Saturday, 31 October 2015

Diễn biến hòa bình hay cải cách để phát triển (Nguyễn Thị Từ Huy)





Sat, 10/31/2015 - 23:29 — nguyenthituhuy

Cách đây hơn một năm, khi tôi còn ở Việt Nam, một người làm việc trong ngành an ninh nói rằng muốn nghe ý kiến của tôi về « Diễn biến hòa bình ». Câu trả lời tức thời của tôi lúc đó là : « Đối với Việt Nam hiện nay, diễn biến hòa bình không phải là vấn đề, hoặc đó chỉ là một vấn đề giả, trong khi vấn đề thực sự của Việt Nam là cải cách để phát triển và để bảo tồn độc lập ».

Những lãnh đạo Việt Nam đương nhiệm cần nhìn nhận lại, cần quan niệm lại về vấn đề diễn biến hòa bình. Thay vì nhìn diễn biến hòa bình như là một nguy cơ trầm trọng thì hãy quan niệm rằng đó là điều kiện tất yếu để cải cách, để phát triển và để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cũng như độc lập quốc gia trong cơn nguy biến hiện nay.

Trong khuôn khổ một bài báo ngắn viết cho blog, tôi chỉ nêu ra đây một điểm, làm chỗ dựa cho quan niệm của tôi. Những người khác, và bản thân tôi, sẽ còn trở lại với chủ đề này nhiều lần. Bởi nỗi lo diễn biến hòa bình đã trở thành cái thòng lòng siết vào cổ cả dân tộc, khiến cả lãnh đạo và nhân dân đều nghẹt thở, và thực tế là chúng ta đang ở mức thiếu oxy trầm trọng, đã đến lúc phải nới lỏng cái sợi thòng lọng mang tên diễn biến hòa bình này.

Và người đã tiến hành những thao tác đầu tiên của việc gỡ nút thòng lọng chính là Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng.

Trước khi tiếp tục giải thích, chúng ta cần quay trở về với « Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư về Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá », ban hành ngày 25/6/2009. Tôi đưa chỉ thị này vào phần phụ lục dưới đây, quý độc giả có thể đọc toàn văn để thấy vấn đề « diễn biến hòa bình » ám ảnh đến Ban Tuyên Giáo đến mức như thế nào.

Như đã nói ở trên, trong bài này tôi chỉ tập trung vào một điểm. Trong « Chỉ thị số 34-CT/TW », chính phủ Mỹ và các hoạt động của Mỹ tại Việt Nam được nhìn như là một yếu tố nguy hiểm của quá trình diễn biến hòa bình. Tôi trích nguyên văn hai đoạn trong Chỉ thị này :

-« Việc Mỹ triển khai “Đội hoà bình” (tổ chức chuyên tuyên truyền và kích động lật đổ) và dự kiến thực hiện Chương trình nghiên cứu liên quan sự chuyển đổi chính trị, dân chủ ở Việt Nam của Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) cho thấy rõ các bước cụ thể của Mỹ nhằm thúc đẩy mầm mống “cách mạng màu” ở Việt Nam »

- « Chúng tập trung vào “chiến lược con người” để đào tạo một lớp người thân Mỹ và phương Tây. Mỹ đã bộc lộ rõ ý đồ lợi dụng hợp tác giáo dục, đào tạo để chuyển hoá Việt Nam. Đến nay chỉ riêng Mỹ đã có 15 chương trình, dự án lớn có liên quan đến lĩnh vực giáo dục - đào tạo đang triển khai ở Việt Nam. Ngân sách của chính phủ Mỹ dành cho các chương trình Fulbringt Việt Nam tăng lên 4 triệu USD/ năm, còn “Quỹ  giáo dục Việt Nam” mỗi năm dành 5 triệu USD cấp cho 100 sinh viên Việt Nam học tại Mỹ, Đại sứ quán Mỹ ráo riết triển khai dự án “Góc Hoa Kỳ” nhằm quảng bá với lớp trẻ hình ảnh nước Mỹ, lối sống Mỹ. Các cơ quan hoạch định chiến lược của Mỹ đưa ra bản “lộ trình 4 bước”, trong đó bước 4 có nội dung các trường đại học Mỹ được khuyến khích mở các cơ sở tại Việt Nam.

