kẻ mất cha, mất chồng, con, anh, chị em, mất nhà cửa, tài sản, nơi
chôn nhau cắt rún, kỷ niệm....
Chúng
ta khác “thường” , bệnh hoạn, bị tổn thương mà không nhận ra. Từ ngày ngưng chiến,
không có một cuộc chữa bệnh nào hay một hành động an ủi, cử chỉ hào phóng đến từ
giới lãnh đạo, không một trấn an tập thể nào cho những người sống sót sau cuộc
cuộc chiến và hai lần chia tay xé ruột ? Chỉ có : trả thù và tự thưởng công khi
lao mình vào cuộc sống. Đến ba đời con cháu. Của cải, tinh thần nào không kiệt
quệ ?
Người
ta có nghĩ đến người chết, nhưng đa số là để tự trấn an lương tâm, tự biện hộ,
tạo ảo ảnh để kể công, để duy trì miếng ăn, quyền lợi cho kẻ sống.
Hai
mươi năm hoà bình mà bảo thanh niên hát đường ra trận mùa này đẹp lắm,
để cho nhân dân tiếp tục làm anh hùng cày sỏi đá và con quan thì lại làm quan?
Hai
mươi năm hoà bình mà còn mời sư cô cải trang mặc áo bà ba đen cầm súng vác mã tấu
hân hoan hát bài em đi làm nữ du kích ?
Hai
mươi năm sau khi đã chia chác hết mọi thứ chiến lợi phẩm lớn nhỏ, bây giờ vẫn
tiếp tục lấy đất nông dân xây cất đủ thứ trừ tương lai nông dân. Việt Nam xứ
nông nghiệp lâu đời, chưa kịp chuyển hướng công nghiệp kỹ thuật, mất đất rồi
nông dân biết gieo hạt lúa vào đâu ? Ta lại không/chưa giỏi buôn bán, thương mại
hàng hải mà cứ cắm đầu giao khoán, giao thương ký hợp đồng với kẻ (thù truyền
kiếp) mạnh bạo[58]thì đúng là tự sát chứ không phải bỏ điều 4 hiến pháp mới là tự
sát. Bạch thư tố cáo Trung Cộng và chính sách nham hiểm tàn độc của họ đối với
Việt Nam vẫn còn kia.
Hai
mươi năm hoà bình thống nhất mà phải hàng năm sang Tàu, quỳ lạy tượng Mã Viện,
tên tướng Tàu đã bức tử hai nữ anh hùng nước Việt ?
Trong
chúng ta có người may mắn tự vượt lên, tự chữa, để tiếp tục cuộc sống. Vì cuộc
sống tiếp tục, dù ta có muốn hay không. Tiếp tục nơi quê người, tiếp tục mưu
sinh, nuôi con, dưỡng cha mẹ vân vân ...
Mà bệnh
có khỏi chưa ? Vết thương trong lòng trong tim, óc đã khép lại, đã thành sẹo,
đã lành lặn chưa ?
Cách trả
lời tốt nhất là nhìn lại lối sống, phương hướng ứng xử với nhau và với người
khác của chúng ta hiện nay. Ở ngoài nước, chúng ta luôn nhớ về quá khứ, nhớ lại
những kỷ niệm êm đềm hay đau thương để ...đau đớn kết án, căm hờn. Dưới mắt
chúng ta Việt Cộng có bàn tay lông lá khắp nơi (mà thật vậy, họ thò bàn tay
chia rẽ trong khắp các hội đoàn, tổ chức văn hoá, tôn giáo, xã hội người Việt hải
ngoại. Tại sao họ không thò bàn tay thò tim óc nhìn vào những lấn lướt gian
manh, âm mưu của người Tàu trên đất nước VN. Đánh nhau cho Tàu, cho Nga xong rồi,
nợ kia đã trả rồi mà) nhưng ta chỉ biết chửi nhau, kiện cáo nhau, hành hạ nhau.
Thì câu hỏi đặt ra thêm nữa là có phải cộng sản VN tiếp tục thi hành lệnh cộng
sản Tàu để chia rẽ tiếp tục làm suy kiệt tộc Việt ?
Trong
nước thì người dân đen buộc lòng hay thật sự tin tưởng giao phó vận mạng của
chính mình và đất nước cho một thiểu số người quyết định. Đa số không nhìn thấy
sức mạnh của chính họ, cũng như không nhìn thấy những vết thương và bệnh tật,
những bất bình thường, bất công trong đời sống xã hội. Đa số cam chịu, thụ động
chấp nhận.
Phải
nhìn kỹ những biện pháp do nhà cầm quyền tại các nước tân tiến áp dụng
cho các nạn nhân mỗi khi có tai ương xảy ra bất ngờ với số đông người, chúng ta
mới hiểu được kích thước những tổn thương tồn tại nơi dân Việt từ hàng chục năm
qua.
Tại Mỹ,
sau cuộc khủng bố september 11 năm 2001, phim ảnh báo chí nhắc nhở đến tùng nạn
nhân, từng hành động cứu người, nhắc nhở để vuợt qua đau đớn và tìm lại ôn định
tâm lý (chưa nói đến việc đem quân đi trừng phạt).
Tại
Pháp, gần đây nhất là khi khủng bố tự xưng tín đồ Hồi giáo (quá khích) nổ súng
giết chết ba đứa trẻ đạo Do Thái, mười một nhân viên tuần báo nổi tiếng Charlie
Hebdo, 4 người mua một siêu thị Do Thái, 130 khán giả trong buổi ca nhạc, hơn
20 khách ngồi quán trà rượu, ngay tại thủ đô Paris...
Hơn bốn
triệu người Pháp xuống đường tuần hành phản đối bọn giết người và tỏ lòng
thương tiếc tưởng nhớ các nạn nhân, nhà cầm quyền tổ chức lễ tưởng niệm, giúp đỡ
thân nhân, chưa nói đến việc truy tìm thủ phạm từ gốc đến ngọn. Các nhà tâm lý
đi thăm hỏi gia đình, báo chí ghi lại từng tiểu sử, phỏng vấn người thân cận.
Trong
nước ta, con số người chết cũng tương tự trong đồn công an hay tù nhân chính trị
chỉ gây phẫn uất cho gia đình nạn nhân và bất bình nơi một số nhà tranh đấu cho
nhân quyền công lý. Và những người này bị (nhà cầm quyền thuê ) côn đồ bao vây
quấy nhiểu, đánh đập, thậm chi vu oan bắt bớ bỏ bỏ tù.
Tất cả
những cái chết tức tửi, oan uổng, bất thường, thảm khốc đều là biến cố kinh
hoàng cho tuyệt đại đa số con người bình thường, sống trong những đất nước bình
thường, nên họ cần những phương cách trị liệu nhằm hàn gắn vết thương, ổn định
tâm lý người thân, kẻ sống sót.
Đã
hiểu được nguyên nhân, cuộc chữa trị tâm thần sẽ dễ dàng hơn. Nhưng cơn bệnh trầm
trọng nhất cần giải quyết trước mắt là đoàn kết để cứu đất nước. Thoát khỏi lưỡi
dao Tàu đang nằm lơ lửng trên đầu cổ đã rồi ta sẽ tính sau. Để qua một
bên những khác biệt không có nghĩa là bỏ quên quá khứ và lịch sử.
