Trong một thời gian dài tăng trưởng, với 2 con số,
kinh tế Trung cộng hiện nay, nếu tính theo tổng sản lượng, thì đứng thứ nhì
trên thế giới, với 8 358,4 tỷ $, chỉ sau Hoa kỳ với 15 684,8 tỷ, trên Nhật 5
959,7 tỷ, trên Đức 3 399,6 tỷ.
Một số người thiên về kinh tế, cho rằng kinh tế là
quyết định tất, đã vội đưa ra những dự đoán tương lai: trong một thời gian
ngắn, kinh tế Trung cộng sẽ vượt Hoa kỳ về tổng sản lượng. Hơn thế nữa họ cho
rằng Trung Cộng sẽ là đệ nhất cường quốc về nhiều mặt và từ đó cho rằng Trung
cộng đạt được mức độ phát triển hiện nay là nhờ vào nền triết lý, văn hóa, văn
minh Đông phương.
Có phải thế không?
Xin trình bày sơ qua về triết lý, văn hóa, văn minh,
để có một khái niệm, rồi chúng ta cùng nhau trả lời cho câu hỏi trên:
Không ai phủ nhận rằng văn minh Đông phương được
tiêu biểu bởi những nước như Ai cập, Tàu, Ấn độ v.v… ; và văn minh Tây phương
bắt đầu bằng Hy lạp, La mã, rồi tới Anh, Pháp, Đức, Hoa kỳ.
Triết lý, chúng ta có thể định nghĩa nhiều cách khác
nhau, nhưng chúng ta có thể định nghĩa một cách ngắn gọn, giản tiện và dễ hiểu
là cách suy tư, cách nhìn, và từ đó đưa đến cách hành xử, cách sống của một
người, một cộng đồng dân tộc.
Từ suy nghĩ, ý tưởng, tư tưởng, đi đến triết lý; từ
triết lý, đi đến hành động, văn hóa, văn minh. Chính vì vậy triết học giữ một
vai trò rất quan trọng cho một cá nhân, hay một quốc gia, dân tộc. Nghĩ làm
sao, hành động làm vậy. Một con người có một triết lý bi quan, thì thường bi
quan. Một quốc gia dân tộc chấp nhận một quan niệm triết lý bạo động, thì hay
gây hấn chiến tranh, chiến tranh không những với nước ngoài, mà ngay chính
trong lòng quốc gia đó.
Văn hóa, văn là đẹp, hóa là biến hóa. Biến cái gì
thành đẹp, đó là văn hóa. Chữ Tây phương, văn hóa là “la culture” có nghĩa là
chống lại cái gì là thiên nhiên (la culture est ce qui contre la nature). Một
cục đá, đó là thiên nhiên, nhưng chúng ta đẽo gọt thành một bức tượng, đó là
văn hóa. Chữ văn hóa Tây phương còn có nghĩa là trồng trọt. Một cánh đồng là
thiên nhiên, chúng ta cày xới, trồng cây để lấy hoa quả, đó là văn hóa.
Sau này người ta còn định nghĩa văn hóa từ nhiều góc
cạnh khác nhau:
Như Aristote (384 – 322 trước Tây lịch), nhà hiền
triết Hy lạp, đã định nghĩa văn hóa là những ngôn từ để trang điểm trong trường
hợp giàu có và cũng là những ngôn từ để an ủi trong lúc nghèo khổ, hoạn nạn.
Edouard Herriot (1972 – 1957), nhà văn, nhà chính
trị Pháp, đã định nghĩa văn hóa là “cái gì còn lại sau khi đã quên hết”. Thật
vậy, như chúng ta đọc sách, chúng ta đã thấm nhuần và quên, cái còn lại là
những cái gì thuộc về chúng ta, thì cái đó là văn hóa.
Văn minh, văn cũng là đẹp, minh là chiếu sáng. Cái
gì đẹp và nhiều người biết tới là văn minh. Nhiều người cho rằng văn hóa chỉ về
tinh thần, văn minh thiên về vật chất. Không hoàn toàn như vậy. Như khi nói đến
văn minh Ai cập, người ta nói đến kim tự tháp. Kim tự tháp không phải chỉ là
những tảng đá ghép lại, mà trong đó có cả một công trình toán học, thiên văn
học v.v... Cũng như vạn lý trường thành của Tàu, không phải chỉ là những bức
tường xây lên, mà cả là một tính toán chiến lược quân sự nhằm ngăn chặn những
đoàn quân đến từ phía bắc, mà người Tàu trước đây gọi là “Rợ Hung nô”.
Trong lịch sử nhân loại, có thời kỳ văn minh đá đẽo,
văn minh đá mài; con người với trí khôn của mình vào lúc đó, đã biết lấy cục
đá, đẽo hay mài nó để làm dụng cụ sử dụng cho mình.
Có người lại nghĩ văn minh Tây phương bắt nguồn từ
văn minh Đông phương. Điều này không phải hoàn toàn sai. Như ta đã biết, văn
minh Tây phương bắt đầu từ Hy lạp, rồi truyền qua La mã, tới Âu châu trong thời
kỳ Âu châu bị cai trị bởi người La mã. Nhưng nói đến triết học, văn hóa, văn
minh Hy lạp, người ta không thể không nói đến những tên tuổi như Thalès,
Pythagore, Socrate, Platon, Aristote v.v…
Thalès de Milet (625 - 546 trước Tây lịch), nhà toán
học, triết gia, thiên văn Hy lạp. Ông đã mang từ Ai cập, từ Babylone (Trung
Đông) về Hy lạp những nguyên lý toán học để tính chiều dài của một đường thẳng
bị cắt bởi những đường song song, điều mà người Ai cập đã biết tính và đã dùng
từ lâu để xây kim tự tháp. Về thiên văn ông đã tính được nhật thực và nguyệt
thực; về triết học ông cho rằng nguyên tố đầu tiên của vũ trụ là nước.
