28.10.2015
Với chữ “chúng ta” ở đây, tôi chỉ giới hạn trong cộng
đồng người Việt Nam ở hải ngoại. Nghe nói cộng đồng ấy đã lên đến trên dưới bốn
triệu người sống rải rác trên khoảng một trăm quốc gia trên thế giới. Đó là một
cộng đồng khá đa tạp, bao gồm nhiều thành phần khác nhau, những cách thức rời bỏ
quê hương khác nhau, từ những người vượt biên và những cựu tù nhân chính trị được
ra đi chính thức đến những người được thân nhân bảo lãnh, các cựu du học sinh
và những người quyết định định cư ở nước ngoài chỉ vì lý do thuần tuý kinh tế.
Tuy đa tạp như vậy, nhưng tất cả đều có một số điểm
chung. Chung ở hoàn cảnh: lưu vong. Chung ở tâm thế: tâm thế lưu vong.
Theo các nhà Lưu vong học, tâm thế ấy bao gồm bốn điểm
chính: Thứ nhất, tất cả đều chia sẻ một số ký ức tập thể chung liên quan
đến nguồn cội. Thứ hai, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều cảm thấy
ít nhiều lạc lõng trên đất khách. Thứ ba, tất cả đều không nguôi nhớ về
quê cũ, thi vị hoá quá khứ, đau đáu theo dõi từng diễn biến trong đời sống
chính trị ở cái nơi mình đã bỏ ra đi. Cuối cùng, thứ tư, như là hệ quả của
ba đặc điểm vừa nêu, tất cả đều sống trong trạng thái ở giữa: giữa quê cũ và
quê mới, giữa quá khứ và hiện tại, giữa hoài niệm và hoài bão, giữa đây và đó.
Trong các đặc điểm vừa nêu, điều đáng chú ý nhất là
những ám ảnh về quê cũ. Những ám ảnh ấy có nhiều biểu hiện khác nhau. Có người
thấy thoả mãn với việc thỉnh thoảng bay về quê hương như một du khách. Có người
thường xuyên theo dõi các biến chuyển ở quê hương một cách thụ động. Có người
trăn trở muốn làm một cái gì đó để thay đổi tình hình đất nước. Chính với nhóm
người sau cùng này, một câu hỏi thường được đặt ra: Liệu những nỗ lực của họ có
thành hiện thực? Hay nói cách khác, rộng hơn, liệu những người đó có thể làm được
gì cho đất nước?
Để trả lời câu hỏi ấy, không thể không nhìn lại kinh
nghiệm của các cộng đồng lưu vong trên thế giới. Sau năm 1917, cả hàng triệu
người Nga bỏ nước ra đi. Sau năm 1945, hàng triệu người Đông Âu bỏ nước ra đi.
Họ, cũng giống chúng ta, không ngớt thao thức về đất nước, và một số khá đông
cũng tìm mọi cách để dân chủ hoá đất nước của họ. Nhưng họ còn hơn chúng ta ở một
điểm: Trong họ, có nhiều tài năng có tầm vóc thế giới, nhiều tên tuổi nổi tiếng
trong nhiều lãnh vực khác nhau, từ khoa học đến văn học nghệ thuật. Cuối cùng,
họ đã làm được gì cho đất nước của họ?
Câu trả lời khá buồn: hầu như không được gì cả. Từ đầu
thập niên 1980 trở về trước, bất chấp những sự phê phán và phản kháng của các cộng
đồng lưu vong ở nước ngoài, các chế độ cộng sản ở Nga và Đông Âu vẫn vững mạnh.
Cuối thập niên 1980, các chế độ cộng sản ở những nơi ấy lần lượt sụp đổ vì những
lý do khác chứ không hề từ những nỗ lực tranh đấu từ bên ngoài. Sau khi chủ
nghĩa cộng sản sụp đổ, các cộng đồng lưu vong cũng không đóng góp được gì trong
quá trình dân chủ hoá chế độ. Từ trước đến sau, các cộng đồng lưu vong đều là
những kẻ ngoại cuộc, bất lực và vô vọng.
So với các cộng đồng lưu vong Nga và Đông Âu trước
đây, cộng đồng lưu vong Việt Nam có gì khác?
Có.
Cái khác căn bản nhất là ở thời đại: Chúng ta, may mắn
hơn, sống trong thời toàn cầu hoá, trong đó, các phương tiện truyền thông đại
chúng, đặc biệt là internet, phát triển vượt bậc khiến quan hệ trong và ngoài
nước được dễ dàng và vô cùng nhanh chóng. Trước, những tiếng nói phản kháng của
những người lưu vong, kể cả những người từng đoạt giải Nobel về văn chương, từ
Aleksandr Solzhenitsyn (1918-2008) đến Joseph Brodsky (1940-1996), đều chỉ vang
lên ở Tây phương chứ không vọng về được trong nước họ. Bây giờ, với chúng ta,
tình hình khác hẳn. Bất cứ tiếng nói nào được cất lên ở hải ngoại, qua mạng lưới
internet, được người trong nước nghe ngay tức khắc. Con đường ngược lại cũng
tương tự: một tiếng kêu từ trong nước, trong vòng tích tắc, đã được tiếp nhận ở
hải ngoại.
Với những quan hệ chặt chẽ giữa trong và ngoài nước
như vậy, những nỗ lực tranh đấu của người Việt ở nước ngoài sẽ dễ có hiệu quả
hơn. Hiệu quả ấy có thể thấy trên hai khía cạnh: Thứ nhất, người Việt ở hải ngoại
đóng góp phần lớn vào tiến trình quốc tế hoá cuộc đấu tranh trong nước. Một
trong những lý do chính làm cho các chính phủ Tây phương cũng như các tổ chức về
nhân quyền trên thế giới biết đến những sự đàn áp thô bạo của chính quyền Việt
Nam chính là nhờ các nỗ lực vận động của người Việt ở nước ngoài. Không có họ,
các tiếng gào thét cất lên từ trong nước rất dễ tan biến vào hư không. Thứ hai,
điều người Việt ở nước ngoài có thể đóng góp cho những người Việt tranh đấu ở
trong nước là về phương diện lý luận. Người Việt ở trong nước có nhiều kinh
nghiệm trực tiếp về sự độc tài và tàn ác của chế độ, nhưng điều họ thiếu là những
kinh nghiệm về dân chủ cũng như tầm nhìn bao quát về địa chính trị vốn là mặt mạnh
của những người Việt Nam ở hải ngoại.
Nói cách tóm tắt, qua các mạng truyền thông xã hội,
người Việt trong và ngoài nước cùng bắt tay nhau trên con đường tranh đấu cho tự
do và dân chủ. Mỗi bên đều có mặt mạnh và mặt yếu nhưng qua sự hợp tác, các mặt
yếu sẽ được khắc phục và các mặt mạnh sẽ được phát huy. Tất cả sẽ góp phần hình
thành nên một trận tuyến chung trong việc dân chủ hoá đất nước.
---------------------------
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment