Lane
Kenworthy
Trần
Ngọc Cư dịch
Tháng 2 5, 2014
Dẫn
nhập của người dịch
Dân chủ xã hội đã được giới thiệu nhiều lần trên
talawas và pro&contra, nhưng phần lớn tập trung vào các mô hình dân chủ xã
hội Bắc Âu. Trong tiểu luận sau đây, Lane Kenworthy phác họa một hành trình
chậm rãi nhưng vững chắc của Hoa Kỳ trên con đường tiến tới một tương lai dân
chủ xã hội. Theo tiên đoán của Kenworthy, tương lai này sẽ nằm ngay trong thế
kỷ 21 và “không cực kỳ khác xa hiện tại”, mà chỉ “trở thành một phiên bản tốt
hơn của chính mình hiện nay”.
Nền kinh tế hậu công nghiệp đặt cơ sở trên công nghệ
thông tin và toàn cầu hóa đã tác động mạnh lên xã hội Mỹ. Việc đưa các cơ sở
sản xuất ra nước ngoài và sự chuyển đổi ráo riết từ một nền kinh tế chế tạo
sang kinh tế dịch vụ đã gây xáo trộn chóng mặt cho giai cấp công nhân, kể cả
công nhân da trắng. Khủng hoảng này đòi hỏi một loạt chương trình xã hội nhằm
giúp giới công nhân điều chỉnh lại nghề nghiệp và tái tham gia nền kinh tế mới.
Một thuộc tính khác của kinh tế hậu công nghiệp là
tình trạng bất bình đẳng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Kể từ thập niên 1970,
lợi tức của một thiểu số rất nhỏ ở những nấc thang kinh tế cao nhất đã tăng lên
nhiều lần, trong khi lợi tức của giai cấp trung lưu và thấp hơn, nhích lên
không đáng kể. Lời than phiền được nghe nhiều nhất gần đây là, một phần trăm
dân số Hoa Kỳ gồm những người giàu nhất đang nắm trong tay 23 phần trăm của cải
cả nước.
Cuộc nổi dậy của Phong trào Chiếm phố Wall năm 2012
là một cảnh báo về khả năng một cuộc xung đột giai cấp và khủng hoảng xã hội có
thể diễn ra . Để chặn đứng khả năng này từ trong trứng nước, dân chủ xã hội sẽ
là một đồng thuận tất yếu giữa cánh Hữu và cánh Tả của chính trị Mỹ.
*
Bài
liên quan:
________
Từ tháng Ba 2010, khi Tổng thống Mỹ Barack Obama phê
chuẩn Dự luật Cải tổ Y tế, đạo luật này đã nằm ở vị trí trung tâm của chính trị
Mỹ. Các nhà hoạt động trong phong trào Tiệc Trà [i] và các đồng minh của họ trong Đảng Cộng hòa đã cố
gắng gần như bằng mọi cách để ngăn chặn luật này. Hạ viện Mỹ do Đảng Cộng hòa
kiểm soát đã biểu quyết hơn 40 lần nhằm hủy bỏ hay cắt giảm ngân sách thực thi
nó, và tháng Mười vừa qua Hạ viện đã cho phép chính phủ liên bang đóng cửa một
phần trong một toan tính nhằm chặn đứng hay trì hoãn việc thực thi luật này.
Cuộc tranh luận xoay quanh Luật cải tổ Y tế chưa có dấu hiệu sớm chấm dứt.
Obamacare, như luật này thường được gọi, là cải tổ
hệ thống y tế Hoa Kỳ có ý nghĩa nhất trong nửa thế kỷ nay. Mục đích của nó là
gia tăng số người Mỹ có bảo hiểm y tế, cải tiến phẩm chất các chương trình bảo
hiểm y tế, và làm chậm bớt mức gia tăng các chi phí y tế. Nhưng cuộc tranh cãi
về đạo luật không chỉ giới hạn trong chính sách y tế, và tính cách gay gắt của
cuộc xung đột không chỉ do sự phân cực đảng phái gây ra. Obamacare đã trở thành
chiến trường chính trong một cuộc chiến đang tiếp diễn giữa phe phóng khoáng
(liberals) và phe bảo thủ (conservatives) về tầm vóc và phạm vi hoạt động của
chính phủ Hoa Kỳ, một tranh chấp có gốc rễ từ cuộc Khủng hoảng Kinh tế
1929-1930 và chính sách New Deal (Tái Phân phối).
Những người phản đối các sáng kiến của Franklin
Roosevelt đã phải im tiếng khi các cải tổ của chính sách New Deal trở thành
định chế dưới thời Truman và Eisenhower, và nhà nước phúc lợi Hoa Kỳ đã tiến
thêm một bước nhảy vọt nữa dưới thời Lyndon Johnson, mà nghị trình Đại Xã hội
(Great Society) của ông đã nới rộng trợ cấp công cho người nghèo và tạo ra các
chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ điều hành, đó là Bảo hiểm y tế
cho người nghỉ hưu (Medicare [ii]) và Trợ giúp y tế cho người nghèo (Medicaid [iii]). Nhưng những thập niên sau đó ít thấy những bổ
sung quan trọng, mà còn gặp phải một số thất bại đáng kể, chẳng hạn thất bại
của Tổng thống Bill Clinton trong nỗ lực cải tổ y tế năm 1994.
