Nhà
văn Ngô Thế Vinh (*)
Tuesday, September 29, 2015 6:07:35 PM
Lời
tòa soạn: Nhà văn Võ Phiến vừa qua đời vào lúc 7
giờ tối ngày 28 Tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, thành phố
Santa Ana, California, thọ 90 tuổi. Trong niềm tiếc thương một nhà văn lớn của
miền Nam Việt Nam ở thế kỷ 20, Nhật báo Người Việt gởi đến quý độc giả bài
viết của nhà văn Ngô Thế Vinh, như một nén hương lòng gởi đến người đã khuất.
Nhà văn Võ Phiến
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở
nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và
cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến 28-10-1998]
Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được
viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất
thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh
Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã Từ,
Lại Thư Nhà, Một Mình...
Rồi qua người bạn tấm cám Nghiêu Ðề, qua tòa soạn
Bách Khoa, tôi quen ông từ những năm trước 1960 cho tới khi ra hải ngoại về sau
này.
Võ
Phiến Bắt Trẻ Ðồng Xanh
Võ Phiến viết Bắt Trẻ Ðồng Xanh, đăng trên Bách Khoa
Tháng Mười năm 1968, tựa đề từ cuốn sách dịch của Phùng Khánh Phùng Thăng The
Catcher in the Rye của nhà văn Mỹ J.D. Salinger, nhưng nội dung bài viết thì lại
nói về kế hoạch cộng sản miền Bắc đưa trẻ em từ trong Nam ra Bắc huấn luyện rồi
sau đó đưa trở về miền Nam. Cộng sản cũng đã làm như vậy sau khi ký Hiệp Ðịnh
Geneve 1954. Võ Phiến viết:
“...trong giai đoạn
ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan trọng,
đảng và nhà nước Cộng Sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở
đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc... họ đang ra sức thực hiện
một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt người
ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku,
Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng
phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh...”
“Hỡi các em bé của
đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu
nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ
lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh
đau thương bất tận. Tai họa xẩy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở.” (Võ Phiến, Bắt Trẻ Ðồng Xanh, Bách Khoa 10/1968)
Bắt Trẻ Ðồng Xanh hoàn toàn không phải là tùy bút
hay truyện ngắn mà là một bài chính luận, một bạch thư tố cáo dã tâm của người
Cộng Sản Việt Nam, chưa bao giờ thực sự muốn có hòa bình, nếu có hòa đàm thì đó
chỉ là bước hoãn binh chiến lược, họ vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác.
Bài viết như một tiên tri, một báo động đã thực sự gây chấn động dư luận bên
trong cũng như ngoài nước, với cái giá Võ Phiến phải trả là bị Việt Cộng lên
án, và cả hăm dọa tính mạng tiếp sau cái chết của ký giả Từ Chung tổng thư ký
báo Chính Luận, do bị đặc công CSVN ám sát. Theo Lê Tất Ðiều, đã có lúc Võ Phiến
nghĩ tới tạm lánh xuống vùng Hòa Hảo, một khu được coi là miễn nhiễm với mọi
xâm nhập của cộng sản. Ðó cũng là lý do tại sao, Võ Phiến có thời gian làm giáo
sư văn chương trường Ðại học Hòa Hảo, Long Xuyên. Trong nghịch cảnh cũng có cái
may, nơi đây anh quen một đồng nghiệp trẻ Ðỗ Văn Gia, lúc đó cũng đang dạy bộ
môn Triết học Ðông phương. Sau này ra hải ngoại, chính anh Ðỗ Văn Gia trong thời
gian làm giảng viên văn học và ngôn ngữ Việt Nam tại Ðại học Cornell từ 1982,
đã giúp nhà văn Võ Phiến rất nhiều tư liệu ban đầu để có thể hoàn tất bộ Văn Học
Miền Nam.
Bánh
tráng xứ Nẫu trên đất Mỹ
Từ thập niên 1980, lúc đó hai anh chị Võ Phiến đều
là công chức quận hạt Los Angeles, ngôi nhà số 5621 Baltimore St. Highland Park
là nơi Võ Phiến đã sống quãng thời gian 23 năm. Nhà có vườn rộng đủ loại cây
trái chanh cam bưởi, nhiều nhất là những cây hồng giòn sai trái nặng trĩu cành,
có cả bức tượng bán thân của Võ Phiến, tác phẩm điêu khắc của Ưu Ðàm, con trai
của họa sĩ Rừng. Trong nhà, ngoài những kệ sách, không có tượng Phật hay tượng
Chúa, chỉ có đơn giản một bàn thờ nhỏ cúng gia tiên. Cũng nơi đây, Võ Phiến đã
viết một số những tác phẩm tại hải ngoại: bộ Văn Học Miền Nam, Thư Gửi Bạn,
Nguyên Vẹn, Truyện Thật Ngắn, Ðối Thoại...
