Phạm Chí
Dũng
25/03/2014
Cấm
bắt giam người khiếu kiện!
Dù bị một số giới quan sát phương Tây xem là chế độ
còn “phát xít” hơn cả Việt Nam, ít nhất thế hệ lãnh đạo mới ở Trung Quốc vẫn
biết và vẫn dám làm một ít đầu việc mà giới chính khách cao cấp ở Hà Nội chưa
bao giờ dám quyết định.
Gần cuối tháng 3/2014, một văn kiện do Ban chấp hành
trung ương Đảng và Hội đồng nhà nước Trung Quốc ban hành đã nhấn mạnh “Tuyệt
đối cấm việc giam giữ trái phép người khiếu kiện”.
Theo nhận định của báo chí phương Tây, đây là một
chủ trương khá mạnh dạn sau bốn tháng bãi bỏ hệ thống trại cải tạo lao động.
Trên lý thuyết, các công dân Trung Quốc có tranh
chấp với chính quyền địa phương, nhất là trong các trường hợp cưỡng chế đất
đai, bê bối vệ sinh môi trường hay lạm dụng quyền hành và bị ngược đãi, đều có
thể kêu lên các cấp chính quyền cao hơn, hay thậm chí lên tận trung ương ở Bắc
Kinh. Nhưng trong thực tế, đại đa số chính quyền địa phương vẫn làm ngơ trước
các khiếu kiện của dân. Nhiều người dân đi khiếu kiện lên cấp trên bị chặn bắt
giữa đường hay bị giam giữ trái phép trong các “nhà tù đen” trước khi
được thả về địa phương.
Thực ra lệnh cấm đối xử thô bạo đối với người khiếu
kiện đã được phát ra vào tháng 5/2013. Sau cuộc bùng nổ chống cưỡng chế tại
làng Ô Khảm ở Quảng Đông vào cuối năm 2011, Bộ Tài nguyên Đất đai Trung Quốc đã
phải ban hành một thông tư khẩn kêu gọi chấm dứt các vụ cưỡng chế tịch thu đất
bất hợp pháp. Theo đó “Các hành động dùng vũ lực để tịch thu đất đai bất hợp
pháp sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc”.
Trong những năm gần đây, các vụ cưỡng chế và tịch
thu đất đã gây ra hàng chục ngàn vụ biểu tình và xung đột. Khoảng 90.000 vụ “sự
cố tập thể” - mỹ từ được sử dụng để chỉ các vụ nổi dậy - được ghi nhận hàng năm
tại Trung Quốc, trong đó có đến hai phần ba số vụ liên quan đến việc trưng thu
đất - một tỷ lệ gần tương tự ở xã hội Việt Nam.
Cũng như Việt Nam, trong sâu thẳm và tận cùng, xã
hội Trung Quốc luôn tiềm ẩn những nghịch lý kinh khủng.
Trong khi tổng khối lượng kinh tế của Trung Quốc
nhìn lên chỉ xếp sau Mỹ, thì vẫn còn quá nhiều nông dân phải cắm mặt xuống đất.
Cánh cổng khép kín của quốc gia này đã khiến cho
nhiều vụ việc trở nên câm lặng. Như một sự toa rập với định hướng chỉ đạo, một
phần trong hệ thống truyền thông đại chúng vẫn ca ngợi sự thịnh vượng của đất
nước, thay cho chuyện mổ xẻ cái nghịch lý “nước giàu dân nghèo”.
Dù vào tháng 11/2013, Bắc Kinh đã quyết định xoá bỏ
hệ thống trại cải tạo lao động, nơi có thể giam giữ người không qua xét xử,
nhưng chính quyền địa phương ở Trung Quốc vẫn bị tố cáo là đã sử dụng hệ thống
trại cải tạo để trấn áp những tiếng nói đối kháng, tố giác tham nhũng và cả
những người dân oan khiếu kiện. Cho đến nay, nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền
vẫn cảnh báo vẫn còn tồn tại hiện tượng bắt giữ vô cớ người khiếu kiện. Theo
Amnesty International, ở Trung Quốc, nhiều trại lao cải vẫn tồn tại dưới dạng
trại cai nghiện.
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “Bạo lực là thủ đoạn
sau cùng của kẻ không có năng lực”. Tình trạng bắt giữ vô cớ người khiếu
kiện cũng gián tiếp xác nhận thực tế cầm quyền gần như bất lực của chính
quyền.
