TS.
Phạm Quý Thọ
2020-06-29
2020-06-29
‘Từ chức’ là hiện tượng
các cán bộ lãnh đạo ‘tự nguyện’ rời bỏ chức vụ, quyền hạn hiện có, được cho là
‘chuyện lạ’, ‘hiếm gặp’ trong cơ chế đặc quyền đặc lợi, nhưng gần đây hiện tượng
này ‘lây lan’ từ chức vụ cấp thấp đến cao, từ lĩnh vực này qua lĩnh vực
khác trong nhiều địa phương phản ánh tình trạng bất ổn của chế độ.
Bản chất chế độ đặc quyền
có nguồn gốc lịch sử từ nhà nước phong kiến tập quyền, trong đó hiện tượng ‘từ
quan’ thường diễn ra trong giai đoạn suy vong của triều đại. Triều đại khác lên
thay thế, điều chỉnh chính sách để rồi tiếp tục duy trì chế độ này theo chu kỳ
thịnh – suy, mà không thay đổi về bản chất.
Ngày nay, mô hình đảng cộng
sản lãnh đạo toàn diện cũng dựa trên chế độ đặc quyền, đặc lợi cho các lãnh đạo
đảng viên. Trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường sự tha hoá quyền
lực ngày càng nghiêm trọng dẫn tới suy thoái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp
luật, tham nhũng… của ‘bộ phận không nhỏ’ trong giới lãnh đạo. Đảng tiến hành
‘chỉnh đốn’ nội bộ, tự kiểm soát quyền lực để duy trì chế độ, tuy nhiên bối cảnh
thế giới tạo ra sự lựa chọn khác: chế độ kiểm soát quyền lực theo hướng dân chủ
phù hợp với kinh tế thị trường
‘Suy thoái nghiêm trọng’
Hiện tượng ‘từ chức’, ‘từ
quan’ về hình thức là quan chức tự nguyện rời bỏ với những lý do cá nhân, nhưng
thực ra thường che giấu ‘sự bất đồng’ hoặc một động cơ có chủ đích, vụ lợi tuỳ
bối cảnh.
Khoảng 20 năm trước có một
vị vụ trưởng thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo từ chức do ‘bất đồng quan điểm’ trong
chuyên môn được coi là 'sự kiện lịch sử', gây ‘xôn xao’ dư luận, nhưng nay
trong thời kỳ bất ổn thể chế hiện tượng này đang có xu hướng ‘lây lan’, phức tạp,
phản ánh tình hình suy thoái nghiêm trọng của chế độ đặc quyền, đặc biệt khi
chiến dịch chống tham nhũng được thực thi quyết liệt hơn từ đầu nhiệm kỳ Đại hội
12, năm 2016 đến nay.
Ngày 23/6/2020 truyền
thông nhà nước đưa tin, và được cơ quan Tỉnh uỷ tỉnh Quảng Ngãi xác nhận rằng,
dàn lãnh đạo tỉnh, gồm đương kim Bí thư và Chủ tịch tỉnh, có đơn xin ‘thôi chức,
nghỉ hưu theo chế độ’. Lưu ý rằng chức bí thư tỉnh, theo cơ cấu trong đảng, là
uỷ viên Ban chấp hành Trung ương’ – cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng. Ngoài
ra, vị bí thư này sinh năm 1963, nghĩa là còn 3 năm nữa mới ‘phải’ về hưu theo
quy định. Bản tin trên cũng cho biết rằng trước đó hai vị lãnh đạo cấp tỉnh này
đã bị Bộ Chính trị kỷ luật với hình thức cảnh cáo vì họ đã vi phạm ‘khuyết điểm
nghiêm trọng’ về các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong hai nhiệm
kỳ liên tiếp 2010 – 2015, 2015 – 2020.