Pythagore, sống vào khoảng thế kỷ thứ VI, tức 500
trước Tây lịch, người ta không rõ năm sinh và năm mất của ông, cũng là một nhà
toán học, triết gia. Chúng ta biết nhiều nhất về ông khi chúng ta học trung
học, đó là định lý Pythagore, theo đó, trong một hình tam giác vuông, nếu chúng
ta biết hai cạnh, thì chúng ta có thể tính được cạnh thứ ba, qua công thức:
tổng số bình phương 2 cạnh thì bằng bình phương cạnh huyền. Ông là thủy tổ của
những quan niệm triết học có tính cách khoa học sau này, cho rằng tất cả đều
qui về khoa học, nói đúng hơn là toán học, vì tất cả đều tương xứng với một con
số.
Hai người này, người ta không có những tài liệu sử
chính xác, nhưng có giả thuyết cho rằng cả hai đều đã du lịch qua những nước
Trung Đông và Ai cập.
Có người nói, nếu không có những nhà khoa học, toán
học, triết lý trên thì không có văn minh Tây phương. Điều này không phải là
sai.
Thêm vào đó, chúng ta cũng đừng quên là chữ viết với
mẫu tự A, B, C, D v.v… của người Tây phương, là đến từ Trung đông, vùng
Mésopotamie, mà người Việt chúng ta gọi là vùng văn minh Lưỡng Hà, đến từ vùng
đồng bằng 2 con sông Euphrate và Tigre, nói rõ ra là vùng thuộc nước Irak,
Syrie, Liban, Palestine ngày hôm nay.
Triết học là cách sống làm sao cho có hạnh phúc, hòa
hợp với chính mình, với người chung quanh và với môi trường; chữ “Philosophie”
của Tây phương gồm 2 chữ, “Philo” là thích, “Sophie” là “sagesse”, là
“harmonie” có nghĩa là sự khôn khéo, biết điều, biết sống và sự hài hòa.
Chính Pythagore đã đưa ra định nghĩa chữ
“Philosophie” của Tây phương. Người ta gọi ông là một nhà hiền triết (le sage),
nhưng ông từ chối, ông trả lời lại rằng: “Tôi không phải là một nhà hiền triết,
tôi chỉ là người đi tìm và thích sự hiền triết, tức sự khôn khéo, biết điều,
biết sống hạnh phúc và hài hòa (la sagesse)”.
Còn văn hóa tiếng Tây phương, như trên đã nói, là
“culture” có nghĩa là chống lại thiên nhiên: con người khi đi qua một con rạch,
một khe đá, bị thiên nhiên ngăn cản, liền suy nghĩ (tư tưởng), tìm kiếm cách
chống lại, biết tìm cách bắc gỗ để đi qua, sau đó làm thành cái cầu, và nếu
những con cầu này được xây lớn lên, trở nên vĩ đại và đẹp đẽ, chiếu sáng (minh)
vì nhiều người bắt chước và làm theo, thì nó trở thành văn minh.
Cũng như chúng ta xây hàng rào hay tường quanh nhà
để có sự kín đáo và an ninh; nhưng khi những bức tường này trở nên to lớn, dài
cả ngàn cây số, vĩ đại, đến nỗi người ở ngoài không gian cũng thấy, thì nó trở
thành văn minh. Ngày hôm nay người ta nói đến văn minh Tàu, ngoài nhiều thứ
khác, người ta không thể quên vạn lý trường thành.
Từ đó, khi nói đến triết học, văn hóa và văn minh
Đông Tây, ngoài những đặc thù sẽ được bàn đến sau, nhưng về căn bản, nó đều
giống nhau, vì nó do con người nghĩ và làm ra; mà con người dù là Đông hay Tây,
dù là da vàng, da đỏ, da trắng, da đen, đều có những nhu cầu về vật chất và
tinh thần giống nhau. Ai sinh ra dù ở đâu, da màu gì, khi đói cũng cần phải ăn,
khi khát phải uống, khi lạnh phải mặc áo hay lấy một vật gì che thân, khi nghe
một bản nhạc hay đều thích thú, khi ăn một món ngon, có thể khác biệt sơ về gia
vị, chỗ này cay hơn, chỗ kia ngọt hơn, nhưng khẩu vị, vì là con người, cũng
tương tự giống nhau.
Về tinh thần cũng vậy, ai cũng muốn được tự do,
những quyền căn bản của mình được tôn trọng, có ai sinh ra dù ở vùng nào đi
nữa, dù da màu nào chăng nữa, lại muốn những quyền của mình bị cấm đoán, bị
đánh đập một cách vô duyên cớ? - Chắc chắn là không.