Ta có thể thấy việc Mỹ mở các trường đại học ở Việt Nam được Ban Tuyên giáo đánh giá như là các bước của một lộ trình thúc đẩy diễn biến hòa bình.

Tuy nhiên, vào tháng 7/2015, ông Nguyễn Phú Trọng đã có hai hoạt động: thăm chính thức Hoa Kỳ và hội đàm trực tiếp với Tổng thống Mỹ, ủng hộ sự thành lập đại học Fulbright tại Việt Nam. Hai động thái này chứng tỏ một sự thay đổi căn bản trong quan niệm về chính phủ Mỹ và các hoạt động giáo dục của Mỹ: Mỹ không còn bị xem là thế lực thù địch, tác giả của những âm mưu diễn biến hòa bình, và việc thành lập đại học Fulbright không còn bị nhìn nhận như là một bước của lộ trình diễn biến hòa bình. Trái lại, Mỹ đã trở thành đối tác, và Fulbright được xem là đáp ứng tham vọng trở thành một đại học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam.

Nếu so với quan điểm và tiêu chí của Ban Tuyên giáo được bộc lộ trong « Chỉ thị số 34-CT/TW » năm 2009 thì ông Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện các bước diễn biến hòa bình, ông đã tự diễn biến.

Tuy nhiên, nếu nhìn từ những đòi hỏi cấp bách của tình thế, thì phải nói rằng ông Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện những bước cần thiết để giúp cho Việt Nam có những cải cách và tạo tiền đề cho phát triển.

Dĩ nhiên, cả ông Tổng bí thư, cả đảng của ông, cả Ban Tuyên giáo, cả người dân Việt Nam, không có ai nghĩ hoặc nói rằng ông Nguyễn Phú Trọng đã tự diễn biến. Tất cả đều thấy rằng ông ấy đã làm cái việc mà lịch sử đòi hỏi, và trách nhiệm của một lãnh đạo quốc gia đòi hỏi.

Tất cả đều vui mừng nếu Việt Nam có thể trở thành đối tác của Mỹ (dĩ nhiên càng tốt hơn nếu có thể trở thành đối tác chiến lược). Tất cả đều vui mừng nếu Việt Nam có được những đại học ở đẳng cấp quốc tế, và nếu nền giáo dục Việt Nam có thể thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện nay. Tất cả đều vui mừng nếu Việt Nam giữ được độc lập và bình đẳng với Trung Quốc, điều mà nhiều thế hệ người Việt trước đây đã không tiếc xương máu để đạt cho bằng được.

Ông Nguyễn Phú Trọng, bằng hành động của mình, đã chứng minh rằng diễn biến hòa bình chỉ là một nỗi lo sợ không có căn cứ.

“Diễn biến hòa bình” chỉ là một cụm từ thôi. Chỉ là một nỗi sợ hãi không có thật. Đừng để cho ngôn ngữ trở thành sợi dây thòng lọng siết cổ cả một dân tộc. Từ xưa tới nay lịch sử luôn ghi công cho những lãnh đạo dám vượt qua mọi định kiến và ràng buộc để hành động vì danh dự quốc gia, vì sự phát triển, sự độc lập và sự trường tồn của dân tộc.

Paris, 31/10/2015
Nguyễn Thị Từ Huy

-----------------
Phụ lục
-
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM         Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2009
                      

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư về
Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động
 “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá

I. Bối cảnh ra đời Chỉ thị:

- Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính Trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới, như: Nghị quyết số 08, ngày 17/2/1998 của Bộ Chính trị ( khoá VIII) về “Chiến lược an ninh quốc gia”; Nghị quyết Trung ương 8 ( khoá IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới ”; Thông báo Kết luận số 94-CT/TW Ban Bí thư ngày 30/12/2002 về “nhiệm vụ tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá”; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 14/10/2006 về tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới.

Thực các Nghị quyết, Chỉ thị trên, công tác đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình” đã đạt được kết quả quan trọng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng hoạt động đối ngoại và tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh.

- Từ Đại Hội X của Đảng đến nay, đi đôi với những thời cơ và thuận lợi mới, tình hình quốc tế và trong nước cũng xuất hiện những diễn biến phức tạp, tác động đến công tác đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” và “xâm lăng văn hoá” đối với nước ta với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.

