Thứ Tư, ngày 30 tháng 9 năm 2015
Võ Phiến và tác giả, sông Loiret 1986
Sau khi mình chết
mà con cháu có làm tới quận công, sao bằng đang sống mà gặp được sự chung tình. (Võ Phiến)
*
Tạp chí Văn học (Cali) có lần đã đăng một tạp luận của
Võ Phiến : « Đối thoại về thịt cầy ».
Người quen đọc Võ Phiến sẽ ngạc nhiên : cái gì
vậy cà ? Xưa nay có bao giờ nghe Võ Phiến đòi đối thoại ? Hai chữ đối
thoại nó lơ láo trong từ vựng Võ Phiến. Và sao lại đối thoại về thịt cầy, một
món ăn mà ông chưa chắc đã sành ? Ông đã viết về thịt ếch, thịt rắn, thịt
rùa, có nghe chuyện thịt cầy bao giờ đâu ? Chắc là ông ngụ ý cái gì đây.
Tôi lại có dịp suy nghĩ thêm về tác phẩm Võ Phiến.
Ngày nay, chúng ta đang có gần đầy đủ tác phẩm Võ
Phiến qua bộ Toàn tập mà nhà xuất bản Văn Nghệ đã dần dà in ra từ nhiều năm
nay. Võ Phiến sử dụng nhiều thể loại, và qua các tập Tùy bút, Tiểu luận, ông đề
cập tới nhiều đề tài : cái ăn, cái mặc, cách nói, cách viết, cỏ cây, chim
cá, người ngợm ; trong văn học, ông viết về truyện dài, truyện ngắn, truyện
xưa, truyện nay, từ câu thơ tám chữ đến bài chòi. Lạ là ông chưa viết gì về món
hát bội, nay gọi là tuồng cổ, một thể loại đặc biệt của quê ông, như Tản Đà đã
có lần nhận xét : Tuồng Bình Định, rạp Phú phong. Sao lại có sự thiếu
sót đó ? Võ Phiến nhất định phải hiểu biết về tuồng, trong cái nôi văn thơ
của tuổi thơ, bằng cớ là có khi ông trích một đoạn tuồng dài của Tú Thận :
« Ãi ãi quan hầu nhập yết nhập yết… » trong truyện Về một xóm quê
(1957).
Suy nghĩ lang bang, tôi chợt nhớ đến truyện ngắn Trăng
lu của Lê Vĩnh Hòa được xây dựng trên một vở tuồng, Trảm Trịnh Ân. Lê
Vĩnh Hòa là em ruột Võ Phiến, theo kháng chiến từ thời chống Pháp rồi chống Mỹ.
Võ Phiến, thỉnh thoảng rời rạc đây đó, có nhắc đến em mình một cách gián tiếp,
như trong truyện Anh em (1957) « từ khi quê quán chúng tôi trải
qua những biến cố to lớn… thì em Tân tôi đã xử sự ra một người dân đầy trách
nhiệm. Nó mạnh dạn rời bỏ gia đình tham gia vào cuộc chiến đấu dài suốt mười
năm (…) Nó hết lao những mũi nhọn vào ngoại địch thì liền quay lại lao vào những
người đồng bào khác thành phần. Nó cất phương tiện chiến đấu thời loạn mà dùng
một phương tiện chiến đấu thời bình. Nói cách khác, nó làm văn sĩ, một văn sĩ
chiến sĩ. Nó viết những câu não nuột, ai oán về những cuộc sống bần hàn trong sạch
giữa một xã hội bẩn thỉu, nhớp nhúa. Nó thành hẳn ra một kẻ hiệp sĩ hào hoa của
thời đại đấu tranh giai cấp rồi.
Còn tôi (…) tôi cũng lìa bỏ gia đình ba má tôi,
nhưng không phải để tham dự vào một sự nghiệp cách mạng nào. » (« Anh
em » đăng trong Đêm xuân trăng sáng, nxb Nguyễn Đình Vượng, Sài gòn
1961, tr. 150, in lại trong Truyện ngắn 1, nxb Văn Nghệ, California 1987,
tr. 162, có lược bỏ một đoạn.)