Những người đưa ra lý lẽ viện vào tính cách đặc thù
của mỗi vùng, mỗi dân tộc, rồi đưa ra luận điệu là những quyền căn bản của con
người khác nhau, tùy từng vùng, tùy theo phong tục tập quán, tùy theo văn hóa
văn minh, để rồi cấm đoán hoặc ngăn chặn những quyền căn bản này. Họ đàn áp,
khủng bố dân, đây là luận điệu phản con người, phản tiến bộ, phản lại dân tộc,
là luận điệu của những kẻ độc tài muốn kéo dài đặc quyền, đặc lợi của mình. Khi
nói đến vi phạm nhân quyền, ngoài những nước độc tài khác ở Phi châu, Trung
Đông, Nam Mỹ, người ta không thể không nói đến hai nước Trung Cộng và Việt Nam.
Thường hễ độc tài là đi đôi với tình trạng thiếu văn
minh, chậm tiến, tham nhũng, hối lộ. Tuy nhiên có người cho rằng Việt Nam và
Trung cộng hiện nay đâu có chậm tiến, nhất là Trung cộng.
Thực ra thì tình trạng phát triển của Trung cộng
hiện nay vẫn kém xa các nước văn minh khác. Thật vậy, nếu ngày hôm nay chúng ta
tới Sài gòn, Hà nội, Bắc kinh hay Thượng hải, chúng ta chỉ ở những hotel mắc
tiền, đầy đủ tiện nghi, thì chúng ta thấy quả thật là “phát triển, văn minh”,
nhưng nếu chúng ta đi ra xa, thì nhiều nơi dân chúng vẫn nghèo khổ, lầm than.
Và điều nguy hiểm, đó là con người sống dưới chế độ cộng sản, không biết trong
lòng họ có là cộng sản hay không thì không biết, nhưng quan sát, chúng ta thấy
họ “chẳng văn hóa, văn minh” chút gì: vô kỷ luật, xô bồ, nhất là vô cảm, không
còn tình người, thờ ơ trước những cảnh thương tâm, cần giúp đỡ, như giúp một cụ
già bị té hay một em bé bị nạn. Điều này chúng ta cũng chẳng cần đi xa, chúng
ta chỉ cần dở một vài tờ báo Việt cộng hay Trung cộng thì chúng ta thấy muôn
vàn cảnh vô cảm, vô lương tâm, và hơn nữa tàn ác như con giết bố mẹ vì tiền,
như cảnh một em nhỏ ở Trung cộng, bị xe đụng, thay vì chạy lại giúp đỡ, người
đi đường thì thờ ơ, kẻ chạy xe lại tiếp tục cán lên để chạy qua, kết quả là khi
một người quét đường báo cho gia đình biết thì em đã bị trọng thương và mất
mạng.
Cho nên nói rằng Trung cộng hiện nay tiêu biểu cho
văn minh Đông phương là không đúng.
Những nước ít nhiều tiêu biểu cho nền văn minh Đông
phương hiện nay có thể nói là Nhật bản và Nam Hàn, những nước vẫn còn giữ được
văn hóa cổ truyền tốt đẹp của mình và đồng thời biết thu thập, gạn lọc cái hay
cái đẹp của người, khác hẳn Trung cộng và Việt cộng đã thu nhập vội vã cái cặn
bã của văn hóa, văn minh Tây phương, xóa bỏ vội vàng những điều hay, cái tốt cổ
truyền để biến xã hội thành ra như ngày hôm nay.
Hiện nay, với khoa học, kỹ thuật, internet, thế giới
có khuynh hướng đi đến một sự tổng hợp triết lý, văn hóa, văn minh, vì những
thứ này, về bản chất căn bản, nó giống nhau, nó đến từ những nhu cầu, bản năng
căn bản của con người, dù bất cứ ở đâu, màu da thế nào, và nó có tính cách thế
thứ, trao truyền từ đời này qua đời khác, mang tính cách thời gian: quá khứ,
hiện tại và tương lai.
Triết lý, văn hóa, văn minh đối với một con người,
cũng như đối với một cộng đồng, quốc gia, dân tộc, chúng ta có thể ví như một
cái cây: quá khứ là rễ cây, hiện tại là thân cây, tương lai là cành lá. Rễ cây
phải ăn xâu vào lòng đất để hút nhựa, thân cây phải to lớn để chuyển nhựa, cành
lá phải rườm rà để hút tinh khí của thập phương.
Những lời kêu gọi hoàn toàn vứt bỏ quá khứ, kiểu như
K. Marx, nếu không nói quá, thì là những lời kêu gọi của những người lãng mạn,
không tưởng, nếu nói hơi quá, thì là những lời kêu gọi của những kẻ “điên”, hay
còn “ấu trĩ”. Một cái cây mà cắt bỏ rễ cây, thì làm sao có thể sống còn.(1)
Như Marx viết: “Chủ nghĩa cộng sản vứt bỏ mọi chân
lý muôn thuở, vứt bỏ tôn giáo và đạo đức thay vì cải cách chúng, và như vậy, nó
chống lại tất cả những hình thái văn minh, phát triển lịch sử trước đó.” (K.
Marx –và F. Engels – Manifeste du Parti communite – trang 51 – nhà xuất bản www.librio.net – 1998).
Cũng như một cái cây, mà vứt bỏ cành lá, như đối với
một dân tộc, tìm cách ngăn cấm những tư tưởng hay, mới lạ, từ bên ngoài, thì
cái cây đó cũng như dân tộc đó không thể lớn mạnh được.
