Thứ Tư, ngày 30 tháng 9 năm 2015
Với nhà văn Võ Phiến.
(Santa Ana, 12/2006).
Nguyễn Mộng Giác là người
đưa tôi tới gặp Võ Phiến lần đầu vào cuối năm 2006. Chính xác là vào đúng ngày
lễ Giáng Sinh năm 2006. Lúc đó anh Nguyễn Mộng Giác chưa vướng căn bệnh ung thư
gan ác nghiệt và nhà văn Võ Phiến còn rất khỏe mạnh. Võ Phiến là tác giả tôi mến
mộ từ tạp chí Bách Khoa ngày nào. Từ thời sinh viên, tôi đã quen với anh Bốn
Thôi nhổ cái lông mũi mà tốn bốn trang giấy in. Võ Phiến là nhà văn có lối viết
tỉ mỉ, rề rà mà nếu không quyến rũ được người đọc thì dễ làm các độc giả bỏ cuộc.
Tài của Võ phiến nằm trong việc níu kéo được người đọc ở lại với nhân vật của
ông. Nhưng có lẽ ông chẳng cần níu kéo. Chính cái rề rà của ông làm cho nhân vật
của ông rõ nét hơn, thân mật với độc giả hơn.
Trên xe, trước khi tới nhà, tôi
phân vân không biết xưng hô làm sao. Trước đó tôi đã nghe một vài bạn văn cho
biết là Võ Phiến chỉ thích mọi người gọi là anh vì trong văn giới không có già
trẻ, không có trước sau. Nghe vậy biết vậy, nhưng trong lòng tôi vẫn thấy ngại
ngại làm sao. Tôi loay hoay suy nghĩ mãi rồi mới hỏi anh Giác: “Mình phải xưng
hô với ông Võ phiến ra sao cho phải?”. Anh Giác vừa lái xe, vừa quay sang nhìn
tôi. Một lúc, anh mới chậm rãi: “Anh thì tôi không biết sao nhưng tôi vẫn xưng
là bác cháu vì chúng tôi có thân tình với nhau từ lâu, hàng xóm từ xa xưa ở Việt
Nam. Tùy anh!”. Trái banh lại được anh Giác đá qua tôi. Tuổi tác thì ông và tôi
cách nhau chỉ nhỉnh hơn một giáp, bác cháu cũng kỳ. Nhưng cái bóng của ông qua
1ớn, anh tôi sao tiện. Đầu tôi cứ loay hoay cho tới khi anh Giác ngừng xe. Đã tới
nhà. Căn nhà nho nhỏ nhưng rất dễ thương. Mảnh đất trước nhà đầy hoa trái Việt
Nam.
Võ Phiến, tết Kỷ Sửu
2009. Hình: Song Thao.
Người ra mở cửa là bà Võ Phiến. Nụ cười bà tươi khi
anh Giác giới thiệu tôi. Bất giác tôi nghĩ tới tên bà. Đây là bà Viễn Phố mà
chúng tôi ở Montreal vẫn chuyện trò nửa vui đùa nửa thú vị về cái tên của bà.
Cái tên thiệt đẹp. Chắc chắn không phải cái tên mà ông chồng nhà văn đặt cho bà
vì đây là tên khai sanh có từ thời ông còn một nơi bà còn một nẻo. Nhưng cái
tên này đã được ông chồng nhà văn tung hứng để thành một cái tên sẽ còn sống
mãi trong văn học sử nước nhà. Ông đã lật ngược cái tên thân yêu Viễn Phố thành
bút hiệu Võ Phiến của ông.
Nhà văn Võ Phiến từ trong
phòng ra đón chúng tôi với nụ cười rộng. Tôi buột miệng: “Chào bác!’. Vậy là tiếng
“bác” bật ra ngoài sự đắn đo của tôi. Câu chuyện trên ghế sa-lông của chúng tôi
dĩ nhiên toàn chuyện chữ nghĩa sách vở. Hình như nói tới chuyện viết lách là
đúng tần số của một Võ Phiến đã hưu trí mà chưa hề mỏi mệt với chữ nghĩa. Ông hỏi
thăm tôi về những anh em văn nghệ ở Montreal. Có những người ông biết như các
anh Trang Châu, Hoàng Xuân Sơn. Có những người ông chỉ biết tên nhưng còn xa lạ.
Ông sốc nổi: “Anh em còn viết được chi là hay rồi. Làm được chi cứ làm, mà phải
làm gấp kẻo không còn thời gian nữa”. Võ Phiến và Mai Thảo là hai nhà văn rất
trân trọng những người viết sau. Tôi đồ chừng có lẽ bỗng nhiên bị bứt ra khỏi
khối độc giả trong nước, sống nhờ nơi không phải là quê hương của mình, họ thấy
trống rỗng. Không nhìn quanh được, họ nhìn ra sau và thấy lạnh gáy nếu đam mê của
họ bị trống rỗng phía sau. Vậy nên những người viết sau mang hơi thở làm họ ấm
áp hơn.