Đoạn văn mỉa mai, chua chát mà vẫn đằm thắm. Hai nhà
văn anh em đã chọn những con đường khác nhau, vì đã có hai lối nhìn khác nhau về
cuộc sống. Tôi xin trở lại chuyện tuồng hát bội với một giả thuyết : Võ
Phiến chưa viết gì về hát bội vì nghệ thuật tuồng xa cách với nhãn giới
ông : tuồng là một nghệ thuật cách điệu – « dưới chân không ngựa cũng
ra roi » - và những nhân vật cường điệu, bị đẩy tới cực độ của cái tốt và
cái xấu : những Tần Cối hay Nhạc Phi, Tạ Thiên Lăng hay Khương Linh Tá đều
không xê dịch được trong không gian Võ Phiến trong đó « một con nhện
đu đưa ở đầu một sợi dây tơ thả lửng lơ giữa nhà. Một con ông bầu bay quẩn vài
vòng rồi chui vào cái lỗ khoét ở lòng trính. Một con chuột nhỏ, thấy im vắng chạy
ra đến giữa nền nhà, rồi ngập ngừng, đứng lại, quơ cái đuôi nhọn một cách e ngại.
Con nhện chạy quanh cây cột rình bắt con ruồi. Và bụi mọt lặng lẽ rơi lên mặt
chiếc phản gỗ ở phía chái nhà trên…và mỗi tiếng trở mình của tôi trên chiếu đủ
làm kinh động cả cái thế giới những con chuột con dán. » (Thư nhà,
nxb Thời Mới, Sài gòn 1962, tr.128. In lại trong Tùy Bút II, nxb Văn
Nghệ, California 1987, tr.100.) Thế giới ấy làm sao chịu nổi tiếng la hét “ãi
ãi quan hầu nhập yết nhập yết” của hí trường hát bội ? Và sân khấu tuồng cổ làm
sao dung dưỡng được “những nhân vật rầu rĩ lố lăng, không hứa hẹn một vinh
dự gì cho chỗ quê hương” ? (Thư nhà, câu cuối).
Có lẽ vì vậy mà chưa thấy Võ Phiến viết gì về hát bội
chăng ?
1. LẼ
SỐNG
Ta hãy đi xa hơn vào tư tưởng của tác giả Về
Đâu. Trong tập truyện Đêm xuân trăng sáng (1961) truyện ngăn “Lẽ
sống” mang cái tên tiêu biểu, kể cuộc đời một ông già, ông Bốn Tản – vì là người
tản cư – trôi giạt từ Quảng Nam vào Bình Định, một thời gian sống nhờ gia đình
người kể chuyện, rồi tấp sang những đứa cháu hờ, nhận ông là bác, để sai vặt
không công. Cuối cùng sống nhờ vào một cô gái điếm, già và nghèo, ông bị hàng
xóm phê phán “một ông già nhà quê tuổi trên tám mươi làm sao có thể đến ở
bên cạnh chứng kiến sự làm ăn của một người đàn bà giang hồ (…) Nó ngủ với
khách thì ông ta gác cửa. Đêm nào nó đi chơi thì ông già giữ nhà (…) cái ông
già này trời hành”. Kết cuộc, ông cụ chết thê thảm trong một tai nạn xe cộ, để
lại một bọc giấy. “Tôi lại mở gói giấy ra thì là hai chiếc quần lót và một
cái “xu-chiêng” đàn bà (…) Của con đĩ già, tôi gật đầu. Còn lại một ít máu phọt
từ chỗ sọ vỡ của ông Bốn Tản và mưa bay mây mù giữa đồng” (Truyện “Lẽ sống”
trong Đêm xuân trăng sáng, tr. 62, 73 và 74).