Việc thông qua Obamacare đã gây nhiều tranh cãi, một
phần vì nó có vẻ báo hiệu một giai đoạn mới trong xu thế trực tiếp thay đổi xã
hội của chính phủ (government activism), khiến một số nhân vật bảo thủ chống
đối nó như một bước ngoặt khuynh tả có tính quyết định, không gì lay chuyển
được. “Chính vì Luật Cải tổ Y tế thể hiện giấc mơ dài nửa thế kỷ của phe phóng
khoáng”, bình luận gia bảo thủ Peter Wehner gần đây đã viết trong The Weekly
Standard, “nếu luật này thất bại, đó sẽ là một đòn chí mạng không những
đánh vào Barack Obama mà còn đánh vào bản thân chủ nghĩa phóng khoáng Mỹ
(American liberalism). Vì sao? Vì trong nhiều cung cách Obamacare là hiện thân,
là hình mẫu lý tưởng, của chủ nghĩa phóng khoáng hiện đại. Điều này được phản
ánh trong những yếu tố mang tính cưỡng chế, trong sự tin tưởng cực kỳ cao độ
vào các giải pháp kỹ trị (technocratic solutions), trong tham vọng tập trung
hóa tiến trình làm quyết sách, và trong tín lý cho rằng chính phủ biết hết mọi
điều.”
Những tranh luận cơ hồ báo hiệu ngày tận thế này
phần lớn đã cường điệu quá đáng ý nghĩa thực tế của Obamacare. Nhưng đồng thời
chúng cũng làm lu mờ một thực tế đáng chú ý hơn, đó là luật cải tổ y tế này
tiêu biểu thêm một bước nữa trong cuộc hành trình lâu dài, chậm chạp, nhưng
vững chắc, xa dần nhà nước tư bản phóng khoáng cổ điển (the classical liberal
capitalist state) và hướng tới một phiên bản dân chủ xã hội đặc thù Mỹ. Khác
với Bắc Âu chẳng hạn, nơi mà thể chế dân chủ xã hội đã được thực thi một cách
nghiêm chỉnh và toàn diện bởi các phong trào chính trị có ý thức rõ ràng mình
đang theo đuổi một ý hệ, tại Hoa Kỳ một mạng lưới an toàn xã hội khiêm nhượng
và có tính cách chắp vá hơn được đan kết lại bởi các nhà chính trị và các nhà
kỹ trị thực tiễn (pragmatic politicians and technocrats) trong khi họ tìm cách
giải quyết từng vấn đề riêng lẻ. Các thế lực hùng hậu sẽ tiếp tục chống lại
những nỗ lực này, và do đó các chính sách bảo hiểm xã hội sẽ xuất hiện từ từ
hơn, ít phổ quát hơn, ít hiệu năng và ít hiệu lực hơn so với trường hợp không
gặp sự chống đối vừa nói. Nhưng những người chống đối này đang tham dự một trận
đánh mà họ nắm phần thua và chỉ có thể làm chậm lại cũng như làm méo mó kết quả
sau cùng chứ không chặn đứng được nó. Nhờ một sự kết hợp gồm đòi hỏi của đại
chúng, yểm trợ hậu cần của giới kỹ trị, và của cải quốc gia tăng dần lên, dân
chủ xã hội là tương lai của Hoa Kỳ.
CÁC
MÔ HÌNH BẮC ÂU
Thể chế dân chủ xã hội phát sinh vào đầu thế kỷ 20
như một chiến lược để cải thiện chủ nghĩa tư bản chứ không nhằm thay thế nó.
Ngày nay, người ta thường liên hệ thể chế dân chủ xã hội với các đảng dân chủ
xã hội và các chính sách mà những đảng này đã thiết định được, đặc biệt tại các
nước Bắc Âu như Đan Mạch và Thụy Điển. Trong quá trình nửa thế kỷ tới, một loạt
chương trình xã hội được chính phủ liên bang Hoa Kỳ đưa ra sẽ ngày càng giống
những chương trình do các nước đó đưa ra.
Ngày nay, tiên đoán này có một nội hàm khác hẳn với
nội hàm mà nó có thể gợi ra cách đây chừng một thế hệ, khi nhãn hiệu “dân chủ
xã hội” có nghĩa hạn hẹp là những chính sách giúp người dân sống qua ngày dễ
dàng mà ít dựa vào hoặc khỏi cần dựa vào đồng lương kiếm được. Trong những thập
niên 1960 và 1970, việc thực thi dân chủ xã hội chủ yếu chỉ là duy trì một mạng
lưới an toàn công cộng rộng lớn. Ngày nay, đó là một quan niệm quá hẹp hòi.