Những lần tới thăm anh Võ Phiến, thường là Thứ Bảy
cuối tuần vì khách cũng như chủ nhà còn ở tuổi lao động đi làm. Khách thăm thường
đi theo nhóm. Khi thì với Nguyễn Mộng Giác và anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, khi thì
với Tạ Chí Ðại Trường, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo; khi thì với anh chị Trần Huy
Bích, chị Bích thì rất thân thiết với chị Võ Phiến.
(Từ trái): Huỳnh Sanh Thông (1926 -2008), Ðỗ Văn Gia
(1946-1992), Từ Mai Trần Huy Bích.
Trùng Dương từng gọi chị Võ Phiến là “người đàn bà đằng
sau bộ Văn Học Miền Nam 1954-75.” Nhưng tưởng cũng nên ghi nhận thêm ở đây, một
số khuôn mặt bằng hữu khác đã cung cấp các bộ sách tiếng Việt giai đoạn 1954-75
từ các thư viện Ðại học Pháp, Mỹ giúp anh Võ Phiến tư liệu để có thể hoàn tất bộ
Văn Học Miền Nam. Như Ðặng Tiến từ Âu Châu, Trần Huy Bích qua liên thư viện Ðại
Học UCLA, Ðỗ Văn Gia từ Ðại Học Cornell, họa sĩ Võ Ðình và trước đó từ 1983, học
giả Huỳnh Sanh Thông từ Ðại Học Yale (dịch giả The Tale of Kiều), là người giới
thiệu Võ Phiến xin được grant/ trợ cấp từ Chương Trình Nghiên Cứu Ðông Dương
thuộc Ủy Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội Hoa Kỳ (Indochina Studies Program,
Social Science Research Council).
Và khách tới thăm thường ở lại ăn trưa với anh chị
Võ Phiến. Bữa ăn gia đình do chị Võ Phiến chăm sóc, đôi khi có thêm một hai món
khách đem tới. Cho đến nay, có một món chị Võ Phiến cho ăn không thể nào quên,
đó là bánh tráng thuần túy Bình Ðịnh nhúng nước, chấm với nước mắm chanh ớt.
Chanh thì có sẵn trên cây, chén nước mắm nhỉ đỏ au những lát ớt cũng hái từ vườn
nhà. Món ăn giản dị và lạ miệng như vậy mà ai cũng lấy làm ngon, và khách cảm
thấy ngon hơn nữa khi chủ nhà dí dỏm liên hệ món bánh tráng xứ Nẫu tới chiến thắng
của vua Quang Trung, bánh tráng đã được dùng như lương khô trong cuộc hành quân
thần tốc từ Nghệ An tiến ra Thăng Long dẹp tan 20 vạn quân Thanh.
Nói
chuyện với Ðặng Tiến 1998
Ngày 11 Tháng Tư 1998, anh Võ Phiến đã gửi cho tôi bản
photocopy 3 trang viết tay bài nói chuyện với Ðặng Tiến kèm theo ít dòng ghi
chú: “Thưa anh, đây là bản soạn, không phải nguyên văn lời nói. Khi nói có lời
Ðặng Tiến xen vào đôi chỗ. Theo lẽ thì phát thanh vào 28-10-1998. Không biết rồi
có đúng vậy không.” Thân, Võ Phiến
Ðặng Tiến bút hiệu Nam Chi, cây bút phê bình văn học
từ cuối thập niên 1950, là “bạn cựu” của nhà văn Võ Phiến [bạn cựu là chữ của
Võ Phiến để chỉ những cố tri], Ðặng Tiến với Võ Phiến như Bá Nha Tử Kỳ, Ðặng Tiến
liên tục theo dõi và rất tâm đắc với những thành tựu văn học của Võ Phiến rất sớm
từ 1954 tới mãi về sau này, và cũng đã có rất nhiều bài phê bình điểm sách của
Võ Phiến.
Riêng tôi, không được nghe buổi phát thanh ấy, nhưng
nếu có thì nội dung chắc sẽ không khác với bản gốc viết tay của anh Võ Phiến.