Chúng ta ghi nhận ở đây sự hoài nghi của Võ Phiến
trước những lý tưởng đạo đức và chính trị lớn lao, xa vời. Có những người chết
vì trung quân ái quốc, vì một lập trường, chính kiến, thì cũng có người chết
bên cạnh, chết với, chết vì một ít đồ lót của con đĩ già, và Lẽ sống của
họ dừng lại chỗ ấy. Các đạo lý, tôn giáo, chế độ chính trị tìm cách nâng cao lẽ
sống con người, nhưng đồng thời cưỡng ép con người khi phải nhón gót, khi phải
quì gối, khom lưng cho vừa với tầm thước một lý tưởng nào đó. Con người không
phải ai cũng có, hay có khả năng có, một lý tưởng ; đa số tìm thấy hạnh phúc
trong lẽ sống tầm thường nhất; “một ít đồ lót của con đĩ già” là một biểu tượng,
nó thô bạo vì nó trả lời lại một xã hội thô bạo, một giai đoạn lịch sử thô bạo,
một ý thức hệ độc tài đàn áp, trấn áp con người bằng những lý tưởng, lập trường,
quan điểm. Con người không phải ai ai cũng yêu nước. Thế mà tôi buộc anh phải
yêu nước; không phải yêu nước một cách tự nhiên, chung chung, mà bằng lập trường
giai cấp, trên quan điểm này, chỉ thị nọ, nghị quyết kia. Võ Phiến đã nêu lên vấn
đề tự do con người, trước những giáo điều nói chung, chứ không riêng gì với người
cộng sản. Nhưng người cộng sản cảm thấy bị va chạm và tổn thương nhiều nhất, vì
lập trường và vị trí độc tôn của họ. Và họ xúm vào xỉ vả Võ Phiến, gọi ông là
“biệt kích văn nghệ”; họ chửi bới hạ cấp mà không chính xác, nên vô hình trung,
làm quảng cáo cho Võ Phiến, biến ông thành một thứ lãnh tụ chống cộng, điều mà
ông vẫn mang ra chế riễu.
Truyện Lẽ sống đã đưa hình tượng đến lằn mức
giới hạn, để chúng ta có thể hiểu rằng : cuộc sống, tự nó, là lẽ sống. Không cần
tìm ý nghĩa cuộc sống ở đâu xa : sự sống, trong mỗi hơi thở của mỗi tế bào, đã
mang ý nghĩa của nó. Lịch sử trong giai đoạn khắc nghiệt đã lất át ý nghĩa đó,
nhưng không thể hủy diệt vì nó là cơ bản, là nhựa sống của nhân loại. Võ Phiến
đau đớn và chua cay, nhưng công bình và thân ái, đã nhận xét : “tiếc thay cuộc
tranh chấp lớn lao thường khi bị bắt buộc phải khuấy động đến cả những đời
sống hèn mọn, phải dùng đến những phương tiện nhỏ ấy, để làm ra cái lớn lao”
(Thư nhà, tr.148). Làm ra cái lớn lao ? Làm lịch sử là một cách… viết tắt –
chữ của Võ Phiến đấy !
Cái lớn lao và những cuộc đời nhỏ nhặt là một chủ đề
thường xuyên lảng vảng trong văn chương Võ Phiến. Truyện Về một xóm
quê bắt đầu bằng cái chết của một người anh : “Khi anh tôi đi chuyến
dân công cuối cùng, anh không cho giặt chiếc chiếu vẫn lót cho đứa cháu trai đầu
lòng mới mười ba tháng, anh muốn mang theo cả mùi nước tiểu của con để những
đêm nằm trên núi bớt nỗi nhớ con… Anh Hai tôi chết không có mồ, và cũng không
chắc được vùi đến ba tấc đất”. (Trong Đêm xuân trăng sáng, tr. 310).