Vạn lý trường thành là một bước tiến của văn minh
Tàu, nhưng đồng thời cũng là một bước cản. Nước Tàu bị tụt hậu là một phần vì
chính sách bế quan tỏa cảng của những triều đình phong kiến. Nhưng bức trường
thành nguy hiểm nhất chính là bức trường thành tâm linh, tự cô lập mình, giới
chính quyền tìm cách cô lập dân tộc mình, trên phương diện thông tin, tư tưởng.
Ngày hôm nay, 2 chế độ cộng sản là Trung cộng và Việt cộng, tìm cách bế quan
tỏa cảng trên phương diện này, trở về chính sách “chủ nghĩa dân tộc cực đoan”,
thì quả là một hành động điên rồ, trong thời đại văn minh tri thức điện toán
hiện tại. Chỉ cần ngồi trước chiếc máy điện toán, nhích con chuột là biết tin
tức khắp nơi.
Cái khôn ngoan của một con người hay của một dân tộc
là quay về quá khứ để giữ lấy những điều hay của chính mình và bỏ đi những cái
dở, cũng như biết mở rộng cánh tay đón nhận những tinh hoa của thế giới bên
ngoài. Đừng nên làm theo kiểu cộng sản Việt Nam, theo đúng lời dạy của Marx:
“Người cộng sản chối bỏ tất cả những nền văn minh trước họ”, chủ trương: “Trí
phú hào đào tận gốc, trốc tận rễ” hay Mao trạch Đông: “Khổng tử là con chó giữ
nhà cho chế độ phong kiến”, hoặc: “Trí thức không giá trị bằng cục phân”; mà
nên làm như người Nhật biết đón nhận những cái hay của Khổng tử, tôn trọng trí
thức. Nói như một nhà tư tưởng, bác học Nhật hiện nay, ông Yoshikawa Kojiro:
“Quyển sách Đàm thoại của Khổng Tử là một trong những quyển sách vĩ đại nhất
của thế giới.”(Theo Les Entretiens de Confucius – trang 5- nhà xuất bản
Gaillimard – Paris 1987 - Bản dịch từ tiếng Tàu của Pierre Ryckmans).
Một nhà nghiên cứu về văn minh Đông phương, nhất là
văn hóa Tàu, ông Jean - Luc Domenach, có nói:
“Tiếc rằng những người như Trần độc Tú, Mao trạch
Đông v.v…, trình độ văn hóa không cao, sống dưới thời kỳ cuối của triều đình
Mãn Thanh, bị liệt cường xâu xé, cho rằng văn hóa Tàu kém văn hóa Tây phương,
không nắm vững cái hay cái dở của văn hóa Đông phương và Tây phương, vội vứt bỏ
văn hóa Đông phương, nhập cảng lý thuyết Mác Lê, cặn bã của văn hóa Tây
phương”. Thật vậy, lý thuyết Mác Lê chỉ là cặn bã của văn hóa Tây phương, người
Tây phương đã vứt bỏ, ngay vào thời K. Marx còn sống: hiện nay tại vùng Trèves,
Đức quốc, sinh quán của K. Marx, có dựng một bức tượng của Marx, nhưng ở dưới
chân có hàng chữ: “Nơi đây là nơi sinh quán của K. Marx, nhưng chúng tôi không
chấp nhận tư tưởng của ông.”
Nhà đại văn hào Pháp, ông Victor Hugo (1802 – 1885),
có thể nói là người đồng thời với Karl Marx (1818 – 1883), có nói về cộng sản:
“Bắt con đại bàng thành con chim chích, buộc con
thiên nga làm con vịt trời, bỏ tất cả mọi người vào trong một giỏ để xóc, để
cho ai cũng như ai. Đó là cộng sản. Và đó cũng là điều mà tôi không thích.”
Một bằng chứng rõ ràng nhất là những dân tộc Tây
phương chối bỏ lý thuyết của Marx, nhất là giai tầng trí thức, không chủ trương
thực hiện “cách mạng cộng sản”, trong khi đó chính Marx cho rằng lý thuyết
“Cách mạng tất yếu” của mình chỉ có thể thực hiện được tại những nước kỹ nghệ
tân tiến. Marx ngồi chờ cách mạng tất yếu ở những nước này. Lúc đầu ở Anh, sau
đó quay sang hy vọng ở Đức. Nhưng cách mạng tất yếu không xẩy ra, rồi Marx
chết.
Có những người bênh vực cho Trần độc Tú, Mao, Hồ, Lê
Duẫn, trước sự chỉ trích “Trình độ sơ học yếu lược” của những người này, cho
rằng nhìn trong lịch sử Tàu và Việt Nam, những người như Hán cao Tổ, lập lên
nhà Hán, Chu nguyên Chương, lập lên nhà Minh ở Tàu ; và Lê Lợi, lập lên nhà Lê,
ở Việt nam, những người này trình độ học vấn cũng không cao.
Có phần đúng nhưng phần sai rất lớn: Đó là những
người như Hán cao Tổ, Chu nguyên Chương, Lê lợi không đặt lại, chống lại và hơn
thế nữa không phá hủy cả một nền văn hóa, văn minh cổ truyền, như những người
cộng sản đã làm. Hán Cao Tổ, có người khuyên ông nên dùng những người có học để
kiến quốc. Lúc đầu ông trả lời: “Ta chỉ cần một thanh gươm và một con ngựa cũng
đủ chinh phục toàn thiên hạ, ta đâu có cần sĩ phu!”. Vị quân sư đáp lại: “Thưa
Bệ hạ, để lấy thiên hạ thì Bệ hạ cần một thanh kiếm và một con ngựa. Nhưng để
bình thiên hạ thì Bệ hạ cần những sĩ phu.”