Đang nói chuyện, ông bỗng đứng
dậy đi vào phòng. Bà Võ Phiến mời chúng tôi dùng nước. Bộ trà rất Việt Nam hài
hòa với khung cảnh rất Việt Nam của phòng khách. Tôi có cảm tưởng như ông bà muốn
tạo lại hình ảnh quê hương nơi ngoài quê hương. Tôi ngó quanh phòng, nghĩ:
không biết căn phòng xưa kia ở Sài Gòn của ông bà có nét nào đọng lại trong căn
phòng viễn xứ này không? Một lát, ông ra lại. Tay ông cầm một cuốn sách dày cộm.
Ông đưa cuốn sách bề thế cho tôi: “Tặng anh cuốn sách anh em vừa in cho tôi”.
Đó là cuốn “Tuyển Tập Võ Phiến” do Người Việt xuất bản. Cuốn sách nặng trên tay
tôi. Những con chữ nằm bên trong nặng, dĩ nhiên. Nhưng nặng cả về đơn vị đo lường.
Lúc đó cuốn sách nằm trĩu trên tay tôi. Chỉ khi viết bài này tôi mới thử nghịch
ngợm cân. Đúng 3 kí! Có lẽ anh Phạm Phú Minh, người chăm lo từ A tới Z cho cuốn
sách ra đời cũng không hề biết số kí này. Lật tới cuối cuốn sách, số trang là
1080 trang.
Ông bà Võ Phiến và
vợ chồng Song Thao. (Santa Ana, 02/2010).
Sách bìa cứng, trình bày rất trang nhã trên nền là
hình bầu trời xanh nhạt với những đám mây trắng lững thững trôi. Nhà văn Võ Phiến
rất trân trọng công sức của các văn hữu đã hoàn thành cho ông một cuốn
sách để đời. Tôi mở sách ngó lướt qua. Mắt rất thư thái với lối trình bày giản
dị, sáng sủa, được in trên giấy nền vàng nhạt dịu dàng. Ông cầm lại cuốn sách,
chỉ cho tôi trang đầu. Tôi chôn mắt đọc. “Bản của anh Song Thao, Santa
Ana 25-12-2006”. Dưới dòng đề tặng là hai câu thơ:
Gặp nhau quen ít biết nhiều
Văn thơ một chữ trăm điều vấn
vương
Tôi cảm động đến ngây người.
Những con chữ nho nhỏ, chân phương, ngay hàng thẳng lối như nhảy múa trước mắt
tôi. Ông đã nhớ tới những bài phiếm mà đầu đề chỉ độc một chữ của tôi. Hồi đó
phiếm của tôi xuất hiện đều đều mỗi số trên tờ Thế Kỷ 21 do anh Phạm Phú Minh
làm Chủ Bút. Bà Viễn Phố cho tôi biết rất thích những bài phiếm này. Ông có đọc
hay không, tôi không tiện hỏi. Lối viết mà anh em bảo là rất dí dỏm của tôi chắc
còn một quãng đường dài mới gần được lối viết cũng rất dí dỏm của ông. Biết đâu
chẳng có chuyện đồng khí tương cầu! Nói thì nói vậy cho vui chứ ai có nổi cái
dí dỏm của ông:
Nghe đâu Trời sắp gọi ta
Chuyện đâu có chuyện xảy ra
lạ đời!
Không ta ai gọi tên Trời?
Từ trái: vợ chồng
Song Thao, ông bà Võ Phiến, anh chị Thành Tôn, nhà thơ Đạm Thạch chụp với cây
quít vườn sau nhà ông bà Võ Phiến. (Santa Ana, 02/2010)
Lần thứ hai tôi tới nhà ông bà Võ Phiến là vào năm
2010. Đúng vào dịp tết Nguyên Đán. Lúc đó anh Nguyễn Mộng Giác đang chống chọi
với bệnh tật. Phái đoàn tới chúc tết ông bà Võ Phiến kỳ này khá đông đảo. Anh
Phạm Phú Minh, anh chị Thành Tôn, anh Đạm Thạch và vợ chồng tôi. Mới có bốn năm
mà tôi thấy sức khỏe của ông kém hẳn kỳ thăm trước. Mái tóc bạc của ông trắng
và xơ xác thêm nhiều. Thời gian của tuổi già thường có bước đi nhanh phát khiếp.