Bí thư tỉnh Quảng
Ngãi, ông Lê Viết Chữ. Báo Chính Phủ
Việc gửi đơn xin thôi chức
của các vị lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi, như truyền thông bình luận, cũng ‘na ná’
như các trường hợp xảy ra trước đó không lâu, như vụ ông Võ Kim Cự - cựu Bí thư
tỉnh Hà Tĩnh, bà Phan Thị Mỹ Thanh – nguyên Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Đồng Nai, ông Hồ Văn Năm – nguyên Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh thay bà
Thanh trong thời gian ngắn... Nhiều ý kiến cho rằng các vị này ‘từ quan’ là ‘bất
đắc dĩ’, không còn sự lựa chọn khác, thậm chí để lợi dụng ‘ưu thế đặc quyền’ của
chế độ đảng trị hòng mong có thể được giảm nhẹ ‘sự trừng phạt’ của Đảng. Bởi vì
theo một số ‘tiền lệ’ có hình thức kỷ luật ‘cảnh cáo’, chỉ bị cắt ‘nguyên’ của
chức vụ trong thời gian công tác, và ‘hạ cánh an toàn’ mà không chịu chế tài của
pháp luật nhà nước.
‘Chu kỳ thịnh – suy’
Hiện tượng ‘từ quan’
trong lịch sử chế độ phong kiến tập quyền cũng ít được ghi chép tỷ mỷ. Việt Nam
đã trải qua lịch sử 13 triều đại, trong đó có hai trường hợp điển hình, được ca
ngợi là Chu Văn An và Nguyễn Trãi, các vị quan có công lao với chế độ, có lòng
tự trọng và bản lĩnh, ‘lui về ở ẩn’ trong bối cảnh triều đình rối ren, suy đồi.
Người đời sau tôn vinh họ và phê phán các ‘nguỵ vương’.
Chu Văn An được ca ngợi
là vị quan liêm trực thời nhà Trần (1225-1400), đã soạn ‘Thất trảm sớ’ dâng lên
vua để đề nghị chém 7 nịnh thần. Tuy nhiên, vị vua này được lịch sử ghi lại
là ‘người ăn chơi, thích tửu sắc hát xướng’, bị o bế bởi cận thần bất tài để lộng
hành, không biết ‘trị vì’ để xã hội lâm cảnh nhiễu nhương, dân tình đói khổ. Do
‘Thất trảm sớ’ không được thực thi, ông đã ‘lui về ở ẩn’ tại núi Phượng Hoàng,
Hải Dương, sống thanh liêm và dạy học. Ngày nay tượng của ông được đặt thờ
trong Văn Miếu Quốc tử giám.
Trường hợp thứ hai là
Nguyễn Trãi. Ông là công thần khai quốc nhà Hậu Lê, một văn thần với bài ‘Hịch
tướng sĩ’ lưu danh, có nhiều đóng góp trong khởi nghĩa Lam Sơn. Tuy nhiên đến
thời bình, trong chính trường ‘đấu đá phức tạp’ nhà Hậu Lê, sự nghiệp của ông
lúc thăng lúc giáng vì bất đồng quan điểm với một số đại thần khác, một số kế
sách không được dùng. Nguyễn Trãi ‘bất đắc chí và lui về ở ẩn’ năm 1439. Ông là
nhân vật lịch sử được cho là ‘oan trái’ trong vụ án Lệ Chi viên, khi bị ‘chu di
tam tộc’ (chém đầu 3 họ) vì bị ghép tội giết vua Lê Thái Tông. Sau này, năm
1464, vua Lê Thánh Tông chính thức minh oan cho ông.
Fransis Fukuyama, giáo sư
kinh tế chính trị quốc tế của Hoa Kỳ, trong nghiên cứu mới đây có nhận định rằng,
chế độ cộng sản toàn trị Trung Quốc có nguồn gốc lịch sử từ chế độ phong kiến tập
quyền. Điểm tương đồng chủ yếu của chúng là duy trì chế độ đặc quyền để cai trị
và quyền lực tập trung cao độ, dưới thời phong kiến vào các vị vua, chúa hay
hoàng đế, và thời nay là lãnh tụ tối cao của đảng cộng sản. Trong thời kỳ đầu của
chế độ cộng sản các vị lãnh tụ thường cai trị suốt đời, cho đến chết. Quan lại
trong bộ máy cai tri đòi hỏi phải trung thành và phục tùng tuyệt đối. Bởi vậy,
hiện tượng từ quan, từ bỏ ‘ân huệ, đặc quyền’ là hiếm gặp, hơn thế có thể bị
nghi ngờ về động cơ và bị giám sát.