Qua anh Phạm Phú Minh, email liên lạc với Ðặng Tiến hiện ở Pháp, anh trả lời là
hoàn toàn không nhớ. Tôi không ngạc nhiên vì cũng đã 17 năm qua rồi. Tiếp đó
tôi gửi phóng ảnh 3 trang viết tay của Võ Phiến buổi nói chuyện với Ðặng Tiến,
với hy vọng anh ấy có thể sẽ nhớ ra và cho tôi biết thêm chi tiết. Nhưng rồi ba
ngày sau cũng vẫn Ðặng Tiến trả lời: “Gửi NTV: Tôi không nhớ ra, sẽ moi trí nhớ
trả lời anh sau. Giữ liên lạc. ÐT”
Với anh Võ Phiến, câu chuyện 17 năm trước thì không
hy vọng gì anh còn nhớ, tôi vẫn ghi lại đây nội dung buổi nói chuyện rất ngắn ấy,
với 3 trang viết tay [chỉ có 938 chữ] như một chút tư liệu văn học, có giá trị
như một Tổng Quan về Văn Học Miền Nam giai đoạn 1954-75.
“Thưa anh [Ðặng Tiến],
“Cuối thời tiền chiến, ông Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một
thời kỳ văn học 30 năm của Việt Nam. Trong mọi bộ môn sáng tác bằng văn xuôi
ông chỉ đếm được ba người ở Nam phần và Trung phần (VP ghi chú thêm bằng bút
chì bên lề: Hồ Biểu Chánh, Thanh Tịnh, Nguyễn Vỹ). Tất cả đều viết truyện. Về bộ
môn kịch, ký, tùy bút... không có ai cả.
“Cuối thời 1954-75, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm
riêng về bộ môn tiểu thuyết trong 20 năm ở Miền Nam. Ông bảo số người viết truyện
xấp xỉ 200; trong số ấy trên dưới 60 người có giá trị. Giả sử có ai ngờ vực Cao
Huy Khanh quá nặng tình bè bạn, và ai đó hạ số ước lượng xuống còn một nửa - tức
30 tiểu thuyết gia thì 20 năm này cũng gấp 10 lần 30 năm trước. Ấy là chưa kể đến
những tùy bút gia, kịch tác gia của thời kỳ sau.
Thủ bút của nhà văn Võ Phiến.
“Về mặt khác, hồi tiền chiến ở Trung phần - từ Phú
Yên vào đến Bình Thuận - chưa có nhà văn nhà thơ nổi tiếng; và ở khắp các tỉnh
Nam phần - ngoài ông bà Ðông Hồ ra - cũng chưa thấy vị nào tiếng tăm rộng rãi
trên văn đàn. Nói vậy là căn cứ theo ông Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh.
“Thế rồi trong khoảng 20 năm sau 1954 lần lượt xuất
hiện những văn thi sĩ tên tuổi ở Phú Yên (VP ghi chú thêm: Võ Hồng), ở Ninh Thuận
Bình Thuận (VP ghi: Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Ðức Sơn), ở Cà Mau (VP ghi: Sơn
Nam), Long Xuyên (VP ghi: Nguyễn Hiến Lê), ở Gia Ðịnh (VP ghi: Tô Thùy Yên),
Vĩnh Long (VP ghi: Nguyễn Thị Thụy Vũ), Sóc Trăng (VP ghi: Vương Hồng Sển)... Số
văn nhân thi sĩ tăng cao chừng ấy, địa bàn văn học nghệ thuật mở rộng đến chừng
ấy, như vậy là một đóng góp.
***
“Một đóng góp khác là cái tinh thần tự do, phóng
khoáng của thời kỳ văn học này. Thiên hạ nói nhiều về sự đàn áp tinh thần trong
những thời ngoại thuộc: hoặc thuộc Tàu, hoặc thuộc Tây. Thực ra, không cứ những
thời ấy, ngay lúc nước nhà độc lập, các chế độ quân chủ phong kiến hay chế độ
dân chủ cộng hòa ở ta cũng không dung thứ thái độ khích bác nhà cầm quyền. Ngay
khi độc lập dân chủ, vẫn thường chỉ có một cái tự do được ban phát rộng rãi, là
tự do ca ngợi bề trên.
“Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh
chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ
những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử
xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp
bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu
một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm
ran khắp cùng trên mặt sách báo...
“Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng,
hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu,
trình bày, quảng bá.
“Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở
nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và
cởi mở như vậy.
***
“Sau tính cởi mở tự do, chúng ta có thể chú ý đến một
đóng góp nữa. Tôi muốn nói về hiện tượng suy tưởng triết lý ở Miền Nam trong thời
kỳ 1954-75. Ðến cuối thời tiền chiến, tiểu thuyết ở ta đã có trên dưới mười loại,
trong đó có những loại tâm lý, loại luân lý, nhưng khuynh hướng triết lý thì bấy
giờ chưa có trong tiểu thuyết. Qua thời kỳ 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam các băn
khoăn triết lý xuất hiện đồng loạt trên nhiều địa hạt sáng tác: trong tiểu thuyết,
trong thi ca, trong kịch bản, trong tùy bút. Có lúc triết lý tràn lan như một
món thời thượng; và nó bị chế giễu.
