Khách-SJ,
thành viên Dân Luận
Thứ Hai, 10/02/2014
Tin
liên quan: Mời xem Videoclip phỏng vấn cựu thiếu tá hải quân
VNCH Phạm Văn Hồng, người cùng với trung úy Gerald Kosh, nhân viên tòa tổng
lãnh sự quán Hoa Kỳ, đã có mặt trên tàu HQ-16 và là nhân chứng trong trận hải
chiến Hoàng Sa 1974 được phổ biến trên Youtube với tựa đề:
"Hoàng
Sa - Trường Sa với cựu TT Phạm văn Hồng"
*
Đặt giả thuyết nghi ngờ Mỹ đã “tặng” Hoàng Sa
cho Trung Quốc thì là quyền của mỗi người, nhưng những người suy xét cẩn thận
(critical thinkers) sẽ cần chứng cớ rõ rệt hơn là những chứng cớ hoàn cảnh
(circumstantial evidences) như thiếu tá Hồng này tả.
Tuy
không hoàn toàn loại bỏ giả thuyết này, tôi có một giả thuyết khác:
Khi Mỹ muốn đổi chiến lược để đối phó với khối Cộng
Sản từ năm 1971 qua ngoại giao rồi thuyết phục Trung Quốc cùng theo đuổi bình
thường hóa quan hệ năm 1972 (công bố Thượng Hải) và đi đến hiệp định Paris
1973, Trung Quốc đã hiểu VNCH sắp bị bỏ rơi (cuộc nói chuyện của Kissinger và
Mao khi họ đàm thoại về tương lai ĐNÁ được ghi chép và declassified sau này
gián tiếp chứng minh việc này); rồi nhân cơ hội thăm viếng Bắc Kinh năm 1974 để
tiếp tục đàm thoại tiến trình bang giao giữa Trung Quốc và Mỹ, Trung Quốc đã
lợi dụng thời điểm rất thuận lợi đó để thi hành việc chiếm Hoàng Sa (vì Mỹ sẽ
phải tiếp tục chứng minh việc “rời Việt Nam” của họ với Trung Quốc cho
mục đích bình thường hóa ngoại giao, và vì Trung Quốc không tin là ĐCSVN sẽ
thực hiện những gì HCM đã hứa với họ (đây cũng là lý do khiến cuộc chiến 1979
xảy ra sau này)). Khi tình báo và hải quân Mỹ thu nhận được những tin tức về
hoạt động của quân Trung Quốc vào lúc đó ở Hoàng Sa, họ phái viên sĩ quan
Gerald Kosh để báo cho Quân Đội VNCH nhưng không nói sự thật mà chỉ lấy cớ “xây
phi trường” để tránh việc công nhận sự can thiệp của Mỹ với bất cứ phe nào.
Mỹ có thể đã hy vọng VNCH lấn át được đám lính Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa,
nhưng có lẽ biết rằng nếu Trung Quốc quyết tâm chiếm thì VNCH sẽ không đủ sức
lực để kháng cự.
Với chính sách ngoại giao đã thay đổi, Nixon đã bị
hạ, Quốc Hội Mỹ đã xuống viện trợ và buộc cấm can thiệp thêm vào Việt Nam, quân
đội Mỹ đã bị trói tay hoàn toàn và phải tỏ thái độ trung lập với Trung Quốc khi
sự việc Hoàng Sa xảy ra. Những sự kiện lịch sử thế giới từ đó đã phần nào giải
thích cho chính sách từ năm 1972 này của Mỹ, dù tình trạng hiện thời ở Biển
Đông chắc chắn không phải là kết cục Mỹ thực sự muốn có.
Giả thuyết “xếp đặt” (hay tặng Hoàng Sa) của
ông thiếu tá Hồng không thuyết phục vì tôi cho rằng: hải quân VNCH có ra đó
hay không thì quân Trung Quốc cũng đã xúc tiến việc chiếm Hoàng Sa; trung
đội địa phương quân VNCH trấn đóng ở đảo sẽ bị giết nếu họ chống lại. Và cũng
có thể là, nhờ hải quân VNCH tấn công ở Hoàng Sa mà Trung Quốc đã không thể
tiến hành việc chiếm Trường Sa ngay vào thời gian đó mà phải đợi đến năm 1988.