- Thời gian qua, công tác đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của ta, tuy đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng cũng còn không ít khuyết điểm, yếu kém cần khắc phục. Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng tăng, có mặt nghiêm trọng. Đáng chú ý là xu hướng “tự diễn biến”; “tự chuyển hoá”, đi chệch hướng XHCN.

  - Nghị quyết Trung ương (Khoá X) về “Công tác tư tưởng, lí luận, báo chí trước yêu cầu mới” đã đề ra một trong các nhiệm vụ và giải pháp quan trọng là:
Triển  khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” thực hiện đa nguyên chính trị, hình thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù  địch ; thưòng xuyên cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả Trung ương và các ngành, các cấp. Với những lí do nêu trên, ngày 24/4/2009, Ban Bí Thư đã ban hành Chỉ thị “Tăng cường đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá”. Đây là yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay để góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội X và phục vụ triển khai có hiệu quả một trong những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về công tác tư tưởng, lí luận, báo chí trong tình hình mới.

II. Đánh giá tình hình

1. Âm mưu , hoạt động “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá từ sau Đại hội X đến nay

 1.1 Bối cảnh tác động:

 - Quốc tế: Từ Đại hội X của Đảng đến nay, những cuộc đấu tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên vẫn tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới với tính chất ngày càng phức tạp.

- Trong nước: Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và “xâm lăng văn hoá” nhằm xoá bỏ chế độ XHCN và bản sắc văn hoá Việt Nam. Chúng coi tiến hành “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá là mũi đột phá, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra “ những khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhằm chuyển hoá , xoá bỏ hệ tư tưởng XHCN. Việc Mỹ triển khai “Đội hoà bình” (tổ chức chuyên tuyên truyền và kích động lật đổ) và dự kiến thực hiện Chương trình nghiên cứu liên quan sự chuyển đổi chính trị, dân chủ ở Việt Nam của Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) cho thấy rõ các bước cụ thể của Mỹ nhằm thúc đẩy mầm mống “cách mạng màu” ở Việt Nam.           

1.2 Sự chống phá của các thế lực thù địch:

 - Trên lĩnh vực tư tưởng- chính trị:

+ Chúng tiếp tục tiến công xuyên tạc, phủ định, xoá bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với một thang bậc và luận điệu mới, như: quy kết chủ nghĩa Mác - Lênin sai lầm từ gốc rễ: mở chiến dịch bịa đặt, dựng phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” với ý đồ “ tẩy trừ huyền thoại Hồ Chí Minh”và phát động “Phong trào quốc dân đòi trả tên cho Sài Gòn”. Gần đây một số tác phẩm nhằm hạ bệ Chủ tịch Hồ Chí Minh, như: “Hồ Chí Minh bình khảo” của Hồ Tuấn Hùng (Đài Loan), “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương (xuất bản tại Pháp)…

+ Chúng huy động tối đa các phương tiện thông tin đại chúng và tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài để chống phá Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ Công an, hiện có 413 tổ chức phản động; 62 đài phát thanh và truyền hình, 390 báo và tạp chí phản động và 88 nhà xuất bản ở hải ngoại chống phá ta. Từ sau đại hội X, ta phát hiện thêm 2 đài (Đài tiếng nói thanh niên và Đài Hồn Việt), 5 tổ chức phản động mới và 20 chiến dịch tuyên truyền phá hoại tư tưởng đối với Việt Nam. Cơ quan an ninh đã ngăn chặn 4.879 tài liệu chiến tranh tâm lí và 44.030 thư ân xá quốc tế.

 + Chúng lợi dụng những sự kiện lớn của đất nước và một số yếu kém trong quản lý của ta gần đây để quy chụp, xuyên tạc, kích động, chia rẽ, như: “Đảng chỉ tay, Chính phủ phủi tay, Mặt trận vỗ tay, Quốc hội giơ tay, dân trắng tay”. Xuyên tạc cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là “nhốt cả dân tộc vào trong cái rọ chuyên chính vô sản về mặt chính trị”, “Đảng cố tạo dựng hình ảnh Hồ Chí Minh thành một giá trị quy chiếu cho Đảng viên và nhân dân chấp nhận, làm cơ sở tiếp tục duy trì chế độ độc tài”.