“Tuy vậy nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc
đang chết hàng triệu người vì sự bất đồng ý thức hệ, bất đồng quan niệm sống.
Vào lúc ấy sao có thể không suy nghĩ về lẽ sống, sao có thể điềm nhiên phó thác
tất cả cho lãnh đạo? Mặt khác, lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng
mới đang gây xáo động lớn ở Tây Phương, phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta
có một tầng lớp trí thức nhạy bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.
***
“Nền văn học 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam trong thời
gian qua bị ém giấu, xuyên tạc. Nó gặp một chủ trương hủy hoại, gặp những bỉ
báng hồ đồ. Nó chưa được mấy ai lưu tâm tìm hiểu, phán đoán cách đứng đắn, tử tế.
Những điều tôi vừa nêu ra chắc chắn còn thiếu, còn sai còn cạn cợt. Việc đánh
giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.
[Xin chào anh Ðặng Tiến. Xin chào quí vị thính giả.]” Võ Phiến, 10-1998
Nhà văn Võ Phiến (trái) và Ðặng Tiến
Bộ
Văn Học Miền Nam 1954-75
Khi Võ Phiến nói chuyện với Ðặng Tiến là vào thời điểm
tháng 10 năm 1998, chỉ một năm trước khi Võ Phiến hoàn tất toàn tập bộ Văn Học
Miền Nam [với tập I là Văn Học Miền Nam Tổng Quan xuất bản 1986 và tập cuối
cùng là Bút Ký Kịch Miền Nam, xuất bản 1999]. Tưởng cũng cần lưu ý câu phát biểu
cuối của nhà văn Võ Phiến: “Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt
đầu nghiêm chỉnh.”
Như vậy có thể nói, cho dù Võ Phiến đã phải lao động
bền bỉ suốt 15 năm [1984-1999] để hoàn tất bộ sách Văn Học Miền Nam nhưng chính
ông chưa hề tự coi đó là một công trình hoàn hảo nên vẫn ao ước việc đánh giá nền
văn học 1954-75 cần được bắt đầu nghiêm chỉnh.
Cho dù bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến có những
hạn chế đưa tới nhiều tranh cãi khá gay gắt. Người ta đã nặng lời trách ông về
những phần thiếu sót trong bộ sách ấy: như khi ông đã gạt một số tên tuổi văn học
của thời kỳ 1954-75 ra khỏi bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan, rồi cả cách ông phê
bình các nhà văn, nhà thơ được ông chọn đưa vào sách cũng bị ông sử dụng cái sở
trường văn phong tùy bút/ nay thành sở đoản để châm biếm mỉa mai cá nhân với
nhiều thiên lệch.
Nhà văn Mặc Ðỗ nhóm Quan Ðiểm thì thật sự bất bình,
Mai Thảo nhóm Sáng Tạo trong lần trò chuyện cuối cùng với Thụy Khuê Tháng Bảy
1997 cũng không kềm được cảm xúc nói tới “bọn Vua Lê Chúa Trịnh,” và nói thẳng:
“Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được. Ðại khái như phê bình văn học, đối với
tôi thì không được. Văn Học Miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp
văn hay.” (2)
Nhưng khách quan mà nói, ngòi bút Võ Phiến cũng
không thiếu phần tự trào, và cả châm biếm bản thân mình. Khi trả lời phỏng vấn
Lê Quỳnh Mai trong chương trình Văn học Nghệ thuật đài TNVN Montréal
29-10-2000, nhà văn Võ Phiến đã không ngại khi ví mình như một Xuân Tóc Ðỏ của
Vũ Trọng Phụng: “Nói tới sự may mắn, chắc chị còn nhớ tới Số Ðỏ của Vũ Trọng Phụng,
nếu tôi có được một số độc giả chú ý, chẳng qua cũng như anh chàng Xuân Tóc Ðỏ
trong truyện ấy thôi.” (4)
Bản thân Võ Phiến cũng đã biết rất rõ phản ứng của
giới cầm bút về bộ sách Văn Học Miền Nam. Trong thư nhà văn Võ Phiến gửi Lê Thị
Huệ Gió-O ngày 16 Tháng Hai 2001:
“Anh chị em cầm bút thời 1954-75 ở Miền Nam, nhiều
người phiền trách tôi về bộ sách này lắm. Tôi chịu trận thôi. Viết mà cốt cho
ai cũng... thương (!) thì thành ra cái quái gì.” (3)
Nếu độc giả bình tâm đọc lại Lời Nói Ðầu của cuốn
Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ Phiến đã bàn qua về “lý do biên soạn cuốn sách đầy
những lôi thôi thiếu sót này.” [sic]
Ông đã giải thích rất rõ:
“Trước hết mình
không phải là một nhà phê bình nhà biên khảo gì ráo mà tự dưng xông ra làm công
việc biên khảo phê bình là chuyện không nên. Hơn nữa hoàn cảnh thật là khó:
xung quanh không có tài liệu mà mình thì không có điều kiện để đi tìm tài liệu,
lấy gì tham khảo?”