Nên việc
chiếm Hoàng Sa chỉ là do Trung Quốc lợi dụng thời cơ quá thuận lợi để thi hành
mộng ước của Mao, không có vai trò “giúp một tay” của Mỹ. Nếu Mỹ đã thực sự muốn “tặng Hoàng Sa” cho Trung Quốc thì họ chỉ
cần “mách nhỏ” cho Trung Quốc và im luôn khi Trung Quốc xúc tiến chiếm
Hoàng Sa, chứ việc đưa viên sĩ quan Kosh báo tin và rồi đi ra đảo Hoàng Sa với
ông Hồng là một chuyện thừa vô ích, chỉ làm phức tạp thêm cho vấn đề! Vì thế,
Mỹ chẳng có lỗi gì với dân Việt về vấn đề này.
Ngược lại, với kết quả là hiệp định Paris 73 và tiến
trình nội bộ chống chiến tranh Việt Nam ở nước Mỹ, việc bỏ rơi Việt Nam (rút
quân tham chiến ra, chỉ viện trợ tối thiểu) không nhất thiết phải đưa đến việc
mất VNCH vì tác động tích cực chiếm miền Nam vẫn hoàn toàn tùy thuộc vào
miền Bắc. Nếu ĐCSVN tôn trọng Hiệp Định Paris 73 thì VNCH vẫn tồn tại và phát
triển bình thường. Thực tế mà xét thì, như đa số chính gia Mỹ thời đó đã quá
hiểu (tỉ dụ thống đốc Reagan), chính sách rút ra khỏi Việt Nam là gián tiếp
chấp nhận việc chiếm miền Nam của CSBV do chính sách hung hăng, bạo lực của phe
CS đã từng chứng minh và sẽ gây ra thảm hại cho hai chục triệu người dân miền
Nam. Dầu sao đi nữa, Mỹ không phải là anh em nối khố, ruột thịt với dân Việt
Nam, và CSVN không thể đe dọa nước Mỹ mà họ phải hy sinh để sống chết bảo vệ
miền Nam. Giới hạn của đạo đức (ethical limits) buộc người biết suy xét không
thể quy án tất cả cho Mỹ dù Nixon đã rất bạc tâm và đểu cáng buộc ông Thiệu ký
Hiệp Định Paris, và đưa đến kết quả rất đau đớn cho miền Nam. Ít nhất, họ đã
chịu trách nhiệm trong giới hạn đạo đức của họ về những hậu quả đó. Đây là bài
học về quyền lợi riêng của mỗi Quốc Gia mà vấn đề đạo đức lương tâm không thể
vượt qua khỏi tầm mức ảnh hưởng của đa số tập thể công dân.
Trong khi đó, sự can thiệp mà vai trò của chính
quyền Mỹ có tội rõ ràng và lớn hơn so với các sự kiện trên là việc ủng hộ, đốc
thúc, và trả tiền cho các loạn tướng lật đổ ông Diệm năm 63. Vì dù chính quyền
xấu hay tốt, sự độc lập và tự trị của miền Nam đã bị vi phạm một cách trực
tiếp, trắng trợn khi quan hệ là một đồng minh. Trong vai cường quốc viện trợ vũ
khí cũng như tiền của, nếu Mỹ đã không ủng hộ cuộc lật đổ thì khả năng kết hợp
được nhiều tướng lãnh (dù chỉ khoảng dưới 10 tướng) không thể cao và do đó khó
có thể thành công; các cuộc đảo chánh/ám sát – nếu có tiếp tục xảy ra – cũng sẽ
là các hành động đơn lẻ như trước (năm 60 và 62) và dễ thất bại. Đại đa số dân
Nam không hề rõ về vai trò của Mỹ trong việc này (kể cả phần đông giới
công/quân VNCH, họ chỉ nghi ngờ viên đại sứ Mỹ) cho mãi đến khi những tài liệu
mật của chính quyền Mỹ được công bố vào thập niên 80, 90 và tài liệu từ những
nhân vật VNCH đã tham gia viết lại sau 75; dầu vậy, tinh thần độc lập và tự trị
của giới lãnh đạo VNCH đã vì thế bị tổn thương, hao mòn (undermined), và cộng
với sự mất đoàn kết đã xảy ra trước đó, nó đã đưa đến những thất bại lớn hơn về
chính trị sau này mà kết quả là biến cố quân sự 75.