Cả hai kiểu chế độ như vậy,
về cơ bản đều vận hành theo chu kỳ thịnh – suy tuỳ thuộc vào ‘sự anh minh’ của
các vị vua hay ‘hồng và chuyên’ của lãnh tụ cộng sản. chế độ phong kiến tập quyền
trước kia không có sự lựa chọn, bởi vậy triều đại này khi suy vong sẽ thay thế
triều đại khác tạo nên chu kỳ trong lịch sử hàng ngàn năm tồn tại. Tuy nhiên,
trong bối cảnh chế độ phong kiến bị thay thế bởi phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa tiến bộ hơn, chế độ cộng sản đã có thể có sự lựa chọn khác khi buộc phải
‘mở cửa và cải cách’, chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
‘Sự lựa chọn’
Mô hình Liên Xô đã sụp đổ
gần 30 năm trước. Trung Quốc, Việt Nam… tiếp tục duy trì chế độ toàn trị bằng
cách ‘mở cửa’ với thế giới để đón nhận vốn đầu tư nước ngoài và ‘cải cách’ thể
chế kinh tế theo hướng thị trường. Thành công trong tăng trưởng kinh tế là ‘cứu
cánh’ cho tính chính danh của đảng cầm quyền. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo kiểu
mô hình Trung Quốc cho rằng sự sụp đổ của Liên Xô là ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển
hoá’ của ‘quan chức’ trong chế độ đặc quyền, và Mikhail Gorbachov là tội đồ. Mỗi
khi thể chế bất ổn thì sự ‘chỉnh đốn’ nội bộ được tăng cường, mà chiến dịch chống
tham nhũng ‘không vùng cấm’ là giải pháp ‘cực chẳng đã’ để quyền lực được tập
trung cao hơn. Ngoài ra, bất kỳ sự chống đối nào từ bên dưới hay phe phái đều bị
đàn áp. Tính chất chuyên chế là ‘bùa hộ mệnh’ để kiểm soát quyền lực tha hoá và
duy trì chế độ theo chu kỳ thịnh – suy.
Tuy nhiên, mâu thuẫn đã
diễn ra ngày càng gay gắt giữa quá trình tập trung quyền lực như một đặc tính của
chế độ đặc quyền và quá trình phân cấp, phân quyền cho các địa phương, sự tự chủ
của các chủ thể kinh tế và cá nhân xuất phát từ các nguyên tắc vận hành của thị
trường. Hậu quả là quyền lực bị tha hoá nghiêm trọng, trục lợi, tham nhũng lan
rộng. Trong bối cảnh này chế độ đảng cộng sản toàn trị đề cao các biện pháp ‘tự
kiểm soát’ quyền lực trong khi trên thế giới, trong các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển có chế độ dân chủ, theo đó quyền lực được kiểm soát dựa trên thể chế
tam quyền phân lập, hệ thống pháp quyền, xã hội dân sự và đề cao quyền con người.
Đại hội 13 tới đây sẽ bàn
thảo về nỗ lực ‘chỉnh đốn đảng’ để ‘đảng và nhà nước cùng mạnh’, thực chất vẫn
là duy trì chu kỳ thịnh – suy của mô hình toàn trị dựa vào tập trung quyền lực
và trừng phạt quan chức suy thoái. Sự lựa chọn ‘cơ chế kiểm soát quyền lực’ bằng
chế độ dân chủ vẫn là thách thức trong tương lai gần.
---------------------------
* Bài viết không thể
hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
No comments:
Post a Comment