“Đánh
thuế” người khiếu kiện
Không thu hoạch được gì từ tinh thần phẫn uất ghê
gớm của làng Ô Khảm ở Trung Quốc và vụ Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, vào tháng
5/2013 ông Huỳnh Phong Tranh - người đã tỏ ra mềm mỏng với thông điệp “Công tác
thanh tra là bạn của dưới, tai mắt của trên” khi mới nhậm chức Tổng thanh tra
chính phủ, còn phát đi một thông điệp khác với quan điểm “kiên định” khác
thường: “Đối với các đoàn (khiếu kiện) đông người quá khích, đặc biệt là những
đoàn mang màu sắc chính trị tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, Tổng thanh tra chính
phủ yêu cầu phải tiến hành cưỡng chế”.
Cùng thời gian trên, một quan chức của Quốc hội Việt
Nam là Phan Xuân Dũng, cũng là người đóng vai trò phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học
công nghệ và Môi trường của cơ quan dân bầu này, đã tung ra một sáng kiến chưa
thể có tiền lệ: “Cần có quy định bắt buộc người khiếu nại tố cáo ứng ra một
khoản tiền đặt cọc. Thua thì coi như mất tiền đặt cọc, còn kiện đúng thì tiền
cọc mới được nhà nước hoàn trả”.
Những đề xuất trên được nêu ra trong bối cảnh việc
giải quyết khiếu tố đất đai đang hết sức nóng bỏng ở Việt Nam, với khoảng 80%
đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai và hơn 70% trong số đơn thư đó nhằm
tố cáo rất nhiều sai phạm của các chính quyền địa phương về công tác bồi
thường, cưỡng chế giải tỏa, tái định cư…
Cơn sóng thủy triều khiếu kiện vẫn ầm ầm trên mọi
nẻo đường đất nước. Không hẹn mà gặp, giữa người dân khiếu kiện từ các tỉnh
Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần
Thơ, Đồng Tháp, Bình Dương, TP. HCM… đã có một mối dây tương thích về chia sẻ
cảnh ngộ và phương thức đấu tranh đòi quyền lợi chính đáng của mình.
Với
người dân khiếu kiện đất đai, giờ đây vấn đề không còn đơn thuần nằm trong
những lá đơn khiếu nại gửi tới các cấp thẩm quyền. Thái độ quan liêu tắc trách
và cả ý đồ không nhân nhượng của một số nhân vật đặc quyền đặc lợi trong hệ
thống chính quyền càng khiến cho người dân thấm thía số phận của mình đã bị an bài
như thế nào. Bởi thế trong não trạng của rất nhiều người dân, chỉ có sự đoàn
kết, đồng lòng trong khiếu tố, khoa học và bài bản trong tổ chức biểu tình và
phản kháng mới có thể làm cho chính quyền địa phương thừa nhận sai lầm và mang
lại cho người dân bị giải tỏa một kết thúc có hậu hơn.
Còn với người dân bị mất đất và nhiều trường hợp bị
cướp đất, không còn cách nào khác, họ phải liều lĩnh hành động để giành giật sự
sinh tồn cuối cùng cho gia đình mình. Thái độ và bản lĩnh trong việc thách thức
và sẵn sàng đối đầu, chống đối chính quyền cũng vì thế đang có chiều hướng bùng
phát, một sự bùng phát mà đến một thời điểm nào đó, mọi cố gắng kềm chế từ phía
chính quyền sẽ trở nên bất khả kháng.
Gần hai chục năm sau “cuộc cách mạng” Thái Bình, một
lần nữa cơn bão khiếu tố đất đai của nông dân đang trở nên một phản ứng xã hội
ngày càng ghê gớm và có thể đe dọa đến “sự tồn vong của chế độ” - như
điều mà người phụ trách cao nhất của Đảng vẫn lo ngại.
Song nhiều giới chức chính quyền lại không hề động
não đến một hệ lụy tất yếu của quy luật tâm lý xã hội: sự chèn ép và phủ chụp
về não trạng điều hành độc đoán đối với những người dân oan đi khiếu kiện đã
góp một phần không nhỏ làm cho mối quan hệ giữa người dân và chính quyền trở
nên xung khắc và thậm chí còn mang sắc màu xung đột.
Một khi không thể nhận thức và cũng không chút cảm
thông với “những cuộc tụ tập có màu sắc chính trị” của tầng lớp nông dân
khiếu tố đất đai, nhà cầm quyền sẽ nhanh chóng rơi vào nguy cơ “không có năng
lực” như hiện tình Trung Quốc, và chế độ cũng rất có thể bị đẩy vào tình trạng
mất kiểm soát trong không khí đầy bạo lực.