Cuộc di
tản lớn lao lần này đã là lần cuối cùng, may ra rồi sẽ còn một nơi nương náu
tâm linh, một chỗ đi về. Còn đất nước còn tiếng nói, còn quyền tự định đoạt cho
chính mình. Đừng để muộn màng chúng ta sẽ không bao giờ gượng dậy được nữa.
Thử kiểm
điểm lực lượng, tiềm năng và tìm sách lược kháng cự.
Vì ngày
nay chúng ta đông dân hơn thời Bách Việt xưa và chúng ta may mắn tiếp xúc và học
với các nước phương Tây, chúng ta cũng sống trong thời đại thông tin cực kỳ
nhanh chóng, chúng ta có anh em bà con khắp nơi trên thế giới, chúng ta nhìn rõ
tật bệnh để chữa lành và tiến tới.
2) Gien
Bách Việt ?
Về nguồn
cội, người Hán phong gốc Hán cho tộc Bách Việt ở phương Nam. Họ gọi những dân tộc
Bách Việt xưa là anh em của họ ở phương Nam, tộc Hán ở phiá nam. Gốc Nùng, gốc
Đại Lý, gốc Việt xưa kia đều là con cháu nhà Hán, theo họ. Xưa là Nam man với cấu
tặc, bị đè đầu làm tướng làm quân đi đánh anh em tộc Việt vì không nhớ cội nguồn
xưa cổ. Chỉ còn biết ngôn ngữ chữ viết Tàu, chỉ biết Thủy Hử với Tam Quốc Chí
Đông Châu Liệt Quốc, sử ký Tư Mã Thiên, lấy làm hãnh diện làm con cháu Lưu Bị,
Quan Công.
Tiếng
nói tập tục đã quên, cổ sử mơ hồ[59], mà phe chiến thắng thì lại viết sửa lịch sử. Cho nên nếu ta
để ý xem, hầu như các dân tộc Tàu (mới) này, như người Việt, đều có (truyền
thuyết về) tổ tiên, nhưng các tổ tiên này đều...lấy cháu của ông (vua)
tàu nào đó. Lâu ngày thì tộc Hán đều là ông ...cố nội của các tộc khác. Nên ta
không ngạc nhiên khi nhiều người Việt cam đoan tổ tiên mình là người tàu. Thì bởi
tại bà Âu Cơ là cháu Đế Lai, mà ngược lại cũng có người Việt xem dân mình là
...ông cố nội của người Tàu. Nghĩa là có bà con.
Điều
quan trọng là cuộc sống chung hoà bình và bình đẳng, chứ không phân định anh
em, bà con để ức hiếp những thân phận em nhỏ và họ hàng xa theo kiểu giai cấp
phong kiến...Tàu. Nếu trở lui về thời tiền sử và kính lão đắc thọ hay ngàn vàng
mua lấy láng giềng thì mọi người phải tôn kính hậu duệ tiên tổ loài người là
người Phi Châu, đa số đều nghèo không thể có ngàn vàng để mua lân bang hữu hảo.
Xem bản
đồ dưới đây[60].
Hình 9: Hướng thiên di của người hiện đại
từ Phi Châu đến dần Đông Á 65 000 năm trước
.
Huyết học và di truyền học dựa trên đặc tính sinh học máu và trên di tích trong gien con người đã đi ngược đưọc hàng ngàn, hàng chục ngàn năm, thì gốc con người, đường địa di, hải di đã được thiết lập dần từ vài thập niên gần nay, nhất là từ lúc chương trình phân tích gien “thô” và giải mã gien con người Hugo (Human Genome Project) và Encode lần lượtđược phát động năm 1990 và 2003.
Huyết học và di truyền học dựa trên đặc tính sinh học máu và trên di tích trong gien con người đã đi ngược đưọc hàng ngàn, hàng chục ngàn năm, thì gốc con người, đường địa di, hải di đã được thiết lập dần từ vài thập niên gần nay, nhất là từ lúc chương trình phân tích gien “thô” và giải mã gien con người Hugo (Human Genome Project) và Encode lần lượtđược phát động năm 1990 và 2003.
Đường
đi của người hiện đại từ châu Phi, nơi họ sinh ra từ hai trăm ngàn năm trước,
đi đến sống ở Á, Úc và Mỹ châu càng ngày càng rõ ràng hơn. Dù còn nhiều chi tiết
cần được soi sáng cho tỏ tường gốc gác mỗi tộc người địa phương, con người
thiên di theo các ngã chính đến các vùng lớn trên thế giới đã được định
rõ. Nói khác đi, các người cổ (Người Khôn Hiện Đại) đã đến nơi nào đó theo thứ
tự thời gian, nói chung đã được đa số các nhà khoa học chấp nhận. Những tranh
cãi về chi tiết sở dĩ có là do có sự liên tục pha trộn giữa gien người đi, người
ở, người trở về...Nhiều đợt lớn nhỏ, đi về, pha trộn đan xen với nhau. Mỗi khoảng
thời gian đi (về) là hàng trăm hay hàng ngàn năm, lớn nhỏ tuỳ thuộc vào điều kiện
khí hậu và môi trường sống.
Từ thời
sơ khai, giống người hiện đại sau khi rời Phi Châu, qua tới bán đảo Ả rập, họ
đi/sống dọc theo biển cùng tên, xuyên qua Iran, Pakistan Ấn Độ bây giờ để đến
vùng Đông Nam Á (ĐNÁ) khoảng 50 – 60 ngàn năm trước đây. Một nhóm tiếp tục theo
ven biển trên thềm lục địa ĐNÁ có tên Sundaland lúc đó chưa bị ngập bởi hiện tượng
“biển tiến” (khi trái đất nóng lên làm tan băng). Nhóm này qua quần đảo
Indonesia đến nơi xa nhất của đất liền, rồi vượt biển vào châu Úc. Nhóm ở lại
quần đảo Indonesia sinh sống một thời gian mười, hai mươi ngàn năm ở ĐNÁ, sinh
sôi con cháu đông đúc. Nhưng khi đời sống trở nên khó khăn trong các nhóm định
cư tại ĐNÁ, hàng đoàn người đi ngược lên phía Bắc. Tùy theo nơi họ ở lúc khởi
hành, họ lên phía bắc qua ngả Nam Trung Hoa vùng ĐNÁ lên quá khỏi Hoàng Hà vào
vùng Đông Á, hoặc đi vòng phía bên trong, qua cao nguyên Tây Tạng lên đến phía
Đông vùng Trung Á.
Kết quả
phân tích gien truyền qua người mẹ, mt DNA, hay người cha (qua sắc thể Y) cũng
đưa đến cùng kết luận, là các bà mẹ ông cha tổ của người Đông Á đều là
dân ĐNÁ thiên di lên phương bắc, mặc dù đường thiên di phía mẹ không trùng với
cha. Phải chăng đây là cuộc chia tay rồi trùng phùng của nhiều Lạc Long Quân với
Âu Cơ, huyền thọai chia tay mẹ cha rồng tiên, kẻ lên núi, người xuống biển (nhiều
lần) của các tộc thời tiền Bách Việt ?