“Chuyến dân công cuối cùng”… tác giả không xác định
thời điểm, nhưng người đọc đoán là chiến dịch Tây Bắc khoảng 1953-1954 đưa đến
chiến thắng Điện Biên Phủ. Chúng ta không bình luận về những mất mát trong chiến
tranh – họa sĩ Tô Ngọc Vân đã hy sinh trong chiến dịch này – mà chỉ ghi nhận
hình ảnh người công dân đi làm nhiệm vụ - thành tâm hay miễn cưỡng, có hay
không có ý thức công dân – đã mang theo mùi nước tiểu của đứa con thơ. Liệu những
nhà lãnh đạo chính trị sẽ đánh giá ra sao ? Dù sao những con người tầm thường ấy
– mà xã hội cho là thấp kém – lâu nay vẫn rầu rầu làm ra lịch sử với
một vẻ hững hờ, nhẫn nại –Thư nhà, tr. 149), nhưng lúc cần thì cũng phải
tàn bạo, như Bốn Thôi trong Thư nhà “tên địch đã bị bác ta đập một
báng súng vào đầu, tên ấy vẫn còn bị nằm đó” (tr.146). Tôi chạnh nhớ đến
truyện Đôi mắt (1947) của Nam Cao : “vô số những anh răng đen, mắt
toét, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh mà
lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm. Mà không hề bận tâm đến vợ con”. Dĩ
nhiên, những người ấy sẽ là những anh hùng dũng sĩ, họ được hưởng những vinh
quang mà đa số nhân vật Võ Phiến không bao giờ mơ tưởng. Nhưng có quả thật người
chiến sĩ của Nam Cao không hề bận tâm đến vợ con không ? Trên căn bản
người dân quê Việt nam có thật khác nhau như thế không ? hay chỉ có những lối
nhìn khác nhau về con người, những quan niệm khác nhau về Lẽ sống ?
2.
CHIM VÀ RẮN
Con người vươn tới một lý tưởng, giống như lực sĩ nhảy
sào, lấy trớn, bám vào cây sào, nhảy cao, càng cao càng hay, mà không còn suy
nghĩ gì nữa : con người có lý tưởng khi lao vào trận tuyến, e cũng đến thế
thôi. Nhưng trước đó, hay sau đó, nhất định họ đã suy nghĩ, phân biệt cái tốt
và cái xấu, điều đúng với điều sai. Nếu họ không suy nghĩ sâu xa, thì sẽ có người
làm giúp, viết thành những cương lĩnh lý thuyết tràng giang. Nói chung lý tưởng
là một hiện tượng xã hội, dần dà điều kiện hóa con người ; nó là ý thức chủ đạo
– conscience dominante – theo lời người mác-xit ; nó là “đại học chi đạo” trong
xã hội Khổng giáo. Nhưng khi xã hội điên đảo thì tư tưởng chủ đạo cũng lung
lay. Chúng ta còn nhớ chuyện thời chúa Trịnh, Lê Duy Mật khởi loạn, bắt được Phạm
Công Thế và hỏi “Ông là người khoa bảng, sao lại theo nghịch ?” Thế cười trả lời
“Lâu nay danh phận không rõ, lấy gì phân thuận nghịch ?” Hoặc lời nói của Nguyễn
Trang khi lừa bắt được chúa Trịnh Khải nộp cho Tây Sơn” Sợ thầy không tày sợ giặc,
quí chúa không bằng quí thân”.
Đất nước Việt Nam đã chịu đựng những trận chiến
tranh ghê gớm. Ngày nay, có kẻ đã tổng kết số bom đạn trút xuống làng mạc chúng
ta. Có ai tính sổ được những tang tóc, mất mát, thù hận trên đất nước ? Ngày
nay, những chính nghĩa đốp chát nhau chan chát, còn những vết thương đang âm thầm
nhức nhối có bao nhiêu nhà văn chịu lắng nghe, bên ngoài những gào thét thị phi
?
Những đau thương câm lặng của người dân vô tội, được
Võ Phiến gói ghém trong một truyện ngắn. Chim và rắn (1967), đăng ở tạp
chí Bách Khoa (số 265-266 ngày 15-01-1968). Khi xin phép xuất bản, truyện đã bị
kiểm duyệt của Sài Gòn thời đó gạch xóa rất nhiều – dường như là tác phẩm Võ
Phiến bị kiểm duyệt chiếu cố nhiều nhất (Bách Khoa (phỏng vấn) số 302 ngày
11-08-1969), in lại trong Tạp bút, nxb Văn Nghệ, California 1989, tr.