Sau đó, Hán cao Tổ đã nghe lời khuyên này, không
những dùng giới sĩ phu mà còn phục hồi, phát huy truyền thống văn hóa, văn minh
Tàu, hoàn toàn ngược lại với Mao và Hồ.
Có người lại nói: Ngày hôm nay nước Tàu đang phục
hồi lại tư tưởng Khổng tử, cho thành lập cả 400 viện nghiên cứu Khổng, không
những ở xứ Tàu, mà trên toàn trên thế giới. Thực ra thì chính sách “Phục hồi tư
tưởng Khổng” có tính cách bênh vực, bảo vệ đường lối phi nhân, phản dân tộc của
chính quyền đương thời nhiều hơn là quảng bá tư tưởng “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín” của Khổng và Nho giáo.
Nếu nói đại diện và tiêu biểu cho triết lý, văn hóa,
văn minh Đông phương, chúng ta phải nói đến Nhật bản, và gần đây là Nam Hàn.
Nhiều người nghĩ là nước Nhật được canh tân với thời
Minh Trị Thiên hoàng vào giữa thế kỷ thứ 19. Thực ra tinh thần canh tân của
Nhật đến rất sớm, có thể nói từ thế kỷ thứ 6, với hoàng tử Shotoku, với Hiến
pháp Shotoku, trong đó có câu: “Anh đừng nghĩ rằng anh tất nhiên là tài giỏi
(les sages), và người khác tất nhiên là ngu dốt (les sots), chúng ta đều là
người bình thường (les gens normaux).”
Hoàng tử này đã thực hiện cuộc tổng hợp tam giáo của
Nhật:
Thần giáo theo truyền thống của Nhật, Nho giáo và
Phật giáo.
Nước Nhật đã nhập cảng tư tưởng “Tri hành đồng nhất”
của Vương dương Minh từ Tàu vào thời nhà Minh (1368 – 1644), trong khi đó chính
quyền phong kiến của Tàu chối bỏ tư tưởng của ông.
Nói đến sự phát triển của Nhật ngày hôm nay, có rất
nhiều lý do, nhưng trong đó có lý do địa lý, văn hóa chính trị. Đó là nhờ nước
Nhật gồm nhiều hòn đảo, không phải là một lục địa, nên chính quyền phong kiến
của Nhật đỡ bị tập trung hơn là Tàu và Việt nam. Đấy lại chưa nói đến quan niệm
của Arnold Toynbee (1889 – 1975), theo đó “Sự thách thức lịch sử” (le défi
historique) là động lực chính của văn minh. Theo ông, một dân tộc trở nên văn
minh là vì nó gặp những khó khăn, tất nhiên phải là những khó khăn “có thể vượt
qua”, chứ không phải là những khó khăn không thể vượt qua, như dân tộc Eskhimo,
và từ dân tộc đó, phát sinh ra được một giai tầng thiểu số có đầu óc phát minh,
sáng kiến, thì dân tộc đó trở nên văn minh, và ngược lại khi sức sáng tạo của
giai tầng này bị giảm xuống, thì văn minh đó bắt đầu xuống dốc. Ông không nghĩ
như Oswald Spengler (1880 – 1936), người Đức, triết gia, lý thuyết gia về lịch
sử, có cái nhìn hơi bi quan về lịch sử. Trong quyển Le Déclin de l’Occident (Sự
xuống dốc của Tây phương), Spengler ví một nền văn minh như cơ thể một con
người, những tế bào rồi cũng có ngày bị chết, thì một nền văn minh cũng vậy.
Ngược lại Toynbee lạc quan hơn, ông tin có sự tái tạo. Trong quyển Nghiên cứu
về văn minh (L’Etude de l’histoire), ông phân biệt trên thế giới này có 21 nền văn
minh.
Nước Nhật có một thách thức lịch sử rất lớn, đó là
thiên nhiên khắc nghiệt, đất không những là sỏi đá, mà còn có núi lửa, động
đất, nhưng dân Nhật thời nào cũng vậy, đều có thể tạo ra một giai tầng sĩ phu
trí thức có óc sáng tạo, can đảm, dẫn dắt dân Nhật vượt qua những khó khăn thử
thách.
Nói như vậy, tôi không có ý nói dân Tàu là một dân
tộc không thông minh bằng dân Nhật. Ngược lại đây là một dân tộc thông minh rất
sớm. Một dân tộc đã phát minh ra kim chỉ nam, thuốc súng, lụa, với đầu óc tỷ mỉ
ngồi quan sát con rận và thấy lúc nào nó cũng nằm theo hướng kim chỉ nam, một
dân tộc có đầu óc tưởng tượng và kiên nhẫn đến mức độ dám nghĩ lấy những sợi tơ
nhỏ tý do con tằm nhả ra rồi dệt thành vải. Dân tộc này không phải là không
thông minh. Chúng ta nhớ là vào thời kỳ Tần thủy Hoàng (221 – 206 trước Tây
Lịch), dân Nhật còn chưa văn minh, nếu không nói là còn lạc hậu. Nhờ những
người được lệnh của Tần thủy Hoàng đi kiếm “thuốc trường sinh bất tử” ở ngoài
khơi không dám trở về đã trốn qua Nhật và đã dạy dân Nhật đánh cá voi. Hiện nay
còn lại di tích những miếu thờ những người này. Chỉ tiếc cho nước Tàu, và dân
Tàu là chế độ độc tài quân chủ phong kiến kéo dài quá lâu, giết chết ý chí tiến
thủ, phát minh sáng kiến của người Tàu.