Rõ ràng
khoa sinh học di truyền và ngành khảo cổ đã chứng minh dân Tàu có tổ tiên phía
bên cha lẫn phía mẹ là cư dân vùng ĐNÁ, tức là vùng của nước Việt và các nước
ven biển đông nam lục địa này. Và bởi vì con người sống trên toàn thế giới đều
có cùng chung tổ tiên, từ Đông Phi đã thiên di tuần tự đến các nơi chưa từng có
người ở. Vì Hy Mã Lạp Sơn ngăn trở, muốn đi đến phía bắc Tàu, tổ tiên chung của
toàn người Hán và Bách Việt từ Phi Châu bắt buộc phải qua ngõ ĐNÁ. Vừa đi qua,
vừa ở lại sinh sôi tại ĐNÁ, cho đến lúc quá đông so với nguồn lương thực có tại
chỗ, họ lại phải thiên di đến miền đất chưa có người ở bắc Đông Á, vì nếu gặp
Thái Bình Dương và về phía nam thì coi như trở về đường cũ, sẽ lại gặp các nhóm
cư dân đi trước. Ngành di truyền học cho phép tính “tuổi” các gien. Người Hán gốc
bắc có cùng một số gien với Bách Việt nhưng là gien trẻ hơn. Họ, Hán- phương- Bắc,
có thêm gien khác vì khi lên đến vùng bắc Hoàng Hà vì hoà huyết (lai) sau đó với
những người cũng đến từ ĐNÁ nhưng bằng đường phía trong đất liền. Tức là người
Tàu bắc và nam đều có tổ tiên là người xuất phát từ ĐNÁ. Tuy có sự pha trộn
gien trong các cuộc di dân, bành trướng, nhưng gien gốc vẫn chỉ ra ai là ông
cha ai là cháu chắt. Và gien chúng ta gần với gien hậu duệ Trăm Việt khác hiện
nay trong vùng ĐNÁ hơn gien Hán.
Nhắc lại,
người Tàu cộng, kể cả khoa học gia, thường phải ép mình theo quan điểm chính thống
của nhà nước Tàu hiện nay, tức là xem dân Hán là một dân tộc đồng nhất (về tiếng
nói) quan trọng về số lượng nhất thế giới ...nhưng chia làm hai nhóm có cấu tạo
gien khác nhau: Hán- phương- Nam và Hán- phương- Bắc. Người Việt hiện nay là
Hán- phương- Nam cùng các dân trăm Việt khác ở nguyên vùng ĐNÁ. Nhiều
khoa học gia khác nói lên sự mâu thuẫn và khiên cưỡng trong quan điểm này,
nhưng nhà nước Tàu hiện nay để phục vụ cho chính sách bành trướng người gốc
Hán, vẫn không muốn những người Hán phương Nam đòi ly khai khỏi gia đình “ruột
thịt”. Thử tưởng tượng nếu đoàn quân Nam Hán này sửa soạn sang đánh bọn Việt
Nam cứng cổ con hoang, thì biết rằng họ là anh em với người Việt nhiều hơn là
anh em với người tộc Hán, họ sẽ nghĩ sao, buông súng “tìm về cội nguồn xưa ” ?
Đòi ly khai để tự mình quyết định một cuộc sống êm đềm, thanh bình hơn ?
Nhưng
chúng ta chớ nên mơ màng ảo tưởng, ông Xi phải lo nuôi họ, phải đưa cuộc sống của
họ lên ngang bằng tộc Hán như đã hứa, nghĩa là tiến về phương Nam, lập vòng đai
mới, biên giới mới và lời hứa hẹn mới!
Nhìn
anh em để làm anh cả, đem ông Khổng Tử ra để đòi có quyền huynh thế phụ, kêu gọi
trung hiếu với thiên triều thì thấy ông quả là người...Tàu.
Chúng
ta nhìn bà con Bách Việt, chẳng phải để đòi hỏi một kiểu ly khai hay chiêu hồi
nào đó, chúng ta chỉ muốn họ được thật sự tự do và sánh bước với thế giới về
lương tâm và tri thức, không mù quáng nghe theo lời đường mật, tự hào một cách
quá bộ lạc và ấu trĩ về sức mạnh phải có của một dân tộc có tầm vóc quốc tế. Một
dân tộc lớn không nhất thiết phải chiếm hết đất đai của cải thiên hạ, một dân tộc
có tầm vóc phải được lân bang và thế giới nhìn bằng con mắt thân thiện anh em.
Cơn đau
thập tử nhất sinh Việt kéo dài và dồn dập suốt thế kỷ vừa qua.
Khi xem
lại những hình ảnh do người Pháp chụp thuộc địa Đông Dương, chúng ta ý thức được
tình trạng lạc hậu nghèo nàn của người Việt. Thoát được gọng kềm của Tàu xưa
kia không phải chỉ nhờ vào sức mạnh nội tại của tộc Việt mà còn là nhờ vào khí
hậu đường xá hiểm trở. Cha ông ta đã từng nhận định như thế, rõ ràng là sáng suốt
và khách quan. Ngày nay tuy vẫn nghèo, yếu kém so với thế giới nhưng ý thức về
bản sắc dân tộc được rõ nét và lớn mạnh hơn. Giòng máu Việt là máu Âu Lạc đã
pha trộn với máu các tộc Việt khác và có khi cả Hán (và Mông, Mãn là các tộc từng
chiếm Tàu và di dân sang Việt Nam) và người Chiêm Thành, Chân Lạp. Chúng ta ngậm
ngùi cho các đất nước đã mất tên này, nhưng linh hồn, bản sắc, màu da, nước tóc
đã hòa lẫn để chúng ta là người Việt Nam, gốc Đông Nam Á. Không cần leo lên
Thái Sơn ngạo mạn nhìn xuống “một con đường, một vành đai, hay xin chút gien Hán,
không cần “mượn sông”, mướn mỏ, cướp biển, hay phải nắm tay TQ mới nghe mình lớn
mạnh, chúng ta chỉ cần đi ngược thời gian, chỉ cần nhìn lại kết quả phân tích
DNA để nói rằng nếu Trung cộng đưa cổ sử thì ta (mà họ cũng đã biết) cũng nói
được rằng tộc Việt đã có mặt từ cổ đại, năm mươi ngàn năm trước trên vùng đất họ
ngày nay, lâu hơn và cũng là gốc của tộc Hán trước khi Hán pha trộn với di dân
phương bắc Đông Á. Nhưng người Việt nói con hơn cha là nhà có phúc. Người Việt
không giết con gái sơ sinh, người Việt thờ mẹ như thờ cha, không bắt phụ nữ bó
chân từ hàng ngàn năm trước. Người Tàu nói nhứt sĩ nhì nông, người Việt nói hết
gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ.
Không
có lý do chính đáng trọng đại (lý do của cải vật chất còn tệ hại hơn) để quỳ gối
dưới chân người Tàu để làm gạch xây tường thành che chắn bảo vệ họ, xây đường
cho họ đi.