Dù đây chỉ là ý kiến của riêng tôi và không thể kết
án Mỹ cho tất cả những hậu quả sau 63, Mỹ rõ ràng đã có lỗi khi họ đã lạm dụng
phương tiện (đảo chánh) để biện minh cho mục đích (là tìm lãnh đạo khác thế ông
Diệm và chống CS), mà thực thể của các mục đích là thuộc về quyền của dân miền
Nam hoàn toàn. Họ đã đi quá giới hạn đạo đức trong vai trò đồng minh của một
cuộc chiến chung có tính chất chính trị ý thức hệ, mặc dù họ có thể mang vai
trò lãnh đạo trong vấn đề Quân Sự (như họ đã làm ở Nam Hàn 50-53). Nếu sự can
thiệp đảo chánh đó đã từ một kẻ thù như Trung Quốc thì giá trị đạo đức của vấn
đề đã khác. Nếu họ đã chỉ đứng ngoài, tỏ ý kiến trung lập (không chống đảo
chánh nhưng không thúc giục), không “đưa tiền cho chi phí” thì họ đã
không có lỗi gì cả! Cũng phải nói thêm rằng, việc giúp lật đổ ông Diệm/Nhu có
thể biện minh là đạo đức và chính đáng nếu nó có khả năng thực sự cứu dân miền
Nam khỏi thảm họa lớn hơn do chính ông Diệm sẽ gây ra cho dân miền Nam, tỉ dụ
như trường hợp ở các nước Ả Rập ngày nay. Nhưng tình trạng miền Nam đã không hề
có khả năng đó và những kết án mà Mỹ và phe chống ông Diệm đã biện minh (như
độc tài, kỳ thị tôn giáo, v.v.) đều là những điều còn tranh cãi vì vẫn có rất
nhiều người có hiểu biết khác, không đồng tình.
Ở phía Mỹ, sau đảo chánh thì đã có những người nhận
ra sai lầm ở biến cố này (như TT Johnson) nhưng họ lại đi vào những sai lầm
khác. Tuy vậy, chính thể và văn hóa Mỹ vẫn dễ đưa đến nhận thức của những lỗi
lầm, rồi sửa đổi, tạ lỗi với nạn nhân nhờ có những tiếng nói từ phía đối lập và
dân chúng, đưa ra những lý luận thuyết phục hơn để thay đổi Quốc Gia -- rất
khác với những chế độ CS và những người ủng hộ họ và vẫn cố chấp cho rằng “Mỹ
xâm lăng Việt Nam” trong khi đại đa số dân Nam muốn và cần sự giúp đỡ của
Mỹ để tiếp tục được sống trong thể chế không-CS. Nếu không có Mỹ giúp từ sau
54, thì đã có thêm gần 20 triệu dân Việt Nam đã phải sớm chịu cái ách của CNCS
từ đầu thập niên 60 khi HCM và ĐCSVN đã quyết xúc tiến "giải phóng miền
Nam", và đã phải có ít nhất 1 triệu dân miền Nam bỏ nước ra đi ngay
vào thời đó.
Tôi đi hơi xa ngoài đề tài Hoàng Sa/Trường Sa và
thiếu tá Hồng, nhưng thiết nghĩ khía cạnh đạo đức và lý luận về các sự kiện
chính trị lớn kia mà Mỹ đã có vai trò quyết định cũng nên nhân tiện bàn luận
một thể.
-----------------------------------
(Huy Phương phỏng vấn cựu thiếu tá Phạm Văn Hồng) SBTN
David Nguyen Published on Jan 18, 2014
No comments:
Post a Comment