TS. Đoàn Xuân Lộc
Gửi cho BBC từ Anh quốc
30-10-2015
Trái
ngược với nhiều dự đoán, Tổng thống Mỹ Barack Obama không ghé thăm Việt Nam
trong dịp ông tới Philippines và Malaysia tháng 11 này.
Với
chuyến thăm Philippines và Malaysia sắp tới, Tổng thống Obama sẽ có đến chín
chuyến công du ở châu Á – trong đó ông đã một lần đến Singapore (2009),
Cambodia (2012), Thái Lan (2012) và hai lần tới Indonesia (2010, 2011), Myanmar
(2012, 2014), Malaysia (2014, 2015), Philippines (2014, 2015).
Như vậy,
chỉ có ba nước trong ASEAN – Brunei, Lào và Việt Nam – ông chưa thăm.
Xoay trục
châu Á là một ưu tiên của Tổng thống Obama và ông có nhiều chuyến công du tới
khu vực này cũng vì ưu tiên ấy.
Xét về
địa chính trị, lại là một nước khá lớn về dân số, kinh tế so với nhiều nước
ASEAN khác, Việt Nam là nước tương đối quan trọng trong chính sách xoay trục của
Mỹ.
Nhưng
ông đã không thăm Việt Nam trong những lần đến châu Á một phần vì giữa Mỹ và Việt
Nam có nhiều khác biệt, bất đồng – đặc biệt về vấn đề nhân quyền, dân chủ, tự
do.
Với Mỹ
và Tổng thống Obama nói riêng những vấn đề đó đóng một vai trò quan trọng trong
chính sách ngoại giao.
Ông đến
thăm Indonesia, Malaysia và Myanmar cũng vì muốn ghi nhận, khuyến khích tiến
trình dân chủ hóa đã và đang xảy ra tại đây.
Trong
khi đó, tuy có những cởi mở nhất định, Việt Nam đã không tiến hành những cải
cách đáng kể về chính trị.
Chờ
phản ứng của Việt Nam?
Vì thái
độ khá hung hăng, mạnh bạo của Trung Quốc gần đây, Hoa Kỳ và Việt Nam đã cố gắng
giảm và vượt qua những khác biệt để củng cố quan hệ song phương.
Trong một
chừng mực nào đó Washington đã nhún nhường trước Hà Nội trong vấn đề nhân quyền
và công khai thừa nhận thể chế chính trị của Việt Nam.
Ông
Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tới Mỹ và được chính
Tổng thống Obama tiếp đón nồng nhiệt, trang trọng ngay trong phòng Bầu Dục chứng
tỏ điều đó.
Trước,
trong và sau chuyến thăm lịch sử ấy, phía Mỹ luôn nhấn mạnh rằng nước này không
có mục đích chống phá chế độ hay gây phương hại gì cho Việt Nam như một số lãnh
đạo, quan chức Việt Nam thường nghi ngờ.
Trái lại,
Mỹ chỉ muốn Việt Nam thực sự độc lập, vững mạnh và thịnh vượng, tôn trọng nhân
quyền và pháp quyền.
Mỹ khuyến
khích – nếu không muốn nói là đồng ý để – Việt Nam tham gia vào Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TTP) cũng chỉ vì muốn Việt Nam trở thành một quốc
gia như vậy.
Trước sự
nhún nhường, thiện chí ấy của Mỹ, giới lãnh đạo Việt Nam bớt nghi ngại
Washington và nhờ đó, quan hệ Việt-Mỹ đã được cải thiện nhiều trong thời gian
qua.
Cũng vì
thế, giới quan sát cho rằng một chuyến thăm của Tổng thống Obama dịp ông đến
Đông Nam Á lần này sẽ là một cơ hội tốt để ghi nhận những chuyển biến tích cực
trong quan hệ Mỹ-Việt cũng như đưa mối quan hệ này lên một tầm cao mới.
Chuyến
thăm của ông Obama cũng chứng tỏ chính quyền của ông coi trọng quan hệ với Hà Nội.
Nhưng
ông lại không thăm Việt Nam tháng tới.
Trong một
lần trả lời BBC gần đây, ông Murray Hiebert từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược
và Quốc tế (CSIS) ở Washington DC cho rằng ông Obama không ghé Việt Nam vì
không có thời gian, trong khi ông muốn ở lại Việt Nam ‘vài ngày’.
Chuyên
gia này cũng cho rằng ông Obama sẽ đi Việt Nam năm 2016.
Ít hay
nhiều nhận định như vậy cũng có lý vì trước khi đến Philippines và Malaysia để
tham dự Hội nghị APEC và Hội nghị Đông Á tại Manila (18-19) và Kuala Lumpur
(21-22), ông Obama sang Thổ Nhĩ Kỳ dự Hội nghị nhóm G-20 (14-16).
Nhưng một
chuyến thăm hai hoặc ba ngày tại Việt Nam sau khi ông rời Malaysia không phải
là không thể, nếu ông thực sự muốn điều đó.
Chuyến
đi châu Á đầu tiên của ông năm 2009 kéo dài bảy ngày (13-19/11) và ông đã thăm
Nhật, Singapore, Trung Quốc và Hàn Quốc trong thời gian ấy.
Năm
2014, ông cũng có chuyến thăm kéo dài bảy ngày (23-29/04) tới Nhật, Hàn Quốc,
Malaysia và Philippines.
Ngoài chuyện hạn hẹp thời gian, có thể còn có
những yếu tố khác làm Tổng thống Obama không ghé thăm Việt Nam dịp này.