B. Chúng
ta phải thay đổi thế nào, cải tiến làm sao cho qua khỏi cơn nguy này ?
Chỉ mới
vài năm dân Việt gửi con gái đi làm dâu Hán ( và tộc Việt phương Nam cũ) tuy
chưa hòa huyết, chưa mất tiếng nói mà đã mất lòng tự hào “nghèo cho sạch rách
cho thơm”, ăn cắp, xảo quyệt, lường gạt thiên hạ hơn cả người Tàu. Phải nói là
có gien Hán trong hành động nhiều hơn cả người Hán!
Nhìn lại
thực tế trước mắt, trong chừng mực nào đó những người con gái nghèo đất Việt bỏ
xứ đi lấy chồng Tàu, trong nhờ đục chịu. Đục hơi nhiều vì đa số anh Tàu ế vợ đều
là nông dân dốt nát, bệnh tật. Những người con trai Việt bỏ gia đình cha mẹ vợ
con nai lưng đi làm công nhân, thứ công dân nô lệ mới cho các hãng xưởng lớn,
mang nhãn...Tàu. Nhưng không lẽ gái Việt đi lấy chồng Việt, tuy ...dễ thương,
biết ngâm thơ Kiều, ca Lục Vân Tiên, vọng cổ, biết chiều vợ thương con, nhưng lại...thất
nghiệp? Nào phải ai cũng được là con cháu đảng viên đi du học Âu Mỹ Úc hay đủ
điểm (thi vào trường dạy làm công an ?) Nào phải ai cũng muốn đi làm CSGTchận
xe thu tiền phạt hoặc làm an ninh, trà trộn với du côn đi đánh bắt mấy đứa “phản
động” trốn thuế lại ưa nhóm họp biểu tình đả đảo chặt phá cây xanh, đả đảo
Trung Quốc xâm lược ?
Nhưng
trời hỡi sao không gởi gấm ước ao, hy vọng vào chính mình hay ai khác mà lại nhằm
tướng cướp mà trao duyên ? Đâu rồi kinh nghiệm ngàn năm tiên tổ ? Đâu rồi quả
báo, kinh nghiệm nhãn tiền trơ trơ trước mắt ?
Chúng
ta cần thức dậy mà đi. Chúng ta cần nhớ đến tiền nhân, tiên tổ, rũ sạch cái áo
Tàu, bụi Tàu, nhìn ra thế giới để học hỏi bắt chước cái hay, cái tốt. Chúng ta
cần lấy đạo lý con người nói chung chớ đừng ca tụng cái đạo lý Tàu mà chính họ
đã từng phá vỡ. Chúng ta cần hướng về Chân Thiện Mỹ của con người, không phải
chỉ của Tống Nho mà Trung Cộng dùng để mỵ dân gạt người. Chúng ta cần
giàu mạnh bằng chính bàn tay và khối óc tộc Việt để khỏi bị ai bức hiếp nhục
nhã.
Có người
đòi thoát Việt cộng trước khi thoát Trung Cộng. Có người đòi hợp tác với Việt Cộng
mới đủ sức thoát Trung Cộng. Đòi là một chuyện, thực hiện được không mới đúng
là câu hỏi phải đặt ra với tất cả những hệ luỵ đến với câu trả lời.
Thoát
Việt cộng cách nào đây, khi ta biết rằng Trung cộng đã giăng bẫy, mai phục khắp
nơi sẵn sàng tiếp tay Việt cộng bắn giết dân Việt. Chúng sai côn đồ (thất nghiệp,
du đảng, tội phạm hình sự vùng biên giới nam Tàu sang trà trộn với đoàn quân cảnh
sát công an bản xứ) đánh bắt tất cả những ai dám lên tiếng chống đảng, chống
xâm lược. Chưa bị ngưng trả lương thì họ sẽ tiếp tục làm lá chắn, làm gươm đao,
thiết bảng, dùi cui. Chưa nói đến việc cùng là cộng sản như nhau, có khi gien cộng
sản tàn ác kiểu Stalin này mạnh hơn cả gien...phát xít.
Cho dù
Việt Cộng tuy sắp hết tiền để trả lương cho đảng viên, công chức, nghĩa là guồng
máy sắp hết chạy, nhưng họ nắm trong tay bảng điều khiển vận hành guồng máy. Phải
nghĩ là còn rất nhiều người còn tin tưởng ở tài năng ...đột biến đột xuất của đảng
vào giờ phút này.
Một cơ
hội để ông Xi ra tay nghĩa hiệp cứu vớt lãnh tụ Việt ? Coi chừng ! Bán luôn cho
Tàu, đảng viên và công chức kỳ này là hết còn gì để bán ! Phải cần nhớ đất nước
đi đến tình trạng nguy nan ngày nay cũng là do lỗi đảng bị kẻ thù ru ngủ, quá
tin vào anh em không cùng họ, cùng gien, quá tin vào chủ nghĩa cộng sản, quá
tin vào bàn tay và bộ óc của mình, quá ngạo mạn, tham lam.
Nhưng
cũng là một cơ hội để (một số) đảng (viên) suy nghĩ tìm giải pháp cứu nguy đất
nước, đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên lòng sợ hãi và quyền lợi riêng tư
của đảng. Những người ký mật ước hay công hàm bán nước không phải là họ bây giờ
mà là những người đi trước. Tội lỗi những người này, dân sẽ biết, sử sẽ ghi
chép. Có nên hy vọng là, nếu làm được như... Yeltsin của Nga thuở nào, người Việt
tạo được cơ hội giúp đảng (mới, lãnh tụ mới ?) lấy công chuộc tội,...ra tay lật
đảng cộng sản, lập thể chế mới, dân chủ, đa nguyên, chắc chắn nhân dân sẽ đồng
lòng ủng hộ và hy sinh nếu đảng này hô lớn : toàn dân nghe chăng sơn hà
nguy biến ?Và hẹn thề đưa dân tộc trở lại thời huy hoàng độc lập tự chủ
800 năm về trước như những Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão xưa kia ?
Giấc
mơ này coi bộ khó đạt hơn nhưng đỡ tốn hao xương máu và dễ làm đối với đảng mới
thoát thai : thử tưởng tượng không những có tên ghi vào lịch sử, mà họ sẽ
còn được dân biết ơn, ca tụng và yêu thương thật sự, có thể ra ứng cử vào những
vị trí quan trọng và được toàn dân bỏ phiếu thuận để còn quyền điều khiển vận mạng
đất nước mà không cần dùng bạo lực. Nhưng đây là lý luận ngây thơ bởi vì kẻ bán
nước, muốn giàu sang cho bản thân và gia đình đổi lại thân phận nô lệ cho cả một
dân tộc thì cách nào mà lay động tự tình dân tộc, lòng yêu quê hương nơi người
không có tim óc ? Trái lại sẽ có lý hơn nếu tin tưởng mãnh liệt rằng đa số người
Việt, hay đúng hơn đa số con người đều lựa chọn những nhân cách tốt đẹp hướng
thượng.