Về Nam Hàn, đây là một nước tôn trọng triết lý, văn
hóa, văn minh cổ truyền và biết thâu nhận gạn lọc những cái hay cái đẹp từ bên
ngoài không thua gì Nhật bản. Nam Hàn đã được coi là một nước phát triển từ
thập niên 80, riêng ngành giáo dục, nước này có thể nói hơn cả những nước tân
tiến. Theo một cuộc trắc nghiệm trình độ văn hóa tổng quát những người thợ
chuyên môn được thực hiện bởi Tổ chức những nước phát triển trên thế giới
(OCDE), thì thợ thuyền Nam Hàn đứng đầu. Với một diện tích là 99 274 Km2, dân
số là 50 triệu dân, tổng sản lượng quốc gia là 1129,6 tỷ $, sản lượng tính theo
đầu người hàng năm là 30 800,5 $, gấp 3 Trung cộng, hơn 8 lần Việt Nam.
Để nói đến sự phát triển của một quốc gia, dân tộc,
nói như một nhà xã hội học, chúng ta chỉ cần đến một vài thành phố chính, nhìn
cách ăn mặc, cách cư xử, tinh thần tôn trọng luật pháp công cộng, thì chúng ta
rõ. Hay một cách khác, chúng ta có thể đưa ra một vài dữ kiện chính, cũng đủ
tiêu biểu: Không ai chối cãi rằng hiện nay một trong những ngành khoa học kỹ
thuật tân tiến nhất là máy điện thoại cầm tay, thế mà hãng Samsung của Nam Hàn
đã đứng đầu trên thế giới về số lượng bán ra, trên cả hãng Applel của Hoa kỳ,
trên cả hãng Nokia của Phần Lan. Về phim ảnh, phim ảnh Nam Hàn không thua gì
thế giới, dân Việt Nam và nhất là giới trẻ đã say mê phim Hàn quốc. Ngay cả
ngành xe hơi, vào năm 2012, hãng xe Hundai, mặc dầu mới vào thị trường quốc tế,
nhưng đã có vị trí quan trọng, theo thứ tự, hãng Toyota (Nhật), với số xe bán
ra thị trường là 9 880 000 cái, hãng Général Motor của Mỹ (9 800 000), hãng
Volkswagen của Đức (8 500 000), hãng Renault – Nissan (Pháp) với 8 000 000,
hãng Hundai của Nam Hàn với 7 500 000.
Nhiều khi chỉ cần một sự kiện nhỏ cũng đủ nói lên
nhiều ý nghĩa: như việc dùng biểu tượng Kinh Dịch cho lá cờ quốc gia Nam Hàn, ở
giữa có một vòng tròn chia làm 2 phần biểu tượng cho quan niệm âm và dương,
xung quanh là bốn quẻ chính (Càn, Khôn, Khảm, Ly).
Kinh Dịch là quan niệm về triết lý, vũ trụ, nhân
sinh quan đã ảnh hưởng lâu đời ở Tàu và những nước chung quanh như Hàn quốc,
Nhật Bản, Việt nam, theo đó vạn vật, vũ trụ và ngay cả xã hội con người biến
chuyển theo cách tương tác, bổ sung, như câu: “Hữu vô tương sinh, âm dương
tương hòa, dài ngắn tương khuynh, cao thấp tương hình”, trái với quan niệm Biện
chứng pháp của K. Marx, theo đó vạn vật và cả xã hội con người biến chuyển theo
Biện chứng pháp (Đề - Phản Đề - Tổng Đề).
Một sự kiện được coi là Đề, rồi có một sự hiện khác
chống lại, được gọi là Phản Đề, tiêu diệt Đề, đưa tới Tổng Đề. Cứ như thế mà
biến chuyển. Đây là sự biến hóa theo cách triệt tiêu. Từ đó Marx áp dụng vào xã
hội loài người, đưa ra quan niệm giai cấp và nghĩ rằng giai cấp này (Phản Đề)
phải triệt tiêu giai cấp kia (Đề) để làm nên giai cấp khác (Tổng Đề), đưa ra
quan niệm đấu tranh giai cấp, cùng kết luận: lịch sử nhân loại là lịch sử của
bạo động, chiến tranh, đấu tranh giai cấp, như ông mở đầu bản Tuyên ngôn thư
Đảng cộng sản.
Lấy cái bất bình thường làm cái bình thường, đấu
tranh giai cấp là một lời kêu gọi nội chiến triền miên, nên xã hội cộng sản là
một xã hội luôn bất ổn, cộng thêm vào đó Marx chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu,
có nghĩa là bãi bỏ một nguyên động lực chính thúc đẩy con người làm việc, vì
Marx sai lầm cho rằng quyền tư hữu có thể bãi bỏ, nhưng thực tế quyền tư hữu
chỉ có thể chuyển nhượng, như chúng ta đã thấy trước đây và hiện nay ở những
nước cộng sản còn lại, quyền tư hữu đang ở trong tay dân, sau những cuộc đánh
tư bản mại sản, thì chuyển nhượng sang đảng đoàn cán bộ. Đó là những lý do
chính khiến chế độ cộng sản, áp dụng triết lý của Marx, bị thất bại.