Đổi
màu không đổi máu
Như một hiệu ứng đồng pha, hàng chục năm qua đã đồng
thời diễn ra một phong trào khiếu tố đất đai lan rộng với mức độ gay gắt bất
thường ở cả Trung Quốc và Việt Nam.
Nhưng khác với Việt Nam, chính thể Trung Quốc còn có
kế sách để ngăn chặn “nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ”.
Ít nhất, một quy định về cưỡng chế, thu hồi đất đai
do Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc ban hành đã chính thức có hiệu lực từ
ngày 10/4/2012. Theo đó, chính quyền không được tiến hành cưỡng chế nếu gặp
phải một trong những tình huống như: thiếu căn cứ thực tế, thiếu căn cứ pháp
luật, bồi thường không công bằng, không rõ ràng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới
quyền lợi hợp pháp của người bị cưỡng chế, không đảm bảo điều kiện sống cơ bản
hoặc điều kiện kinh doanh sản xuất của người bị cưỡng chế.
Còn ở Việt Nam, vẫn chưa có gì thay đổi đáng kể sau
vụ Đoàn Văn Vươn, ngoài việc “rút kinh nghiệm” chỉ đổi màu không đổi máu. Nhiều
vụ khiếu kiện đất đai đã bị quy chụp cho cái mũ “tụ tập mang màu sắc chính
trị” và đã bị đàn áp nặng nề.
Bài học mà một số giới chức lãnh đạo ở Việt Nam
tưởng chừng đã “tỉnh ngộ”, lại vẫn đang bị căn bệnh hoang tưởng quyền lực phong
tỏa. Những gì mà giới chức chính quyền địa phương lẽ ra phải được giáo huấn một
cách thật sự nghiêm khắc thì lại bị chính quyền trung ương phớt lờ. Ngược lại,
có quá nhiều minh họa cho thấy giới chức địa phương và cả trung ương chỉ rắp
tâm phục vụ yêu cầu của các nhóm lợi ích bất động sản.
Trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng quá
tồi tệ từ năm 2011 đến nay, các chủ đầu tư không thể tiêu thụ sản phẩm và do đó
không thể thu hồi được vốn đầu tư và trả món nợ kếch xù cho ngân hàng nếu không
nhanh chóng hoàn thiện công trình. Với những dự án còn dở dang trong công tác
giải phóng mặt bằng, điều tiên quyết là phải giải tỏa dân chúng càng sớm càng
tốt để có thể thu về “đất sạch”.
Riêng những chủ đầu tư máu lạnh phải hoàn thành bằng
được bước đi đầu tiên và “sạch sẽ” nhất - ly khai với tầng lớp dân chúng nghèo
khổ, để sau đó mới có thể tiếp cận được với một giai tầng dân chúng khác bớt
nghèo khổ hơn nhiều.
Một số chủ đầu tư máu lạnh như thế đã đốt cháy giai
đoạn bằng cách thúc ép và cả “vận động” chính quyền địa phương bằng một thứ “dịch
vụ đặc biệt”, để chính quyền có động lực thi hành biện pháp cưỡng chế đối với
những hộ dân thuộc loại “chây lì”. Cảnh sát và quân đội cũng được huy động vào
các chiến dịch đẩy đuổi người dân ra khỏi chỗ chôn rau cắt rốn.
Trong bối cảnh thông tin một chiều về “diễn biến hòa
bình”, các cơ quan của chính quyền địa phương, từ Ban dân vận, Ban tuyên giáo
đến cơ quan giải quyết khiếu nại tố cáo, đặc biệt là cơ quan công an càng có lý
do để gán ghép hành vi khiếu kiện và phản ứng đất đai của người dân bị giải tỏa
thành “gây rối có tổ chức”. Cán bộ của những cơ quan này, trong khi không mấy
quan tâm đến nguồn gốc đầy mất mát thương tâm của các vụ việc khiếu tố đất đai,
lại luôn lên giọng về hình ảnh “các thế lực thù địch luôn tìm cách kích động,
lôi kéo người dân đi khiếu kiện, tiến đến gây mất ổn định trật tự xã hội và an
ninh chính trị”.
Nguy cơ xung đột đất đai và đối đầu giữa người dân
với chính quyền cũng bởi thế càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết, trở thành
tiền đề không tránh khỏi cho một cuộc khủng hoảng xã hội khó thoát khỏi cảnh đổ
máu và hồi tố.
P.C.D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 08:10
No comments:
Post a Comment