Ôi, khó
như đòi phép màu huyền diệu, như đòi gặp rồng tiên nguyên thuỷ. Nhưng quyền quyết
định và sức mạnh trong tay 85 triệu người Việt chứ không phải đảng và vài ba
triệu đảng viên. Sức mạnh của tuổi trẻ và tâm thức, tinh thần Việt này còn tiềm
tàng, lẩn khuất, con dân Việt nào chưa bi quan tuyệt vọng phải biết cùng nhau
khơi dậy, nuôi nấng để tìm ra giải đáp.
Cùng một
lúc phải tìm cách làm sao cho càng nhiều người Việt ý thức rõ ràng về bản sắc,
vị trí, lòng tự hào dân tộc, biết tình hình đất nước trong quá khứ cùng hiện tại,
thấu hiểu hậu quả tai hại cực kỳ của sách lược chính trị của các lãnh tụ Việt
qua hàng ước bí mật này, về tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, về cơn nguy thập tử
nhất sinh, cận kề của nước Việt ngày nay.
Trong
khi chờ đợi những người con Việt, chuyên gia về giáo dục, luật lệ, khoa học,
kinh tế, quân sự, xã hội, chính trị cùng nhau soạn thảo những giải pháp, sách
lược cụ thể[61], tìm cách liên kết với lương tâm thời đại cùng bạn hữu khắp
nơi trong nước và thế giới, kể cả con cháu dân tộc Hán biết suy nghĩ, có tâm thức
lương tri của con người hiện đại sống trong thế kỷ 21.
Chúng
ta phải biết tự đổi thay và chuyển hoá để cùng nhau đoàn kết, yêu thương nhau,
chung lòng nghĩ đến quê hương và đặt sự sống còn đất nước lên trên tất cả tị hiềm
khác biệt về mọi phương diện giữa chúng ta. Đó là điều kiện quan trọng nhất và
đầu tiên để tiến tới một hội nghị Diên Hồng. Không có vua, không cần vua. Bởi
vì sẽ không còn một cơ hội nào khác nữa đâu.
Phan
Thị Trọng Tuyến
14/12/2015
mừng Việt Khang mãn hạn tù, về với chúng ta.
[1] Lò điện nguyên tử 100% Tàu vừa ký bán cho Argentine
( China National Nuclear Corporation)
[2] Bỏ xuống dưới đây các đóng góp khác để chúng ta bớt tủi hổ
: giải Nobel văn chương và Y học người China đem về cho nước họ trong thập niên
này
[3] Nhưng bị nước Việt của Trần Thái Tông đánh bại.”Thái Tông
ngự thuyền đến hỏi Thái úy là Trần Nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói gì cả, cầm
sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái Tông lại đến hỏi Thái
sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: " Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin Bệ hạ
đừng lo! ".
[4] Wikipedia.org/wiki/Chiến_tranh_Nguyên_Mông-Đại_Việt_lần_2
và lần 3
[5] Hồng Kông, Macau, nửa hai đảo Tababarov và Bolshoi
trên sông Amur thuộc Nga từ 1929 ; chiếm được nhiều đất thuộc lãnh thổ
Kyrgyzstan, Tajikistan và Kazakhstan bằng áp lực; đòi nhiều vùng đất ở
biên giới các nước Ấn, Nepal !
[6] ...Phải tính đến 1 Nobel văn chương ( văn sĩ ly khai đem
về danh dự về cho Pháp) và giải Y khoa năm nay, thiên hạ thán phục không có
nghĩa là kính trọng yêu mến, nói đúng hơn là sợ hãi, gờm mặt, e dè. Họ hiểu rõ
mặt trái của phồn thịnh nước Tàu, khoảng cách giữa giàu nghèo, giữa thành
thị và nông thôn. Họ biết rõ các phương cách kể cả bá đạo người Tàu dùng để đạt
mục đích qua những tài liệu sách vở nghiên cứu về thành quả cách mạng văn hoá,
cải cách ruộng đất, kinh tế, về chính sách sai lầm gây nạn đói hàng triệu người
chết. Sự tàn ác này khiến lãnh đạo Tàu sẵn sàng sát một triệu cho một tỉ còn lại
sống ngoan ngoãn.
[7] Có người tố cáo là ổ gián điệp Tàu. Trên thực tế họ
trưng bày thứ văn hóa Tống Nho từng bị đả phá chôn vùi từ những kế hoạch ngũ
niên đầu tiên của thể chế cộng sản, không thể là mẫu mực đáng noi theo cho các
nước Tây phương (các nước này có thể xem đó như một thứ folklore cũ kỹ), nhưng
có thể có hiệu quả cho các nước nghèo và chậm tiến như Việt Nam (Lào, Thái
Lan...chư hầu tương lai). Đảng csVN, bác Hồ Chí Minh có nhiều khẩu hiệu khẩu
quyết vô cùng Tống Nho : trung với đảng, hiếu với dân. Trời có bốn mùa:
Xuân, Hạ, Thu, Đông.Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: Cần,
Kiệm, Liêm, Chính Thiếu một mùa, thì không thành trời.Thiếu một phương, thì không
thành đất Thiếu một đức, thì không thành người . Dĩ nhiên chư hầu nên
ngoan ngoãn trau giồi các đức tính này còn chủ nhân Hán thì tự miễn.
[7]
Trung Cộng có hơn 14000 km đường biển nhưng đối mặt với biển này là quần đảo Nhật,
Tàu khó lòng tự do tung hoành ?
[9] Người Việt khác tộc Hán ở chỗ ít miệt thị khinh khi lân
bang, họ không gọi hàng xóm là nam man, con hoang hay cẩu tặc...
[10] Tin chính thức hơn 157 000 bị giết tại miềnBắc năm
1954, sau 1975 tại miền Nam khoảng 65 000 bị xử tử trong hai năm
1975-1976 và hơn một triệu người đi tù, nhà cửa, tài sản bị cướp ( tài liệu
Wikipedia).
[11] Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc....(Lê
Duẫn), người Tibet, Ouïghour (không thuộc giống Hán)..cũng chết thảm không kém,
xin xem phần sau
[12] Khoảng 3 triệu mất vì chiến tranh, ba triệu trốn khỏi Việt
Nam trong đó một triệu bằng đường biển ( khoảng 200 000 hay 250000 người
chết ( theo nguồn Radio Canada chỉ trong 2 năm từ 1979-1980, nước Canada
cứu trợ tiếp nhận 60 000 thuyền nhân- số thật sự về người chết
trên biển có lẽ lớn hơn (tài liệu Wikipedia). Pháp và Mỹ nhận hơn 2 triệu
qua các đợt nhận người Việt tỵ nạn từ 1975 đến 1995 và về sau nữa.
http://www.unhcr.fr/4ad2f957e.html
[13] Trong khi chính trị gia, doanh nghiệp Tàu đi khắp nơi
chào hàng, thu mua, không ngần ngại chìu chuộng nịnh nọt gia chủ, còn người
Việt lại đi buôn lậu, ăn cắp, đi làm vợ kiêm nô dịch, đi làm công nhân cho người
bóc lột sức lao động. Còn Quan gia cộng sản thì quá sức oan gia : ăn cắp của
công, xài tiền dân, và vào hoàng hôn nhiệm kỳ thì đi
chuyến tàu vét, đưa của cải, con cái ra ngoại quốc vân vân...