408). Truyện kể lại những tàn phá của chiến tranh trên cuộc đời của chị Bốn
Chìa Vôi, một phụ nữ nông thôn trong một làng xôi đậu ở miền Trung, “một người
nghèo rớt mồng tơi, nhà dột cột xiêu, một chị đàn bà lôi thôi lếch thếch vú bỏ
lòng thòng… Chị kiếm củi, mò cua, bắt ốc, lúc ở mép suối, lúc ven rừng ven đồi”.Nhờ
vậy mà chị có thể vừa làm bạn với Chim, vừa làm bạn với Rắn, trong khi loài người
thích chim mà sợ rắn. Chồng bị bom chết, chị gả con gái cho một hạ sĩ quốc gia,
tiệc cưới gần tàn thì bị ném lựu đạn, “anh hạ sĩ chết ngay tại chỗ, còn chị Bốn
Chìa Vôi thì đứt đi nửa ống chân, khắp người lỗ chỗ đều có mảnh lựu đạn
ghim “dân làng đồn rằng chính đứa con trai chị Bốn theo “lực lượng” đã ném
lựu đạn để trừng phạt người em gái lấy lính ngụy. Chị được chữa chạy tại tỉnh lỵ,
có khả năng tìm việc làm tại thành phố, nhưng rồi vẫn về quê. “
“Chị trở về làng làm gì ? chị đã mất một người chồng,
một đứa con rể ở làng. Một đứa con gái dở dang và một đứa con trai thất lạc.
Như vậy không đủ ê chề rồi sao ? chị còn trở về làng làm gì với thân hình thủng
nhiều vết và với cặp nạng ? Để có thể thản nhiên trở về chỗ tử địa, chỗ sấm sét
ấy, con người phải được hướng dẫn bởi một thứ tình cảm mãnh liệt, không biết là
thứ tình cảm gì tốt hay xấu, nhưng nó phải thật sự mãnh liệt. “Chị về
không phải vì tình yêu làng mạc, không phải như Thập Tam trong Thư
nhà ngày áp Tết về làng để nghe tiếng gà gáy hay chó sủa. Chị Bốn Chìa Vôi
về làng là để trả thù. “Có người nói chị bây giờ như con hổ thọt, chị
dữ tợn vô song. Thằng Bướm bị phục kích hai lần, đều do chị mách. Ba Thiên cho
vợ về quy chánh (…) chị Bốn Chìa Vôi cứ lồng lên : nó mang nợ với đồng bào nhiều
quá lắm. Nó phải trả. Hồi chánh thế nào được (…). Lấy oán báo oán,
oán oán chập chồng. Biết bao giờ gỡ cho xong. Nhưng họ say rồi, họ bị hút vào
cơn lốc…”
Chim và Rắn ngoài những đặc sắc riêng, còn tổng
hợp được nhiều ý tưởng và phong cách Võ Phiến. Ở đây, tôi chỉ ghi lại hai điểm
: cái nhìn tương đối của tác giả đối với cái tốt, cái xấu. Người kể chuyện
“tôi” nâng niu một cánh hoa lan vì “một vết trắng trên lá lan” mà ông tưởng là
phân chim : lòng vẫn tiềm tàng một niềm khao khát nhớ nhung. Bỗng nhiên gặp
một giọt phân chim, niềm vui bừng dậy. Nhưng vài hôm sau mới biết đó là phân một
chú thạch sùng, một loài bò sát như rắn, sự ngộ nhận không thể tha thứ
được, một sai lầm nham nhở, bẽ bàng.
Cái tốt với xấu, chính với tà, chân với ngụy, có lúc
cũng như “một vết trắng trên lá lan” – phân chim hay là phân rắn. Nhưng điều
nguy hại – điểm thứ hai – là nó đã đưa đến hận thù, đã biến một phụ nữ chất
phác, hồn nhiên như chị Bốn Chìa Vôi thành một con vật chính trị hung bạo, “một
con hổ thọt, dữ tợn vô song, đứng về phe nhất định đòi nợ”. Và Võ Phiến, từ
1967 đã bày tỏ một ưu tư lớn về dân tộc, một ưu tư chính đáng, ngày nay, hiện
giờ đang dày vò, hành hạ lương tâm người Việt chúng ta.