+ Chúng tập trung vào “chiến lược con người” để đào tạo một lớp người thân Mỹ và phương Tây. Mỹ đã bộc lộ rõ ý đồ lợi dụng hợp tác giáo dục, đào tạo để chuyển hoá Việt Nam. Đến nay chỉ riêng Mỹ đã có 15 chương trình, dự án lớn có liên quan đến lĩnh vực giáo dục - đào tạo đang triển khai ở Việt Nam. Ngân sách của chính phủ Mỹ dành cho các chương trình Fulbringt Việt Nam tăng lên 4 triệu USD/ năm, còn “Quỹ  giáo dục Việt Nam” mỗi năm dành 5 triệu USD cấp cho 100 sinh viên Việt Nam học tại Mỹ, Đại sứ quán Mỹ ráo riết triển khai dự án “Góc Hoa Kỳ” nhằm quảng bá với lớp trẻ hình ảnh nước Mỹ, lối sống Mỹ. Các cơ quan hoạch định chiến lược của Mỹ đưa ra bản “lộ trình 4 bước”, trong đó bước 4 có nội dung các trường đại học Mỹ được khuyến khích mở các cơ sở tại Việt Nam.

  • Trên lĩnh vực báo chí, xuất bản:

 + Các thế lực thù địch thâm nhập, lợi dụng một số cơ quan báo chí, xuất bản và một số nhà báo bằng thủ đoạn nham hiểm, như: chú trọng đào tạo, lôi kéo, “chuyển hoá tư tưởng” một số phóng viên. Thông qua “hợp tác, giúp đỡ” về đào tạo và tiếp cận những nhà báo trẻ có tư tưởng tự do, phóng khoáng, dễ giao lưu; từ đó lôi kéo họ làm báo theo kiểu “tự do” của phương Tây. Thời gian qua, có một số lãnh đạo và báo chí, phóng viên đã bộc lộ tư tưởng báo chí đối lập với Đảng, quá nhấn mạnh vai trò “phản biện” và lạm dụng “quyền lực xã hội” để đưa các bài viết công kích sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

+ Ra sức thúc đẩy thành lập báo tư nhân, nhà xuất bản tư nhân làm cơ quan ngôn luận cho “ lực lượng dân chủ”; triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng Internet, Blog… để “công bố” rộng rãi các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung xấu, phản động; truyền bá thông tin, quan điểm sai trái, thù địch và khuyến khích nhiều người lên mạng để “trao đổi”, “thu nhận” thông tin; dùng báo mạng làm “nóng” các vấn đề của đất nước; đổi trắng thay đen, tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong công chúng, kích động gây rối, bạo loạn lật đổ.

 - Trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ:

+ Các thế lực thù địch gia tăng kích động văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác, tự do công bố các tác phẩm văn học nghệ thuật, phản đối sự kiểm duyệt của cơ quan nhà nước, đòi được công khai, đánh giá lại các sự kiện, nhân vật lịch sử theo quan điểm của Phương Tây, từng bước thoát ly sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ. Một bộ phận văn nghệ s ĩ đã và đang có khuynh hướng sáng tác phức tạp nhằm “giải thiêng” các giá trị vốn đã được khẳng định của dân tộc…

 + Tiến hành tiếp xúc, lôi kéo các phần tử văn nghệ sĩ “cấp tiến”, văn nghệ sĩ có biểu hiện dao động chính trị, thông qua việc mời họ ra nước ngoài giao lưu, hội thảo,tham quan, tham gia biểu diễn nghệ thuật và trao giải thưởng cho các tác phẩm có nội dung lệch lạc, phản động, tiêu cực; tài trợ xuất bản những cuốn sách dưới danh nghĩa “ văn hoá tri thức nhân loại” nhưng thực chất là truyền bá tư tưởng tư sản vào nước ta.

 + Tăng cường tán phát băng đĩa , các bộ phim có nội dung bạo lực, đồi truỵ gây tác động xấu đến một bộ phận giới trẻ.

  • Trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo:

 + Về dân chủ, nhân quyền: Cùng với việc tăng cường tuyên truyền, quảng bá các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây cũng như một số tổ chức quốc tế đã có những phát biểu, hành động ủng hộ, tiếp xúc nhằm khuyến khích những hoạt động chống đối của các đối tượng cơ hội chính trị ở Việt Nam (Cựu Tổng thống Bush tiếp 4 tên phản động người Việt lưu vong tại Nhà trắng; Hạ nghị viện Hoa Kỳ ra Nghị quyết HR. 243 đòi thả Nguyễn Văn Lý và thông qua Dự luật nhân quyền Việt Nam HR.3096 với số phiếu áp đảo; công khai khuyến khích, ủng hộ việc thành lập các tổ chức chính trị đối lập ở Việt Nam) Chỉ chích Chỉ thị 37 của Thủ tướng chính phủ về việc lãnh đạo và quản lý báo chí, đặc biệt là nghị quyết TRUNG ƯƠNG 5 “Về công tác tư tưởng, lí luận, báo chí trước yêu cầu mới”, coi đây là một hình thức “chặn đứng cao trào tự do ngôn luận đang dâng cao trong nước”.

+ Về vấn đề tôn giáo: Chúng công khai hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần lẫn vật chất để thúc đẩy chủ trương ly khai trong nội bộ một số tổ chức tôn giáo. Thời gian qua, chúng liên tục kích động, kêu gọi đòi lại đất đai, cơ sở vật chất có nguồn gốc tôn giáo như vụ 42 Nhà Chung, giáo sứ Thái Hà (Hà Nội), La Vang (Quảng Trị )… Các phần tử phản động, cực đoan trong các tôn giáo cũng chuyển đổi phương pháp nắm giáo dân bằng cách lấy các tổ chức hội đồng, hội đoàn làm nòng cốt nhằm tranh giành quần chúng, âm mưu tạo dựng lực lượng đối trọng với chính quyền; âm mưu thành lập “Uỷ ban liên tôn giáo chống cộng”… Cùng với việc phát triển không bình thường đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc, chúng đã hình thành các “tôn giáo lạ” ở vùng miền núi phía Bắc như đạo “San sư khổ tảo” ở Hà Giang, Cao Bằng, “Sề chù ha ly lù gia’ ở Lai Châu … để gây chia rẽ mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tạo ra các nhân tố tiềm ẩn gây mất ổn định chính trị, xã hội trong đồng bào dân tộc thiểu số. + Về vấn đề dân tộc: Các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, như vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, lịch sử vương quốc Chăm-pa để kích động tư tưởng hận thù dân tộc, ly khai, tự trị. Tiếp tục hậu thuẫn cho số phản động ở các khu vực trọng điểm gia tăng hoạt động chống phá, thực hiện ý đồ thành lập “Nhà nước Đề ga độc lập ở Tây Nguyên”, “Nhà nước Khmer Krom” ở Tây Nam bộ, “Nhà nước Chăm độc lập” ở Nam Trung Bộ và “Vương Quốc Mông” ở Tây Bắc nhằm phá vỡ sự thống nhất quốc gia ở Việt Nam, tạo tiền đề cho sự can thiệp của các thế lực thù địch ở bên ngoài. - Thông qua một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài để thực hiện “Diễn biến hoà bình” + Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 700 tổ chức NGO nước ngoài, trong đó trên 550 tổ chức có hoạt động thường xuyên. Các thế lực thù địch đã lợi dụng hoạt động của một số tổ chức NGO vào các mục đích chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ, xâm hại an ninh và chủ quyền nước ta.

+ Đặc biệt, chúng rất chú trọng lợi dụng việc hợp tác, đầu tư, tài trợ các chương trình, dự án vào các vùng dân tộc, miền núi để tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử phát triển, phong tục tập quán … phục vụ ý đồ móc nối, tuyển lựa, cài cắm người, thu thập tin tức đồng thời tuyên truyền, tác động giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây…

 2. Công tác đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá của các thế lực thù địch trong thời gian qua

Trước tình hình trên, Đảng, nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là Ban Chỉ Đạo 94 các cấp đã có nhiều biện pháp giáo dục, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về những âm mưu, thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, xảo quyệt trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, đồng thời có biện pháp đấu tranh ngăn chặn, từng bước đẩy lùi các hành động chống phá của chúng.

2.1 Những kết quả đạt được:

- Việc theo dõi, nắm bắt diễn biến tư tưởng trong nội bộ và tâm trạng xã hội, nhất là khi diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng trong và ngoài nước được quan tâm hơn. Công tác thông tin về tình hình chính trị, kinh tế xã hội, về âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch được tăng cường dưới nhiều hình thức: thông tin đại chúng, thông báo nội bộ, hội thảo… Công tác bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ về đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá bước đầu được chú trọng.