[14] Xây dựng căn cứ quân sự trá hình nơi các địa điểm
chiến lược quan trọng của Việt Nam. Thí dụ tại vùng núi non hiểm trở phía Bắc
sau khi đánh chiếm vùng biên giới Việt Nam, người Tàu đã xây căn cứ quân sự nơi
mà ngày xưa cha ông họ chật vật vất vả đi qua khi muốn mượn đường đi đánh “ai”
đó. Từ các căn cứ trên các đảo cướp của Việt và Phi, lính tàu phải đi từ 270 hải
lý đến 720 hải lý mới về tới quê nhà Trung cộng đại lục, mà thò tay qua đất Việt
chỉ 190 hải lý. Từ Bình Dương, Cà Mau, Vũng Áng vân vân ra ngoài để khuất phục
dân Việt tại thủ đô hay căn cứ quân đội công an Việt, họ chỉ cần đi bộ, nhiều lắm
là đi...xe đạp. Dĩ nhiên nói đây là theo cảm tính. Sự thật còn kinh hoàng áo
não hơn : họ đã ở lẩn lộn trong xóm làng Việt, các tổ chức dân sự, quân sự, lẩn
vào cả những nhóm viết sử, làm sách giáo khoa, soạn chương trình giáo dục, thi
cử...
[15] Trao đổi, giúp đỡ văn hoá là vào chùa chiền sơn phết tượng,
thoa son, quét móng, vẽ chân mày như phường tuồng rồi dần dà viện trợ hay
bán rẻ mấy tượng Quan công, ông Thiện ông Ác, sư tử kỳ lân rồng rắn sặc một kiểu
Tàu duy nhất, thậm chí thay thế tượng thờ tiền nhân Việt bằng quan Tàu, dán cả
bùa chú trấn yểm phong thuỷ long mạch, Một màu đỏ Tàu rất Tàu rất đỏ bao trùm
khắp nơi. Du côn thất học khát máu gốc Tàu len lỏi vào công an, quân đội; gián
điệp và trí thức Tàu biết nói tiếng Việt mai phục hay trà trộn vào guồng
máy hành chánh, giáo dục, phá hoại xã hội và truyền thống Việt Nam bằng mọi
cách. Từ cả chục năm trước và cho đến gần đây những tiếng báo động vang lên khắp
nơi : giáo sư Hoàng Tụy, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Quang
A, nhà giáo Phạm Toàn ..., các nhà cựu ngoại giao, thanh niên sinh viên và người
dân bị áp bức trong nước hoà với tiếng lòng hải ngoại của Huỳnh
Văn Lang, Nguyễn Trọng Kha, Châu Tiên Khương ...Tâm trạng tức giận, đau
buồn, bất lực...này nói lên cảm nhận tình thế hiểm nghèo nguy nan bên bờ vực thẳm
tiêu vong của dân tộc.
[16] Xem Chính Đề (Ngô Đình Nhu)
[17] Lực lượng chính chống trả lúc ban đầu là dân quân (tân
binh) địa phương, quân đội chỉ có vài sư đoàn, tỉ lệ 1 chọi 5. Xem phần sau bạch
thư và sách vở Việt Nam tố cáo Trung Cộng xâm lược. Các tài liệu này không còn
được phổ biến. Phải tìm trên mạng. Xem nhiều bài trên: https://dinhtanluc.wordpress.com
[18] Hán phương Bắc và Hán phương Nam ? Chúng ta sẽ xét
đến điểm này trong phần sau.
[19] Trước đây chỉ người gốc Hán lấy vợ vùng tự trị mới được
phép có 2 đứa con và được nhiều dễ dãi, trợ cấp trong đời sống.
[20] Tiền hối lộ cho ông Đỗ Mười (bao nhiêu để ông đem tặng
cho viện mồ côi 1 triệu đô la ?), Lê Khả Phiêu ( xem phóng sự hình“mênh mông tiền
dân ”), Nguyễn Tấn Dũng (dự án Bauxite) ...còn các cá mập khác thì chưa được
công bố. Cá con và tép riu cũng đưọc ít nhiều vụn bột. Còn đầu trâu mặt ngựa cắc
ké kỳ nhông tấm khiên lá chắn có lẽ chỉ còn mỗi một cách là ăn lương bèo trấn lột
nhân dân anh hùng.
[21] Người Tibet, Tân Cương lưu vong tố cáo Tàu đã thử bom và
chôn rác nguyên tử trên đất họ.
[22] Biên khảo lịch sử, tác giả Phạm Việt Châu. Xem kệ
sách ebook: Giống Bách Việt, trong đó có Việt Nam ngày nay, sống từ lâu tại
phía Nam Dương Tử, bị tộc Hán ức hiếp, xâm chiếm, cai trị trong suốt nhiều thế
kỷ, một phần cư dân phải nhiều lần thiên di dần về phía cực nam Dương Tử, và xuống
Nam Đông Nam Á, hoà huyết sống chung với các cư dân cổ để trở thành các nước
Thái, Miến, Cam Pu Chia, Lào, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương ngày nay. Riêng
tộc Lạc Việt ở cực nam nước Tàu đã hoà lẫn với Chiêm Thành và một phần Phù Nam
để trở thành Việt Nam. Các nước mới này nhiều thăng trầm lịch sử nhưng tất cả đều
đứng vững, độc lập, tăng trưởng, bản sắc hình thành khẳng định riêng lẽ. Ngày
nay, một lần nữa với vị trí chiến lược, thương mại, kinh tế mới, tất cả lại bị
tộc Hán dòm ngó và đã ra tay lũng đoạn, tàm thực. Một công trình
nghiên cứu công phu và nhiều giá trị nhờ cái nhìn sáng suốt và xuyên suốt tình
hình lịch sử kinh tế chính trị. Người đọc cảm nhận được tấm lòng Lạc Việt và
tâm hồn Bách Việt của một nhà nghiên cứu trong quân đội miền nam thời VNCH
[23] Gió thổi lung tung đủ chiều trong các bài đọc của ngài,
đa phần là làm mát lên hy vọng, xin bái phục (các) quân sư viết giùm diễn văn !
Hay
là các lãnh tụ Việt thi hành kế hoạch của Câu Tiễn (Bách Việt) ngày xưa : tự
mình cúi đầu ngậm nhục (nằm n(gai)...vàng, nếm mật..gấu), cho đầu...gấu đánh
người đòi công lý, để tàu lạ cướp cá cướp ghe giết cả dân chài. Không được quân
tử ...tàu cho lắm.
[24] Việt Khang mãn hạn tù ngày 14/12/2015
[26] Ngục trung nhật ký là thơ người khác
(gs. Nguyễn Hữu Mục ), Hoàng Khoa Khôi, Thụy Khuê còn đi xa hơn nữa khi cho biết
những bài văn, bài báo (như Bản án thực dân) viết tại Paris những năm 1924 là
do Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền viết ra với đóng góp của Phan Chu Trinh.