Ông cũng tiên đoán được cả những hệ lụy như: “viết cái gì có liên quan đến kẻ khác, có
chê khen người nọ người kia mà viết qua quýt thì bị mắng mỏ xỉa xói tưng bừng
là cái chắc.”
Cân nhắc như vậy, nhưng ông vẫn viết tiếp:
“Ấy vậy mà nghĩ đi
nghĩ lại chán chê rồi tôi lại quyết định cứ viết cuốn sách này. Trước hết là vì
chỗ nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn. Thật vậy, thời kỳ 1954-75 gặp
cái rủi ro hiếm thấy, là trong suốt hai mươi năm trời không có được lấy một nhà
phê bình chuyên nghiệp. Nhưng trước khi có sự công bình, sự sáng suốt, hãy chỉ
mong được chút lưu tâm...
“Thời kỳ 1954-75:
câu chuyện hủy diệt văn hóa phẩm Miền Nam từ 1975 đến nay không ai là không biết.
Ta đã không thể ngăn chận được việc phá hủy, không thể bảo tồn được cái thành
tích văn học nọ, thì ngay lúc này cũng nên có một tổng kết, một kiểm điểm sơ lược,
để về sau những ai lưu tâm còn có chút căn cứ sưu khảo. Không thế, sao đành?”
Vì chỗ “nặng tình với
một thời kỳ văn học kém may mắn... rốt cuộc đành miễn cưỡng viết cuốn sách này
trong những điều kiện rất không nên viết. Viết như là một sơ thảo, một bản
nháp, một gợi ý, nhắc nhở, một cách nêu vấn đề, để sau này những người có đầy đủ
tư cách và điều kiện sẽ viết lại một cuốn xứng đáng.” (1)
Thủ bút Võ Phiến, bản soạn bài nói chuyện với Ðặng
Tiến, Tháng Mười, 1998.
Biết thiếu sót, biết trước có những hạn chế nhưng
chính Võ Phiến, trái với bản chất thâm trầm và thận trọng cố hữu, Võ Phiến vẫn
liều lĩnh - như một “risk taker,” ẩn nhẫn làm một công việc tốn rất nhiều công
sức và cả nhiều rủi ro như thế. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trong suốt hơn
15 năm từng bước hoàn thành công trình Văn Học Miền Nam với hơn ba ngàn trang
sách ấy, Võ Phiến vẫn đang là một công chức Sở Hưu Bổng làm việc full time cho
quận hạt Los Angeles, như vậy là ông đã phải làm việc ngoài giờ và những ngày
cuối tuần. Võ Phiến về hưu Tháng Bảy năm 1994, ông tiếp tục viết thêm 5 năm nữa
để hoàn tất toàn bộ Văn Học Miền Nam 1999. Nếu không có hùng tâm, với công sức
của một cá nhân khó có thể làm được như vậy.
Nhưng để rồi khi viết xong, chính Võ Phiến không khỏi
ngẩn ngơ tự hỏi: “Cái đã viết ra đó là
cái gì vậy? Là lịch sử hai mươi năm văn học Miền Nam chăng? Là kiểm điểm phê
bình nền văn học Miền Nam chăng? 3/4 rõ ràng nó không xứng đáng là lịch sử, là
phê bình gì cả. Nó không có cái tầm tổng hợp rộng rãi, nó thiếu công phu suy
tìm và phân tích đến nơi đến chốn về bất cứ môn loại nào khuynh hướng nào. Chẳng
qua chỉ có những nhận xét rất khái lược, liên quan đến nền văn học và các văn
gia một thời mà thôi.” (1)
Bao nhiêu phê phán từ trong và ngoài giới văn học đối
với công trình Văn Học Miền Nam 1954-75 của Võ Phiến, thực ra cũng không có
nghiêm khắc hơn phần “tự kiểm” của chính Võ Phiến trong Lời Nói Ðầu, Văn Học Miền
Nam Tổng Quan tập 1.