- Chủ động tấn công chính trị có hiệu quả hơn các hoạt động vi phạm pháp luật của số cơ hội chính trị, số cực đoan, phản động trong các tôn giáo; tổ chức cho quần chúng ở cơ sở đấu tranh, cô lập và phân hoá kẻ xấu để góp phần ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân vào sức mạnh của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

- Dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự phối hợp giữa các ban, ngành, giữa Trung ương và địa phương đã có hiệu quả hơn, nắm chắc hơn các động thái phá hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá. Công tác đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên mạng Internet, bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ.

- Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực  tư tưởng, văn hoá có nhiều cố gắng. Các phương tiện thông tin đại chúng đã thể hiện là kênh thông tin quan trọng định hướng ý thức chính trị cho các giai tầng xã hội. Việc ngăn chặn hoạt động thâm nhập văn hoá phản động, đồi truỵ ở một số địa phương được tăng cường hơn trước. Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần rất quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng của dất nước. Đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn vững vàng, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước ta.

2.2 Những khuyết điểm, yếu kém

 - Việc triển khai các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư ở một số ngành, địa phương còn có biểu hiện làm lướt, mang tính hình thức, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” còn mơ hồ, một bộ phận đã nhận thức được nhưng chưa rõ, một số nơi quan niệm chống “Diễn biến hoà bình” là của Trung ương, của cấp trên … vì thế còn mất cảnh giác và chưa có sự quyết tâm cao trong việc chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

- Sự chỉ đạo, phối hợp giữa một số cơ quan chức năng trong đấu tranh còn nhiều hạn chế nên dẫn đến hiệu quả chưa cao, đặc biệt là nắm những động thái phá hoại của các thế lực thù địch và tình hình tư tưởng ở cơ sở chưa sâu sát dẫn đến những bất ngờ, như: vụ biểu tình ở Sóc Trăng tháng 2/2007 và biểu tình gây rối ở Tây Nguyên tháng 4/2008 vừa qua.

 - Tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu chưa được ngăn chặn có hiệu quả làm giảm lòng tin của nhân dân. - Việc phản bác các luận điệu tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên mạng Internet mặc dù có bước tiến bộ, nhưng tính chiến đấu, tính hiệu quả chưa cao.

- Việc quản lý báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ còn những biểu hiện lỏng lẻo, bất cập đã tác động tiêu cực đến công tác đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”. Tình trạng lọt, lộ bí mật của Nhà nước xảy ra nghiêm trọng.

- Công tác thông tin đối ngoại mặc dù đã có những cố gắng lớn nhưng chưa đa dạng, chưa chuyển tải hết các thông tin về  thành tựu trên các lĩnh vực của đất nước, về quyền con người, tự do tôn giáo để chính giới, nhân dân các nước, nhất là đồng bào Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng về tình hình Việt Nam. 2.3 Tác động của âm mưu “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng đối với “tự diễn biến” trong nội bộ ta Một số cán bộ, đảng viên và quần chúng hoang mang, dao động mất phương hướng, giảm sút lòng tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, hoặc muốn đi theo hướng phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Kết quả cuộc điều tra dư luận xã hội năm 2007 cho thấy tỷ lệ số người cho rằng “hiện tượng tán phát tài liệu xấu, tuyên truyền các quan điểm sai trái, xuyên tạc, bôi nhọ chế độ là vấn đề bức xúc trong năm” đã tăng từ 17% năm 2006 lên 28% năm 2007; tác động của thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”  tăng từ 22% năm 2006 lên 27% năm 2007. Kết quả cuộc điều tra về tác động của các quan điểm, hành động sai trái, thù địch tới tâm trạng, thái độ cán bộ, đảng viên và nhân dân tháng 01/2004 cho thấy có tới 33% đối tượng cán bộ và 45% đối tượng nhân dân được hỏi đã trả lời: các thông tin xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt, nói xấu Đảng, nói xấu chế độ, bôi nhọ lãnh đạo của các thế lực thù địch đã tác động lớn  đến sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, lý tưởng XHCN trong xã hội hiện nay.