Ông Hồ khi đó chỉ giữ vai trò bình phong che mắt mật thám và chính quyền mẫu quốc
Pháp.
[27] Họ đã chẳng qua lại mua bán đất rừng nhà máy, thi hành
các mật ước, thoả ước chính thức ký ...sau lưng dân Việt?
[28] Xem chú thích 16
[29] Danlambaovn.blogspot.fr/2015/11/ke-hoach-cuop-nuoc-va-ban-nuoc-hoan-hao.html
[30]lhassa.org/histoire-du-tibet/accord-en-17-points.php, hiệp ước
17 điẻm
[31] Xem tài liệu của nhà cầm quyền VN sau cuộc tấn công
Trung Cộng tại biên giới phía bắc VN: Sự thật về quan hệ Việt Nam- Trung
Quốc : dinhtanluc.wordpress.com/303
[32] Nguyễn Huệ Chi : « Nhà thơ Vương Bột thời nhà
Đường của Trung quốc cũng từng nói: “Leo lên đỉnh núi Thái để nhìn các
núi khác, sẽ nhìn thấy được những điều mình chưa thấy qua”.https://levinhhuy.wordpress.com/2015/11/06/cau-tho-vuong-bot/ Đó
là một câu văn, không phải câu thơ, và ở trong thiên khảo luận Bát
quái đại diễn luận của Vương Bột. Nguyên cả câu là: 據滄海而觀眾水.則江河之會歸可見也,登泰山而覽群岳,則岡巒之本末可知也
Cứ thương hải nhi quán chúng thủy, tắc giang hà chi hội qui khả kiến dã; đăng Thái sơn nhi quán chúng nhạc, tắc cương loan chi bổn mạt khả tri dã. (Hãy đứng nơi biển cả để quan sát các dòng chảy, sẽ biết các sông rạch tụ về đâu; hãy lên núi Thái để nhìn các núi non, sẽ thấy được các đèo dốc nhấp nhô mà ta chưa từng biết) Tập đã ngắt vế trước hàm nghĩa nước chảy về nguồn đi, “ý tại ngôn ngoại”... »
Cứ thương hải nhi quán chúng thủy, tắc giang hà chi hội qui khả kiến dã; đăng Thái sơn nhi quán chúng nhạc, tắc cương loan chi bổn mạt khả tri dã. (Hãy đứng nơi biển cả để quan sát các dòng chảy, sẽ biết các sông rạch tụ về đâu; hãy lên núi Thái để nhìn các núi non, sẽ thấy được các đèo dốc nhấp nhô mà ta chưa từng biết) Tập đã ngắt vế trước hàm nghĩa nước chảy về nguồn đi, “ý tại ngôn ngoại”... »
[33] Xem bản đồ Tàu vào đời nhà Đường hay thế kỷ 16, 17 và bản
đồ thủ tướng Đức Angela Merkel đã trao tặng cho ông Xi khi ông qua mua máy bay!
Trong đó không có các đảo bị Tàu chiếm đóng hiện nay. Bà còn là lãnh tụ người
Âu duy nhất dám tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma khi ông sang viếng Âu châu.
[34] ijavn.org/2015/11/loi-noi-doi-vi-ai.html. Thật mỉa
mai : khi Tàu « khuyên » người Việt làm theo nguyện vọng của họ là
quên chuyện biển đảo, thật không thể không nghĩ đến chuyện Hà Nội cũng
« thiết tha kêu gọi» khúc ruột ngàn dặm hãy bỏ qua "định kiến và
mặc cảm" với nhà cầm quyền để cùng tiến tới tương lai theo hướng...Tàu
định.
[35] Trong tài liệu Sự thật về quan hệ Trung Quôc
-Viet Nam trong 30 năm qua : dinhtanluc.wordpress.com/387/ rõ ràng nhà
cầm quyền VN, với Lê Duẩn thời đó, tố cáo với nhân dân VN rằng TQ luôn hành động,
ép buộc để VN bị chia cắt, và đánh nhau liên tục, để bị suy yếu và tuỳ thuộc
vào TQ. Những khí giới TQ giúp để miền Bắc đánh miền Nam và đánh Mỹ xưa
kia nay được đem ra kể ơn và đòi nợ.
[36] Thầy Thích Không Tánh kêu lên “ giặc đã vào nhà, vận mệnh
Tổ quốc lâm nguy“ : www.ghpgvntn.net
[37] Chú thích 13
[38] Cổ sử Việt ghi theo Tàu, mà Tàu đô hộ xâm lăng Việt bao
nhiêu lần, viết sửa lại lịch sử là nghề của chàng, nhưng chúng ta cũng có thể tự
hỏi tại sao không Thần Nông là tổ của Bách Việt, đã khởi đầu việc trồng lúa
thay vì hái lượm, tại vùng này với phong thổ khi hậu thuận lợi ? Người
Tàu khám phá tại Hemudu thuộc Triết Giang, nhiều nông cụ, vật dụng và luá gạo
xưa, cổ nhất thế giới, một thủ phủ của Bách Việt thời cổ đại ?. Giống người
cổ ở đây có các tượng ( thờ ?) người mắt to, mũi lớn, giống như dân vùng hải
đảo Đông Nam Á ngày nay, chứ không cao lớn trắng trẻo đẹp trai phương
bắc kiểu ông Xi : bề thế, mắt hí, mí bụp, má húp, cổ rụt.
[39] Đế quốc Anh Pháp Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha
(néerlandaise, portugale, espagnole) bằng đường biển, cướp nhiều vùng trên vòng
đai Thái Bình Dương tại các nước Nhật,Tàu,Tích Lan, Nam Dương, Ấn Độ, Nam
Mỹ...
[40] Xem chú thích 8 trên đây
[41] Xin lại được nghi rằng : biết đâu các vị này ngoài
mặt đánh đá giành giựt chức quyền để che mắt người Tàu, thực chất lại là bắt
chước Câu Tiễn ngàn xưa, khom lưng, nếm nhục chờ ngày thoát Trung ?
[42] 16 triệu km2, 16 quốc gia, hầu hết là thuộc địa, coi nữ
hoàng Anh cũng là nữ hoàng của mình, nhưng chỉ là vai trò tượng trưng. Họ
hoàn toàn tự do tự chủ về chính sách kinh tế, giáo dục, quân sự văn hoá vân vân
[43] Đây cũng là con dao hai lưỡi cho Tàu : Vùng đạo Hồi
và các dân tộc anh em bao quanh cũng cùng tôn giáo, trong hoàn cảnh Hồi giáo
quá khích hiện nay, mọi hành động đàn áp người Hồi tại Tàu có thể được diễn dịch
ngoài ý muốn người Tàu.
[44] Nơi đây xin tỏ lòng biết ơn những bậc tiền bối cận đại,
như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Vương Hồng Sển, Nguyễn Hiến Lê... cho đến gần
đây hơn Phạm Văn Sơn, Phạm Việt Châu, Tạ Chí Đại Trường...và những vị thầy cô
không danh tiếng nhưng vô cùng gần gũi và có ảnh hương, từ tiểu học qua trung học
đã dạy chúng tôi lịch sử và văn hoá Việt Nam (ít ra từ quan điểm miền Nam :
không hề sợ Tàu ! ).