Công trình nghiên cứu của Võ Phiến cần được đánh giá
đúng vào giai đoạn thập niên đầu ngay sau 1975 với hoàn cảnh ra đời của nó: khi
mà trong nước có cả một sách lược hủy diệt toàn diện, xóa sổ nền văn học Miền
Nam 20 năm ấy, công trình của Võ Phiến như một nỗ lực sưu tập và cứu vãn/
rescue mission, nên xem như một khởi đầu đáng được trân trọng.
Ai cũng hiểu bộ sách Văn Học Miền Nam “không chuyên
nghiệp” của Võ Phiến sẽ không bao giờ là bộ sách phê bình văn học duy nhất hay
cuối cùng, nhưng đó là một bước tạo thuận/facilitation khởi đầu, một roadmap dẫn
tới cả một khối tài liệu đồ sộ để tham khảo, nó như một giàn phóng cho những
công trình hoàn chỉnh kế tiếp. Ðây chính là phần trách nhiệm và nghiệp vụ của
giới phê bình chuyên nghiệp, họ cần có hùng tâm để “bắt đầu nghiêm chỉnh“việc
đánh giá nền văn học 1954-75 bằng những tác phẩm xứng đáng thay vì cứ mãi xoáy
nhìn vào “nửa phần vơi” của bộ sách Võ Phiến.
Một câu hỏi được đặt ra: ai trong chúng ta có thể “bắt
đầu nghiêm chỉnh” một công trình nghiên cứu như vậy? Một câu hỏi tiếp theo: ai
sẽ thừa kế kho tư liệu phong phú mà anh Võ Phiến có được trước khi rơi vào quên
lãng?
Lê
Ngộ Châu hòa giải
Năm 1994, anh Lê Ngộ Châu và con gái sang Mỹ. Với 18
năm điều hành tờ Bách Khoa, anh có nhiều thân hữu: Võ Phiến có lẽ là người anh
thân thiết nhất. Trong chỗ rất riêng tư, khi biết giữa anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng
Giác có “vấn đề” trong sự chuyển tiếp từ tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học.
Nguyễn Mộng Giác với Võ Phiến vốn là người cùng tỉnh.
Võ Phiến tâm sự: “Gặp một tác giả đồng tỉnh là một niềm vui mừng, lại phát giác
ra ở tâm hồn tác giả nọ một số đặc điểm địa phương đã làm nên cái đẹp của tác
phẩm thì lý thú biết bao! Làm sao cầm lòng được? Phải nói về Bình Ðịnh chứ chị!”
(4)
Anh Lê Ngộ Châu trong chuyến thăm California (1994).
Từ trái: Ðỗ Hải Minh/Dohamide, Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến.
Nhưng rồi cái tình đồng hương ấy cũng không tránh được
trục trặc trong vấn đề điều hành tờ Văn Học và chọn bài vở khi mà Võ Phiến còn
đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn Mộng Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm
thấy ngay được sự “nghẽn mạch” giữa hai người. Anh Lê Ngộ Châu sốt sắng đóng
vai “hòa giải” - vẫn chữ của Lê Ngộ Châu.
Như một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt tiếp đón
anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse trên đường Bellflower, Long Beach nơi tôi cư
ngụ. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác; riêng Lê Tất Ðiều đưa anh Võ
Phiến tới nhưng bận nên không tham dự; và có khoảng hai chục thân hữu quen biết
anh Lê Ngộ Châu và tạp chí Văn Học có mặt hôm đó: các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết,
Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc Chi, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi
Phong, Cao Xuân Huy... Chỉ riêng cái tình “tha hương ngộ cố tri” ấy, qua những
trao đổi, như từ bao giờ anh Lê Ngộ Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên
dáng, anh đã như một chất xi-măng nối kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao,
trong suốt 18 năm tới 1975, anh Lê Ngộ Châu đã điều hợp được tờ Bách Khoa vốn
là một vùng xôi đậu phức tạp như vậy.
Ðó là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ Châu,
cũng như ông giám đốc Nhà sách Khai Trí, cả hai đều chọn trở về sống ở Sài Gòn.
Năm 2006, trong dịp đi thăm Ðồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại anh Lê Ngộ
Châu nơi tòa soạn Bách Khoa, 160 Phan Ðình Phùng ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc
tới buổi gặp gỡ hôm đó. Khi hỏi anh về cuốn hồi ký 18 năm tờ báo Bách Khoa, anh
Lê Ngộ Châu cười dí dỏm trả lời:
“Anh Vinh hỏi Võ Phiến có cho tôi viết không?” Anh
Châu muốn nói tới những chuyện ngoài văn học diễn ra ở tòa soạn Bách Khoa trong
suốt thời kỳ ấy. Khi trở lại Mỹ, chỉ ít lâu sau được tin anh Châu mất ngày 24
Tháng Chín 2006, anh thọ 84 tuổi.