- Đã có biểu hiện mong muốn đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị. Có cán bộ, đảng viên đã viết, phát ngôn và phát tán tài liệu có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng; công khai phê phán sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Chính phủ.

- Không ít cán bộ, đảng viên tuy vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vẫn gắn bó với chế độ nhưng thụ động, thiếu bản lĩnh, không dám đấu tranh với những luận điệu sai trái, với những kẻ cơ hội chính trị hoặc do nhận thức không đầy đủ, bị lợi dụng nên đã ủng hộ, phụ hoạ, truyền bá những quan điểm chính trị phản động.

 - Vì sự sụt giảm niềm tin, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân đã tham gia hoạt động tôn giáo, mê tín dị đoan. Điều tra dư luận xã hội năm 2007 cho thấy có đến 22% số người được hỏi cho rằng tệ mê tín dị đoan là vấn đề bức xúc nhất trong năm, tăng 2% so với năm 2006.

- Xuất hiện một bộ phận học sinh, sinh viên thiếu lòng tin vào con đường đi lên CNXH và công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, nhận thức hạn chế về âm mưu, hoạt động chống phá ta của các thế lực thù địch, đề cao quan điểm “dân chủ tư sản”; sống thực dụng, ích kỷ, cá biệt có hiện tượng tha hoá về nhân cách; một số viết bài cho đài nước ngoài nói xấu chế độ ta để xin học bổng.

- Tình trạng sáng tác hàng loạt các ca khúc, ca từ thiếu văn hoá nhưng được phát hành, biểu diễn tràn lan, tình trạng chiếu phim ngoại quốc tràn lan trên truyền hình… dần dần tác động mạnh đến sự suy thoái đạo đức lối sống của bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên. - Trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản đã xuất hiện khuynh hướng cực đoan phản ánh hiện thực đời sống chỉ là những yếu kém, tiêu cực; một số tác phẩm bôi đen, phỉ báng lịch sử, “hạ bệ thần tượng”, phủ định sạch trơn, quay lưng lại với đời sống nhân dân. Một khuynh hướng khác, nguy hiểm hơn, đòi “lật án” để bào chữa, thậm chí “phong thánh” cho một số nhà văn, nhà hoạt động chính trị - xã hội từng có sai lầm trong quá khứ; đòi “khơi thông một dòng văn học đang âm thầm chảy” (dòng văn học của những cây bút chống cộng trước năm 1975); đòi đánh giá lại và đề cao “công lao” của một số nhân vật lịch sử đối với đất nước; mở diễn đàn bàn thảo, tranh luận nhiều vấn đề nhạy cảm. Những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của các thế lực thù địch và sự  “tự diễn biến” trong nội bộ đã và đang là cơ hội để các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, từng bước lái đất nước ta đi chệch con đường XHCN. Để góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng XHCN, cần tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động, nâng cao chất lượng, hiệu quả của cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá trong thời gian tới.

III. Quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

 1 Quan điểm chỉ đạo

 - Tạo được sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương về âm mưu, thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” và coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần được tiến hành thường xuyên, lâu dài. Trên cơ sở thấy rõ những âm mưu, thủ đoạn ngày càng nham hiểm, tinh vi của các thế lực thù địch, xây dựng những đối sách phù hợp, kịp thời, hiệu quả. - Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong các giải pháp đấu tranh, tạo ra sức tự đề kháng trước những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch; nêu cao ý thức chủ động tiến công làm thất bại các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ.

- Phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, đoàn thể; giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp các lực lượng trên mặt trận tư tưởng, văn hoá trong cuộc đấu tranh chống các hoạt động “Diễn biến hoà bình”

2. Một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, để làm thất bại âm mưu, hoạt động “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá trong tình hình mới, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung sức thực hiện tốt những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau đây:

-Thứ nhất, coi trọng, tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi đắp ý chí kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sự thống nhất trong nhận thức về nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, xây dựng nội bộ vững mạnh, củng cố vững chắc bên trong là chính, lấy “thế trận lòng dân” làm nền tảng.