[45] Kim Dung, người vùng Triết Giang, vốn là một người Tàu
Hoa Nam, đăc biệt « ưu ái » các dân tộc vùng Nam Dương Tử giang, nghĩa là
thuộc Bách Việt xưa. Các nhân vật chính tà do ông dựng lên đều đến từ những tiểu
quốc thuộc nhóm Bách Việt này, Khiết Đan, Đại Lý, Liêu vân vân đã bị nuốt và
Hán hoá từ lâu, nay sống lại dưới ngòi bút Kim Dung, tuy cổ quái tính tình dị hợm
nhưng ai cũng được độc giả lưu ý với ít nhiều cảm tình.
[46] Nỗi băn khoăn của Kim Dung, Tiểu luận, Nhà xuất
bản Văn Mới, Sài Gòn 1972,
http://nguyenmonggiac.info/noi-ban-khoan-cua-kim-dung.html
[47] Diễn dịch thứ nhất là đảng cộng sản Tàu lãnh đạo 4 “giai
cấp” sĩ nông thương và binh (lính). Cộng sản mà chia đến 4 giai cấp thì thiệt
là vô lý/ vô duyên, vi thật sự theo đảng chỉ có hai giai cấp là nhân dân và đảng,
nên xin tạm nhận cách thứ nhất, để làm trục xoay quanh cho bài viết này
[48] 16 chữ vàng và 4 tốt : nguyên văn không nhắc ở đây,
chỉ ghi lại bản dịch đúng nghĩa Láng giềng độc ác. Cướp đất toàn
diện. Lấn biển lâu dài.Thôn tính tương lai
[49] Hiện nay vì vấn đề Hồi giáo cực đoan, họ nới lỏng ràng
buộc để không phải (mang tiếng) khiêu khích những quốc gia Hồi giáo tự do khác.
www.lhassa.org/histoire-du-tibet/accord-en-17-points.php
[50] Dr Rebihya Kadeer còn tuyên bố thêm : « họ
chiếm lấy truyền thống ẩm thực và âm nhạc của chúng tôi, tuyên bố là của
Tàu. Họ tuyên bố có lịch sử 5000 năm, chúng tôi có thể nói ngọn nguồn chúng tôi
còn xưa hơn nữa »
[51] Tháng 10 năm 1949 vừa lập quốc, đầu năm 1950 Mao Zedong
tuyên bố sẽ giải phóng Đài Loan, Tibet và Hải Nam ; cuối năm Mao đưa
84000 quân vào Tibet. Quân đội Tibet phải 1 chọi 10, bị đạo quân nhân dân xâm
lược và thiện chiến đè bẹp nhanh chóng
[52] Hốt Tất Liệt sau khi dẹp yên nhà Nam Tống, lập nhà
Nguyên, cai trị trên toàn cõi Tàu thời đó, không gien Hán nhưng vẫn mưu toan
chiếm nước Đại Việt của nhà Trần để trả thù lần đại bại trước. Như
ta biết, quân Nguyên hai lần sau này cũng bị Hưng Đạo Vương của Đại Việt đánh
không còn manh giáp thời Trần Nhân Tông, con Hốt Tất Liệt là Thoát Hoan chui
vào ống đồng chạy về Tàu.
[53] Tượng Quận, Quế Lâm xưa kia bị nhà Hán cai trị chia
thành quận huyện
[54] Kubilai (Hốt Tất Liệt) năm1257 chưa lên ngôi nhưng cũng
đã cho Uriyangqadai (Ngột Lương Hợp Thai) đem quân đánh chiếm được Đại Lý, rồi
tiện đường đánh Đại Việt lần thứ nhấtdưới thời Trần Thái Tông, với hơn 4 vạn
quân trong đó có phò mã Hoài Đô 50 vương tướng Mông Cổ và 2 vạn người Đại Lý thống
lĩnh bởi hàng vương Đại Lý Đoàn Hưng Trí, bị quân tướng Việt đánh bại (theo
wikipedia)
[55] Cha Nùng Trí Cao là Nùng Tồn Phúc bị vua Lý Thái Tông giết,
nhưng vua tha mạng Nùng Trí Cao và mẹ, sau này lớn lên Cao chiếm Quảng Tây, Quảng
Châu gộp với Đại Lý đổi tên thành nước Nam Thiên « dưỡng quân
và làm các chiến thuyền sửa soạn đánh Quảng châu lần nữa và cương quyết lập một
nước độc lập với tên hiệu là Nam Việt tại thủ phủ Quảng châu. Từ Việt đã cho thấy
vẫn còn khêu gợi và hấp dẫn của các giống dân vùng Lĩnh Nam mà Nùng – Zhuang là
một nhánh Bách Việt » Về sau con và mẹ Cao bị quân Tống giết chết. Còn Cao cũng
chết nhưng không rõ vì sao. Ông được dân Choang sùng kính. Nhưng người Tàu
không xem nước Nam Thiên là một quốc gia độc lập, như đồng thời Đông Âu, Tây
Âu, Mân Việt và Nam Việt nhưng ngàn năm sau (1997) Nùng Trí Cao được phong
(« thần ») anh hùng ...Trung Hoa chắc là để dân Choang càng mau quên
cội nguồn Bách Việt, không lợi dụng đòi...ly khai.
http://nghiencuulichsu.com/…/18/viet-bac-lich-su-va-con-nguoi…/
[56] vì thật ra vốn gốc người Liêu nên bị người Hán ghen
ghét, Kiều Phong phải tự sát, thảm kịch gây xúc động mạnh nơi độc giả
[57] (L’Amant The lover) Người tình (miệt vườn Sa Đéc –Vĩnh
Long gốc Chợ lớn) xuất bản năm1984 và Người tình Hoa Bắc ( L’amant du Nord
) Marguerite viết sau khi J. J Annaud thực hiên phim The lover với Jane March
và Tony Leung
[58] Xem Đề cương của Lê Duẩn : dẩy mạnh cách mạng công
nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật bla bla ...
[59] Nhiều vùng phía Nam Tàu như Quế Châu, thủ phủ xa xưa của
Nùng Trí Cao, còn đền thờ Hai Bà Trưng. Khi chúng tôi hỏi người guide gốc Thượng
Hải về sự tích Hai Bà, cô ta bảo là huyền thoại về « hai bà phù thuỷ » (
witches)
[60]http://diendannguoivietquocgia.com/N...icle%20168.htm,http://kienthuc.net.vn/phong-thuy/tr...ba-120434.htmlhttp://www.nguyenthaihocfoundation.o...ngnuvuong4.php
: Article
[61] Thí dụ dùng tài liệu giáo khoa lịch sử do người Việt soạn
thảo, xem xét luật lệ chính trị để : lập hồ sơ kiện Trung cộng ( luật sư Tạ văn
Tài Harvard Law School ) xem 3 bài của ông ở thesaigontimes.vn. Thí dụ kế hoạch
tấn công/bao vây/cô lập các vùng ngườiTàu ( chiến lưọc gia quân đội ) vân vân
và vân vân
No comments:
Post a Comment