Võ
Phiến 75 tuổi, quá mức ước ao
Tháng Mười Hai cuối năm 1998, tôi nhận được thiệp
chúc xuân của nhà văn Võ Phiến, anh viết:
“Một năm nữa lại sắp
qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 75: quá mức ước ao! Anh sắp tới lục
tuần chứ ít sao, lục tuần là tuổi tung hoành múa bút khỏe lắm. Xin chúc anh chị
sang năm mới được mọi sự an lành. Riêng anh nên có sách mới xuất bản. Thân mến,
Võ Phiến”
(Từ phải): Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến,
Nguyễn Mộng Giác, Lê Tất Ðiều. (California 1994)
Thực sự anh Võ Phiến lúc đó mới 73 tuổi, anh sinh
năm 1925, tuổi Ất Sửu.
Cả ba bạn văn: nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà báo Như
Phong và anh Lê Ngộ Châu cùng tuổi Quý Hợi (1923), hơn Võ Phiến hai tuổi. Doãn
Quốc Sỹ vẫn gọi đùa Lê Ngộ Châu là Lê Quý Hợi và anh ấy là Doãn Quý Hợi. Ba ông
Quý Hợi thì nay chỉ còn một Doãn Quốc Sỹ. Nhà báo Như Phong mất 2001 tại
Virginia, chủ nhiệm Lê Ngộ Châu mất 2006 tại Sài Gòn.
Cũng vẫn thư nhà văn Doãn Quốc Sỹ gửi anh Lê Ngộ
Châu [29/08/1996] có nhắc tới Võ Phiến mà anh gọi đùa là cụ Võ Bình Ðịnh: “Ðược xem bức ảnh cụ Võ Bình Ðịnh mặc màu áo
sơ-mi rất trẻ, nhìn ảnh cụ cười mà tưởng như nghe thấy cả tiếng cười hóm hỉnh của
cụ điểm xuyết trong câu chuyện tại tòa soạn Bách Khoa ngày nào.”
Trước ngưỡng tuổi cổ lai hy, Võ Phiến đã trải qua
hai cuộc mổ tim lớn / Coronary Artery Bypass Surgery; lần thứ nhất 1985 khi Võ
Phiến mới 60 tuổi, anh bắt đầu bị ám ảnh về cái chết:
Ra đi tuổi chẵn năm mươi,
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê... (1986)
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê... (1986)
Bảy năm sau 1992, Võ Phiến 67 tuổi lại phải bước vào
cuộc mổ tim lần thứ hai khó khăn và phức tạp hơn. Anh bi quan và bị ám ảnh nhiều
hơn về cái chết.
Anh đã đặt bút viết về Cái Sống Hững Hờ:
“Bản thân tôi trước đây có lần phải vào bệnh viện chịu
mổ xẻ, tôi ngậm ngùi viết những lá thư gửi lại bạn bè, nhờ một văn hữu thân
tình trao giúp cho, sau khi mình...ra đi. Hóa ra rồi sau cuộc giải phẫu tôi tiếp
tục sống nhăn. Sống và ngượng ngập vu vơ.
“Năm tháng trôi
qua. Quá bát tuần, tôi lén lút hướng một chút tưởng tượng về cái kết thúc của đời
mình. Chắc là gần thôi. Liếc mắt phớt qua tí ti, sợ gì? Liếc qua xong rồi liếc
lại, tôi ngạc nhiên không nhận thấy một xúc động bất thường nào xảy ra cả. Cuộc
sống đang tiếp diễn vẫn tiếp diễn đều đều...
“Tạo Hóa có lòng
lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh lòng người. Tuổi người càng cao, lòng người
càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại một sự hững hờ: ‘Chết? ai mà
khỏi? Việc gì phải sợ?’ Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ
cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi cho được vừa huýt
sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những
bước thong thả, hững hờ. Ðại khái thế thôi.”
Thủ bút Võ Phiến - Thư gửi Ngô Thế Vinh.
Khi chị Võ Phiến cũng nghỉ hưu, không còn nhu cầu ở
gần sở làm nữa, năm 2003 anh chị dọn về vùng gần Little Saigon. Ngôi nhà mới
xinh xắn hai tầng trong một cư xá yên tĩnh cuối đường số 5 thành phố Santa Ana,
cũng có một khoảnh vườn rất nhỏ với những cây hoa hồng ở bờ dậu, và một ít cây
trái; vừa sức để chị Võ Phiến bước qua tuổi 70 vẫn còn có thể vui thú điền viên
và chăm sóc. Ngoài những sách tái bản như Võ Phiến Toàn Tập, Cuối Cùng được coi
là tác phẩm sau cùng của Võ Phiến hoàn thành nơi ngôi nhà mới, viết xong 2007
NXB Thế Kỷ 21 cho in năm 2009.