-Thứ hai, tiếp tục làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Từng ban, ngành, đoàn thể, địa phương đơn vị phải chủ động phát hiện, giải quyết những vấn đề chính trị nội bộ. Chấp hành nghiêm túc các quy định về bảo vệ bí mật quốc gia, quy chế phát ngôn, cung cấp thông tin, tài liệu “mật”. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; nâng cao chất lượng sinh hoạt học tập của các tổ chức Đảng cơ sở, tăng cường tính chiến đấu của tổ chức đảng và thành viên. Giữ vững kỷ luật phát ngôn, đi đôi với mở rộng dân chủ, tự do tư tưởng sáng tạo.

- Thứ ba, tiếp tục triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” để xây dựng nền tảng đạo đức trong Đảng; bồi dưỡng lòng yêu thương con người, lối sống trung thực, giản di, cần, kiệm, liêm, chính; giữ gìn bản sắc dân tộc, nhân rộng các tấm gương “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Có biện pháp kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong xã hội. Đề cao ý thức gần dân, học dân, trọng dân, có trách nhiệm với dân trong cán bộ, công chức các cấp, nhất là đảng viên.

- Thứ tư, mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc hoạch định các chủ trương, đường lối; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong hệ thống chính trị và xã hội; thường xuyên kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng, của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của hệ thống dân cử và của hệ thống thông tin đại chúng.

-Thứ năm, tăng cường công tác lãnh đạo và quản lý báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, cổ vũ, khuyên khích những tác phẩm có nội dung và nghệ thuật tốt, ngăn chặn những tác phẩm có quan điểm lệch lạc, sai trái. Tập trung lãnh đaọ, tạo môi trường, cơ chế, chính sách để các văn nghệ sĩ sáng tác được nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật để giáo dục, cổ vũ các tầng lớp nhân dân đấu tranh bài trừ các loại văn hoá phẩm thấp kém, độc hại trên thị trường, trên sàn diễn, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bảo đảm an ninh thông tin, nhất là trên mạng Internet… Chủ động, kịp thời cung cấp, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sớm phát hiện và giải quyết khẩn trương các vấn đề bức xúc, các điểm “nóng” về khiếu kiện, đình công…, giữ vững ổn định chính trị xã hội.

-Thứ sáu, phản bác kịp thời có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh chống các luận điệu phủ định, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước ta nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn hoạt động tập hợp lực lượng, móc nối trong ngoài, không để công khai hoá, quốc tế hoá các tổ chức chính trị đối lập trong nước chống Đảng, Nhà nước. Tập trung giải quyết một bước căn bản, có hiệu quả các vấn đề ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, không để các thế lực thù địch lợi dụng gắn vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo để kích động quần chúng biểu tình, bạo loạn, gây mất ổn định chính trị.

-Thứ bảy, đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ “Tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên ở cả Trung ương, các ngành, các cấp, các địa phương. Kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc văn hoá dân tộc.

-Thứ tám, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động thông tin đối ngoại giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế có nhận thức đúng đắn về đường lối đổi mới, hội nhập; về tiềm năng hợp tác của ta với quốc tế; về lịch sử, văn hoá con người Việt Nam nhằm tranh thủ rộng rãi sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

-Thứ chín, mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa giáo dục gắn liền với việc nâng cao ý thức cảnh giác, đối phó kịp thời với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng sự hợp tác này để thâm nhập, chuyển hoá chế độ ta. Nhanh chóng khắc phục tư tưởng chỉ coi trọng lợi ích kinh tế mà coi nhẹ vấn đề an ninh tư tưởng, văn hoá trong việc nhận viện trợ, hợp tác, liên doanh với nước ngoài trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhất là các doanh nghiệp có hợp tác với nước ngoài.
-Thứ mười, coi trọng việc đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật, từng bước hiện đại hoá các phương tiện phục vụ cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hoà bình”. 

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG


-------------------------

CÙNG TÁC GIẢ :

Wed, 10/28/2015 - 23:29 — nguyenthituhuy
Mon, 10/26/2015 - 22:39 — nguyenthituhuy
Fri, 09/11/2015 - 18:45 — nguyenthituhuy
Wed, 09/09/2015 - 11:59 — nguyenthituhuy
Wed, 09/02/2015 - 21:52 — nguyenthituhuy
Tue, 09/01/2015 - 11:03 — nguyenthituhuy
Thu, 08/27/2015 - 21:27 — nguyenthituhuy
Thu, 08/27/2015 - 15:50 — nguyenthituhuy











No comments:

Post a Comment

View My Stats