Một
trong những lý do ấy là Mỹ đã làm những gì có thể – như đã có những nhượng bộ,
thiện chí, cố gắng – để củng cố quan hệ với Việt Nam nên ông Obama thăm lúc này
cũng không còn quá cần thiết cho quan hệ Mỹ-Việt.
Hơn nữa,
vì đã làm những điều đó, có thể giờ Washington đang chờ một phản ứng rõ ràng
hay thái độ tích cực nào đó từ Hà Nội.
Việc
Hoa Kỳ đưa tàu USS Lassen vào tuần tra tại một khu vực chỉ cách các đảo do
Trung Quốc tự xây trên Biển Đông 12 hải lý – một giới hạn mà luật pháp quốc tế
cho phép – chứng tỏ Mỹ đã công khai thách thức, đối đầu với Trung Quốc trong vấn
đề tranh chấp biển đảo.
Nên có
thể cũng đã đến lúc Washington muốn các nước trong vùng như Việt Nam rõ ràng
bày tỏ lập trường của mình.
Phản ứng
chậm chạp và mập mờ của Việt Nam về động thái đó của Mỹ sẽ không giúp gì cho
quan hệ Mỹ-Việt.
Nhân
sự Việt Nam chưa ngã ngũ?
Một lý
do khác có thể khiến ông Obama không ghé Việt Nam dịp này – và rất có thể ông
chỉ tới Việt Nam sau Đại hội XII của Đảng Cộng sản vào năm tới – là vấn đề nhân
sự chóp bu ở Việt Nam vẫn chưa được quyết định.
Không
ít người nhận định rằng chuyện lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc thăm Việt Nam trước Đại
hội XII sẽ tác động rất lớn đến việc bầu chọn nhân sự chóp bu cũng như đường lối
đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới.
Có thể
nói dù biết rõ việc ai hoặc thành phần nào trong Đảng Cộng sản Việt Nam được bầu
vào các vị trí chủ chốt sẽ ảnh hưởng nhiều đến quan hệ Việt Nam với Mỹ và Trung
Quốc, Washington không muốn – và cũng không cần – gây áp lực gì với Việt Nam
trong vấn đề bầu chọn lãnh đạo.
Bằng
quyết định không đến Hà Nội thời điểm này, Tổng thống Mỹ muốn cho giới lãnh đạo,
quan chức Việt Nam cũng dư luận nói chung thấy Washington không can thiệp vào
chuyện nội bộ của Việt Nam.
Trong mắt
một số lãnh đạo Việt Nam, Mỹ có âm mưu ‘diễn biến hòa bình’ nhằm chống phá chế
độ độc đảng ở Việt Nam. Hà Nội cũng thường cho rằng Washington can thiệp vào
chuyện nội bộ của mình mỗi khi Mỹ đề cập đến tình trạng nhân quyền ở Việt Nam.
Nhưng đến
giờ chưa thấy ai nói hay có bằng chứng nào cho thấy Mỹ can thiệp vào bầu chọn
lãnh đạo ở Hà Nội.
Đây là
một điểm khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc.
Hoa Kỳ
chỉ nêu những bất cập, giới hạn của Việt Nam trong một vài vấn đề như nhân quyền
để Việt Nam cải thiện.
Còn Bắc
Kinh luôn tìm cách tác động lên nhân sự Việt Nam để hướng Hà Nội đi theo hay thậm
chí lệ thuộc vào mình.
Chẳng hạn,
như cố Đại sứ Trần Quang Cơ và một số nguồn khác tiết lộ, Bắc Kinh đã gây áp lực
lên lãnh đạo cao cấp ở Hà Nội, buộc họ phải loại ông Nguyễn Cơ Thạch khỏi Bộ
Chính trị và chức Bộ trưởng Ngoại giao tại Đại hội VII năm 1991.
Thiếu vắng
một nhà ngoại giao rất thức thời, cởi mở, nhạy bén như cố Ngoại trưởng Nguyễn
Cơ Thạch, trong những năm 1990 – khi Việt Nam đang tìm cách hội nhập với thế giới
– giới lãnh đạo Việt Nam đã hướng theo và lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc và như
vậy cũng bỏ lỡ nhiêu cơ hội để tiến hành cải cách và giúp đất nước phát triển.
Lãnh đạo
Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam tuần tới cũng nhằm mục đích đó – đặc
biệt khi thành phần cởi mở, thân Mỹ trong giới lãnh đạo Việt Nam càng chiếm ưu
thế và Hà Nội đang xích lại gần với Washington sau chuyến Mỹ của ông Trọng.
Đây
cũng là lý do tại sao sự có mặt của ông Tập ở Hà Nội lúc này khiến dư luận Việt
Nam thấy lo ngại.
Nhưng
trước những hành động bành trướng ở Biển Đông của Trung Quốc và với thái độ cương
quyết của một số lãnh đạo Việt Nam gần đây – trong đó có tuyên bố rất rõ ràng của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa khi ông đến New York tham dự Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cuối
tháng Chín vừa qua – có thể giới lãnh đạo Việt Nam không còn dễ dàng để Bắc
Kinh chi phối.
Nếu có
một thái độ như thế, sau Đại hội XII Việt Nam sẽ có một giàn lãnh đạo mới tự
tin, cởi mở, có xu hướng cải cách. Và đó có thể cũng là thời điểm tốt để Việt
Nam đón Tổng thống Obama.
No comments:
Post a Comment