Có người cho rằng 2 chế độ của Trung cộng và Việt
cộng đâu còn là cộng sản mà là tư bản. Thực ra vẫn còn là cộng sản vì Hiến pháp
của 2 chế độ này vẫn còn ghi rõ “Lấy lý thuyết Mác Lê làm nền tảng cho chế độ”.
Còn theo tư bản là theo cái cặn bã của tư bản, làm bất cứ chuyện gì để có tiền,
không có luật lệ, đạo đức, ngay cả giết người, như trường hợp sữa có chất
Mélanine, đầu độc cả trăm ngàn trẻ em ở Trung cộng và trên thế giới, theo đúng
câu nói của Đặng tiểu Bình: “Mèo trắng hay mèo đen, không cần biết, miễn là mèo
bắt chuột.”.
Quan niệm đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử, mới
nhìn thì thấy có lý, nhưng suy nghĩ về lâu về dài thì không, vì Marx đã lấy cái
gì bất bình thường làm cái bình thường. Bình thường con người ai cũng thích
sống hòa bình, chỉ khi nào bất đắc dĩ, bất bình thường, con người mới dùng tới
bạo động.
Ngay cả lịch sử một quốc gia, dân tộc cũng vậy.
Chúng ta lấy thí dụ điển hình là lịch sử 2 dân tộc Pháp và Đức. Người ta có thể
nói 2 dân tộc này là một trong những nguyên nhân chính của 2 cuộc Thế Chiến,
nhưng đó chỉ là bất bình thường, còn bình thường thì 2 dân tộc này vẫn muốn
sống trong hòa bình.
Trở về với trường hợp Nam Hàn: Chỉ cần lá cờ quốc
gia cũng đủ nói lên sự kiện Nam Hàn xứng đáng tiêu biểu cho triết lý, văn hóa,
văn minh cổ truyền Đông phương. Cho nên quan niệm xã hội biến hóa theo “Tương
tác, bổ sung”, vẫn đúng hơn là quan niệm “Biến hóa theo Biện chứng triệt tiêu.”
Có người nói đọc Kinh Dịch rất là cam go, khúc mắc,
làm sao người dân có thể hiểu nổi. Đồng ý, nhưng dựa vào Kinh dịch làm quốc kỳ,
đây chỉ là một biểu tượng, tôn trọng giá trị tốt đẹp của triết lý, văn hóa, văn
minh cổ truyền. Hơn thế nữa chúng ta cũng đừng coi thường dân Nam Hàn, từ ngày
đầu tiên Tướng Park Chung Hy lên nắm quyền năm 1961, ông đã ý thức rất rõ là
tương lai, rường cột của quốc gia là giới trẻ, và giáo dục tốt giới trẻ là
nhiệm vụ đầu tiên của quốc gia. Nên ông đã bổ nhiệm một Hội Đồng cải cách giáo
dục, bao gồm các trí thức bác học, học giả Đông Tây, kim cổ, của mọi giai tầng,
mọi ngành, mọi giới, cùng nhau bàn luận và soạn thảo ra một kế hoạch cải cách
giáo dục sâu rộng, từ chương trình tiểu học cho tới đại học, nâng đỡ ngành giáo
dục, khuyến khích thầy cô, tôn trọng tinh thần yêu nước, trách nhiệm, tự trọng
mình, trọng người, nêu cao tinh thần danh dự, làm một cuộc tổng hợp hài hòa
giữa cũ và mới, tôn trọng những giá trị cổ truyền dựa trên tinh thần triết lý
đông phương, Khổng, Lão, Phật, nhưng cũng sẵn sàng mở vòng tay đón nhận những
điều mới lạ, tiến bộ của thế giới bên ngoài: tinh thần tôn giáo Thiên chúa, Tin
lành và tinh thần khoa học v..v… Chính vì vậy mà từ lâu Nam Hàn đã có một đội
ngũ trí thức cán bộ, chuyên viên nổi tiếng trên thế giới, đi đâu làm việc cũng
chịu khó, học hỏi, nghiên cứu và có trách nhiệm. Bằng chứng hiện nay là 2 cơ
quan quốc tế lớn nhất thế giới, Liên Hiệp quốc và Ngân hàng thế giới, đều do 2
người Nam Hàn điều khiển, một người hoàn toàn Hàn quốc, một người quốc tịch Mỹ
gốc Hàn. Cũng như việc bầu người con gái của tướng Park Chung Hy lên làm tổng
thống Nam Hàn hiện nay, chứng tỏ dân tộc này có một sự trưởng thành chính trị
văn hóa rất cao. Họ chỉ trích Park Chung Hy là người độc tài. Điều này người
con gái ông khi ra tranh cử cũng thừa nhận, hứa không chủ trương độc tài, nhưng
bà nói rõ bố bà là một người yêu nước, nền giáo dục và kinh tế hiện nay của Nam
Hàn là do ông ta đặt nền móng. Dân Nam Hàn đã ý thức được điều đó và đã bầu cho
bà.
Vào năm 2 008, thế giới bị khủng hoảng kinh tế,
trong đó có Âu châu, thường là những nước rất kiêu hãnh, dẫn đầu bởi Pháp, chỉ
thích cho người khác những bài học, thế mà đã phải nhún nhường, gửi một phái
đoàn vừa chính trị vừa chuyên gia, dẫn đầu bởi một vị cựu thủ tướng, sang Nam
Hàn để nghiên cứu học hỏi cách thức làm sao nước này thoát khỏi khủng hoảng mau
lẹ và hữu hiệu.
Chúng ta cũng đừng quên là ngay từ thời Park Chung
Hy, ông đã chủ trương chống tham nhũng tuyệt đối. Từ đó đến nay Nam Hàn được
coi là một trong những nước trong sạch trên thế giới. Một thí dụ điển hình: Một
vị cựu tổng thống Nam Hàn, có dính dáng tới vấn đề tham nhũng, không phải ông,
mà là một người trong gia đình, chỉ với số tiền 50 000 $. Khi có bằng chứng rõ
ràng, ông đã đi lên một ngọn núi cao, rồi nhảy xuống tự tử. Đó là tinh thần
danh dự và trách nhiệm. Trong khi đó những nước chung quanh, giới lãnh đạo lúc
nào miệng cũng rêu rao: “Cần kiệm liêm chính”, cho dán biểu ngữ, bích chương
đầy đường. Nhưng vẫn tham nhũng hối lột từ trên xuống dưới, không phải 50 000
$, mà là 500 000 hay 5 000 000 $. Không còn một chút liêm sỉ, danh dự và trách
nhiệm!
Người xưa có nói câu: “Nhân vô liêm sỉ hà như vật
dã!”, Người không có liêm sỉ thì chỉ bằng con vật! Vì vậy, nói là đại diện,
tiêu biểu cho triết lý, văn hóa, văn minh Đông phương, người ta có thể nói đến
Nhật và Nam Hàn, chứ không phải Trung cộng và Việt cộng, vì Nhật bản và Nam Hàn
biết tôn trọng triết lý, văn hóa, văn minh Đông phương, và đồng thời biết mở
rộng cánh tay đón nhận những cái hay, cái đẹp của người một cách biết suy nghĩ,
gạn lọc, chứ không phải như kiểu Trung cộng và Việt cộng vội vã nhập cảng cặn
bã của văn minh Tây phương, từ cộng sản tới tư bản.
Đây cũng là câu trả lời cho một số nhà kinh tế kiêm
xã hội học cho rằng những nước theo tư tưởng triết lý Phật, Khổng, Lão, không
thể phát triển được về kinh tế.
Những nước không thể phát triển về kinh tế xã hội,
qua kinh nghiệm suốt thế kỷ 20 vừa qua, cho chúng ta thấy, đó chính là những
nước vứt bỏ triết lý, văn hóa, văn minh cổ truyền, vội vã nhập cảng tư tưởng,
triết lý cộng sản của Marx.
Một thí dụ điển hình và còn hiện đại, đó là chúng ta
so sánh tình trạng phát triển giữa nam Hàn và Bắc Hàn, theo lý thuyết của Marx.
Bắc hàn hiện nay không những đàn áp dân, mà dân năm nào cũng bị nạn đói.
Thực ra, mô hình tổ chức xã hội của Marx, sau được
tăng cường bởi Lénine, Staline, chỉ là một hình thái chế độ quân chủ phong
kiến. Nhưng chế độ quân chủ phong kiến xưa kia còn có liêm sỉ, tự trọng, giai
từng sĩ phu, trí thức, quan lại còn liêm khiết, nghĩ đến dân. Ngày nay với chế
độ quân chủ phong kiến cộng sản, thì hoàn toàn ngược lại: vô liêm sỉ, tham
nhũng từ trên xuống dưới, chỉ nghĩ đến cá nhân, gia đình và đảng đoàn. Người ta
có thể nói chế độ quân chủ phong kiến độc tài còn kéo dài cho tới nay dưới
những chế độ cộng sản còn lại, Trung cộng, Việt cộng, Bắc Hàn và Cu Ba.
Ông Tiền kỳ Minh, con của ông Tiền kỳ Thâm, cựu Phó
Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Tàu, ông Minh có du học qua Mỹ thời kỳ thập
niên 90, trong thời gian ở Mỹ, ông có viết quyển sách Mặt trời chiếu sáng nhiều
ở phương Đông hay ở phương Tây. Theo ông, vấn đề chiếu sáng nhiều ở Đông hay ở
Tây không quan trọng ; việc quan trọng là dân tộc Tàu bị đàn áp, chèn ép bởi
những chế độ độc tài quá lâu, trong đó có độc tài cộng sản, mặc dầu ông không
nói rõ ra, vì ai cũng hiểu tựa đề quyển sách là để trả lời câu khẩu hiệu của
Mao: “Mặt trời chiếu sáng nhiều ở phương Đông” hay “Đông phương hồng”.
Bởi lẽ đó, khi nói về triết lý, văn hóa, văn minh và
vội vã cho rằng Trung cộng và cộng sản Việt Nam hiện nay là tiêu biểu cho Đông
phương, thì không đúng, đó chỉ là căn bã của văn minh Tây phương.
Paris, ngày 12/03/2014
____________________________
Chú
thích:
(1). Xin xem thêm những bài Phê bình về K. Marx,
trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
No comments:
Post a Comment