“Mai sau, khói lửa với quằn quại chấm dứt, nhưng cái
nét tàn nhẫn nọ rồi có sẽ lưu lại như một di tích trong tâm hồn chị và những
người như chị , lưu lại như một thêm thắt vào cái vốn các đặc tính truyền thống
của dân tộc chăng ? (…) Chém giết lọc lừa suốt một phần tư thế kỷ, như thế liệu
có thành một tập quán sinh hoạt gây một tệ hại tâm lý ?”
Chúng ta vốn tự hào về truyền thống dân tộc. Nay
truyền thống ấy được thắt thêm một cái gút hận thù. Nên tự hào thêm chăng ? Tôi
bâng khuâng nhớ đến ông Bốn Tản trong truyện Lẽ sống ở đầu bài này, một
ông già nhà quê trên 80 tuổi … còn lại một ít máu phọt từ chỗ sọ vỡ … một ít đồ
lót của con đĩ già…
Lẽ Sống của ông già nhà quê, chắc gì đã nhảm
nhí? Và “mưa bay mây mù giữa đồng”
Tôi lạc đề rồi. Nay xin trở lại với đề bài. Nghe Võ
Phiến đòi “đối thoại về thịt cầy”, mình bèn ham, muốn thừa gió bẻ măng, đối
thoại với Võ Phiến một mách, về một món ăn mà mình có nhiều hy vọng sành hơn
ông ta. Nhưng nghĩ mãi không ra ý. Nghiệm cho cùng, ăn vẫn dễ hơn là viết.
Thịt cầy, người ta ăn hay không ăn, thích hay không
thích, chẳng có gì phải đối thoại. Dù cho thi hào Nguyễn Du có thích thịt cầy,
hay người Mỹ, đỉnh cao của văn minh công nghiệp, có không chấp nhận thịt cầy
như Võ Phiến đã ra công trình thuyết, thì cũng không ảnh hưởng gì đến mùi vị một
món ăn. Đối thoại về thịt cầy nghĩa là… không đối thoại gì cả. Nghĩa là tắc tị
! Như những lời qua tiếng lại về văn học, về chính trị hiện nay. Ông Ba Thê Đồng
Thời thế mà thâm.
Sống, chó được phân chia thành nhiều loại, đẳng cấp
phân minh. Chết, chỉ còn lại hai loại: chết có ích, chết trên mâm cơm, để bồi
dưỡng cho nhân loại tiến bước, vươn lên lý tưởng, chết như vậy là cầy. Còn chết
bình thường, dù cho mồ yên mả đẹp, vẫn là chó; chó chết còn tệ hơn chó sống. Gọi
nhau là “đồ chó” đã là tệ, chửi là “quân chó chết” còn nặng nề hơn. Cái đạo lý
của con người, kể ra cũng sơ lược.
Chiều cuối năm. Nhớ bạn hiền. Mùa đông chiều xuống sớm.
Chưa thèm rượu mà đèn đường đã sáng. Nhớ xa xôi. Nhớ một câu văn Võ Phiến không
biết đọc ở đâu. Có thể không phải Võ Phiến. Chỉ đơn giản thế này thôi :
“Trời ! một ngọn đèn vàng cạch tầm thường khuất lấp
trong một cái thường nhật vô danh như thế, vẫn sáng đâu đó nơi chàng suốt ba
mươi năm (…)
“Chiều vẫn còn mưa bay nửa trời, những con én chiều
bay lẻ đã lặn mất vào bóng tối…”.
Chiều nay 28 -9 -2015, ngọn đèn đã tắt.
Và con én chiều bay lẻ đã vĩnh viễn lặn mất vào bóng
tối.
Đặng
Tiến
Viết 1991, cập nhật cho ngày tang Võ Phiến
Orléans, 29-9-2015
Phụ chú :
Sinh thời Võ Phiến đã tâm đắc với bài này, nên chọn
in lại trong tác phẩm Đối thoại (nxb Văn Nghệ, California, 1993) với
ghi chú trong phần phụ lục : “thiên bút ký của nhà phê bình văn học Đặng Tiến
, nhân một bài văn mà nhìn lại một đời viết lách, nhận định sâu sắc, lời lẽ
thấm thiết : những suy tưởng, thuyết luận trong phong cách một bài thơ “
(tr. 125).
No comments:
Post a Comment