Võ
Phiến bước vào tuổi 90
Sinh ngày 20 Tháng Mười, 1925, sáu tháng nữa, 2015
Võ Phiến vừa tròn 90 tuổi. Có lẽ anh là một trong số ba nhà văn Miền Nam ở hải
ngoại sống thọ nhất, chỉ sau nhà văn Mặc Ðỗ 98 tuổi [sinh năm 1917] sống ở
Austin Texas, nhà văn Doãn Quốc Sỹ 92 tuổi [sinh năm 1923] hiện sống ở Nam
California.
Lại vẫn dùng một câu viết 17 năm trước trong một thiệp
xuân của Võ Phiến 1998: “Một năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần
mò tới tuổi 90: quá mức ước ao!”
Và cuộc sống của Võ Phiến “vẫn cứ tiếp diễn đều đều.”
Chị Viễn Phố, vợ anh vẫn che dù cho anh đi bộ mỗi ngày với walker có bánh xe
lăn. Nhìn chung theo khía cạnh y khoa, ở nhóm tuổi 90 ấy, thể lực của anh Võ
Phiến được xem là khá tốt cho dù trí tuệ anh đã có nhiều phần lãng đãng, cái
lãng của người cao tuổi / senile dementia. Anh không nhớ hết những khuôn mặt
thân quen nhưng với vài người “bạn cựu” - vẫn chữ của Võ Phiến - thân thiết lâu
năm như Hoàng Ngọc Biên, Ðặng Tiến, Lê Tất Ðiều... anh vẫn giữ được một trí nhớ
xa/ remote memoryqua các cuộc nói chuyện điện thoại gần đây và cả ở những lần gặp
mặt.
Vậy mà đã 40 năm, với hai lần Võ Phiến khóc khi di tản
khỏi Việt Nam: một lần ở tòa soạn báo Bách Khoa trên đường Phan Ðình Phùng, lần
thứ hai trên con tàu Challenger khi rời đảo Phú Quốc. (5) Bốn mươi năm ấy
1975-2015, với bao nhiêu nước chảy qua cầu, như một nhà văn lưu đầy Võ Phiến vẫn
sống làm việc trong sự cô đơn buồn bã. (6)
Bài viết Tháng Tư này, gửi tới nhà văn Võ Phiến khi
anh bước vào tuổi thượng thọ 90, ngưỡng tuổi 90 xưa nay là hiếm. Cũng gửi tới
hai anh chị Võ Phiến và Viễn Phố lời chúc “cây đời thì vẫn cứ mãi xanh tươi”
(7).
Tham
khảo:
1) Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Lời Nói đầu. Võ Phiến.
Nxb Văn Nghệ 1986.http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3056
2) Lần trò chuyện cuối cùng với Mai Thảo. Thụy Khuê
07/ 1997
http://hopluu.net/a1153/noi-chuyen-voi-nha-van-mai-thao-va-tran-vu
http://hopluu.net/a1153/noi-chuyen-voi-nha-van-mai-thao-va-tran-vu
3) Lê Thị Huệ. Võ Phiến, Văn Chương Mất Trí Nhớ.
11-2012
http://www.gio-o.com/Chung/LeThiHueVoPhien.htm
http://www.gio-o.com/Chung/LeThiHueVoPhien.htm
4) Lê Quỳnh Mai phỏng vấn nhà văn Võ Phiến. Tác giả,
với chúng ta. Nxb Khôi Nguyên, Montréal Canada 2004.
5) Ngô Thế Vinh, Bốn Mươi Năm Dương Nghiễm Mậu và Tự
Truyện Nguyễn Duhttp://damau.org/archives/35745
6) John C. Schafer Võ Phiến and the sadness of
exile. Southeast Asia Publications, Center for Southeast Asian Studies,
Northern Illinois University, Mar 1, 2006
7) Johann Wolfgang von Goethe. All theory, dear
friend, is gray, but the golden tree of life springs ever green. Faust pt.1
(1808) 'Studierzimmer'
----
(*) Bài viết được đăng trên Diễn Ðàn Thế Kỷ Online, ngày 26 Tháng Tư, 2015.
(*) Bài viết được đăng trên Diễn Ðàn Thế Kỷ Online, ngày 26 Tháng Tư, 2015.
No comments:
Post a Comment