Nhưng bước đi của chính người già lại ngắn ngủn và chênh vênh. Ông đi đứng đã
khó khăn, Nói năng cũng chậm rãi hơn nhiều. Nhưng khi nói chuyện chữ nghĩa ông
như kiếm lại được nhiệt huyết tưởng như đã cạn héo từ lâu. Tôi có mang tặng ông
mấy cuốn sách của tôi. Ông run rẩy ôm chúng vào lòng rồi chậm rãi bày ra trên mặt
bàn. Ông rở rẫm từng cuốn, gục gặc đầu: “Bây giờ mà anh em còn in được sách như
vậy thì vui quá!”. Cả một đời người sống với sách vở. Viết và in. In sách của
ông và sách của bạn văn. Ngày còn ở Việt Nam, ông có nhà xuất bản Thời Mới.
Sách mới đích thực là cuộc sống của ông.
Rồi ông lại vào phòng trong.
Một lúc sau ông lập cập bước ra. Trên tay lại có một cuốn sách. Ông cầm rất gọn
gàng vì cuốn sách này nhỏ và mỏng hơn cuốn Tuyển Tập lần thăm trước ông mang ra
tặng tôi. Chỉ còn 184 trang. Khổ sách cũng nhỏ hơn. Cũng cái bìa có nền trời
màu xanh nhạt với những đám mây lững thững trôi, chữ “Võ Phiến” màu đen, chữ
“Cuối Cùng” màu đỏ. Chữ “Tuyển Tập” trên bìa cuốn sách dày cộm ông tặng tôi bốn
năm trước cũng màu đỏ. Hai cái bìa giống nhau tưởng như không có chi thay đổi.
Vậy mà có. Chữ “tuyển tập” như một thu vén văn nghiệp bề bộn của ông. Chữ “cuối
cùng” như một dấu chấm hết. Dứt khoát. Cái dứt khoát hết sức tội nghiệp. Ông đã
thu dọn đời ông sao? Đâu còn cái lạc quan trong từng chữ viết, từng lời nói của
ông. Anh em văn nghệ tới vấn an ông thường kháo với nhau một giai thoại. Bao giờ
cũng vậy, khi tiễn một người tới thăm ra về, ông cũng bắt tay chặt chẽ, gửi
theo một câu nói: “Đây là lần áp chót nghe!”. Với ông, không bao giờ có lần
chót. Vậy mà lần này ông cho in cuốn sách với cái tựa “Cuối Cùng”.Trong đoạn cuối
cùng của bài cuối cùng của cuốn “Cuối Cùng” ông hạ bút: “Nhưng sau sự sống,
con người – mọi người – đều sẽ có dịp gặp một sự nữa: là sự chết. Sự chết thì
sao? Liệu tự nó có biết chết một cách tử tế cho thiên hạ nhờ tí không? Tôi âm
thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta
không nên mè nheo đòi hỏi cho được vừa huýt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước
chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những bước thong thả, hững hờ. Đại khái
thế thôi. Và Tạo Hóa đã xếp đặt như thế”. Cuối bài ông ghi dấu: “Santa
Ana, 2009”.
Cũng năm 2009, một năm trước
ngày tôi thăm ông lần chót, cũng đúng ngày tết Kỷ Sửu 2009, ông đã ngậm ngùi:
Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã
rời
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời
là quen.
Thủ bút của nhà văn Võ Phiến
Cuốn “Cuối Cùng” được nhà xuất bản Thế Kỷ 21 in năm
2009, 6 năm trước ngày ông nhìn lại cuộc sống lần cuối cùng. Như vậy ông cũng
không có chi vội vã. Trong 6 năm đó ông lãng đãng sống. Khi nhớ khi quên. Không
biết ông có còn theo dõi được bước đi của thời gian nữa không. Ông có biết mình
đã ra đi không. Sáu năm không gặp ông, tôi chẳng biết chắc được chuyện chi.
Tôi tưởng tượng khi gặp Mai
Thảo, Nguyên Sa, Thảo Trường, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng ông có biết
mình đã đổi cõi không. Từ cõi có bằng hữu, ông về một cõi cũng có bằng hữu.
Thôi thì ta lại vãn chuyện chữ nghĩa. Ông ở cõi kia nhưng chữ nghĩa của ông vẫn
để lại cõi này. Cõi kia có chữ nghĩa không, tôi mù câm. Nhưng chắc là có. Nếu
không thì ông mất mát tới tận cùng.
Năm 1975, khi di tản qua Hoa
Kỳ, ông đi nhưng đã tính tới chuyện về.
Ra đi tuổi chẵn năm mươi,
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta
về.
Ngàn năm mây trắng lê thê.
Sáng nay, vừa thức dậy, nghe
tin ông về, tôi rút trong kệ sách ra hai cuốn sách ông tặng tôi, ngắm hai cái
bìa giống hệt nhau có những đám mây trắng trên nền màu xanh nhạt. Ngàn
năm mây trắng lê thê. Ông về thật rồi sao!
29/9/2015
No comments:
Post a Comment