Trong những thập niên gần đây, các nước Bắc Âu đã bổ túc các chương trình xã
hội hào phóng của mình bằng các dịch vụ nhằm tạo công ăn việc làm và gia tăng
năng suất: các chương trình được chính phủ tài trợ như nhà giữ trẻ, trường mầm
non, trung tâm dạy nghề và văn phòng tìm việc, các dự án hạ tầng quan trọng, và
hỗ trợ của chính phủ dành cho việc nghiên cứu và phát triển trong khu vực tư.
Đồng thời, các chính phủ Bắc Âu cũng chấp nhận một đường lối điều tiết kinh tế
thân thiện với thị trường. Mặc dù các chính phủ này vẫn duy trì các luật lệ bảo
vệ công nhân, người tiêu thụ, và môi trường, nhưng họ quân bình được những biện
pháp bảo vệ này với một hệ thống có khả năng khuyến khích óc kinh doanh và tính
linh động bằng cách tạo điều kiện dễ dàng cho việc mở hay đóng một công ty,
việc thuê mướn hay đuổi nhân viên, và việc điều chỉnh số giờ làm việc.
Đi tiên phong tại những nước Bắc Âu, dân chủ xã hội
hiện đại ngụ ý một sự cam kết sử dụng rộng rãi chính sách chính phủ để thúc đẩy
an ninh kinh tế, mở rộng cơ hội, và đảm bảo mức sống ngày càng cao cho tất cả
mọi người. Nhưng nó thực hiện mục tiêu này trong khi vẫn đảm bảo tự do kinh tế,
tính linh hoạt kinh tế, và tính năng động thị trường, tất cả những điều này từ lâu
vốn là thương hiệu (hallmarks) của nền kinh tế Hoa Kỳ. Kinh nghiệm của các nước
Bắc Âu chứng minh rằng một chính phủ có thể kết hợp thành công tính linh hoạt
kinh tế với an ninh kinh tế và nuôi dưỡng công bằng xã hội mà không gây trở
ngại cho việc cạnh tranh. Dân chủ xã hội hiện đại cống hiến những điều tốt đẹp
nhất của hai thế giới.
Tuy nhiên, những người quan niệm rằng Hoa Kỳ có thể
gia tăng hơn nữa tầm cỡ và phạm vi hoạt động của nhà nước phúc lợi có lẽ đã
không nhận ra thực tế của chính trị Mỹ đương đại. Nhưng ta thử lùi lại một bước
để cân nhắc con đường về lâu về dài. Bài học của một trăm năm qua cho thấy
rằng, khi Hoa Kỳ càng giàu có hơn, người Mỹ lại càng muốn chi tiêu thêm ngân
sách để tạo bảo hiểm chống lại rủi ro kinh tế và gia tăng công bằng xã hội.
Những tiến bộ trong chính sách xã hội chỉ có thể đến từng đợt thất thường,
nhưng chúng vẫn thực sự diễn ra. Và một khi chúng đến, chúng thường tồn tại lâu
dài.
Xu thế này có thể sẽ tiếp diễn. Các nhà làm chính
sách Hoa Kỳ sẽ nhận ra lợi ích của một vai trò chính phủ rộng lớn hơn trong
việc theo đuổi an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và mức sống ngày càng đi lên
và sẽ cố gắng đưa nước Mỹ đi theo chiều hướng đó. Thông thường, họ sẽ thất bại.
Nhưng đôi khi, họ sẽ thành công. Tiến bộ sẽ gia tăng, dù xảy đến từng đợt thất
thường, như từng diễn ra trong quá khứ. Các chương trình mới và các dạng triển
khai những chương trình hiện có thường sẽ tồn tại lâu dài, vì những chương
trình hoạt động tốt sẽ trở nên thịnh hành và vì tiến trình hoạch định chính
sách của Hoa Kỳ thường làm cho những kẻ chống đối các chương trình xã hội khó
có thể tháo dỡ chúng. Những bước ngắn và thỉnh thoảng có bước nhảy vọt dài,
cộng với những bước thụt lùi có giới hạn, sẽ mang lại một kết quả tích lũy làm
gia tăng đáng kể diện rộng và tính hào phóng của những chương trình xã hội do
chính phủ điều hành.
Đây không phải là một tiên đoán về thời điểm hay các
điều kiện theo đó các tiến bộ chính sách cụ thể sẽ diễn ra. Đây chỉ là một giả
thuyết về một tiến trình mang tính xác suất (a probabilistic process). Về lâu
về dài, thỉnh thoảng chính phủ sẽ tạo thêm các chương trình mới và mở rộng các
chương trình hiện có, và những chương trình mới và những dạng triển khai này
chắc chắn sẽ không bị đảo ngược.
NHỮNG
BẤT CẬP
Để hiểu lý do tại sao Hoa Kỳ đang ở trên đường tiến
tới dân chủ xã hội, ta phải nhìn nhận thực tế là, mặc dù Mỹ là một nước giàu –
và trong nửa thế kỷ tới, nước này thậm chí sẽ còn giàu hơn nữa – nhưng nó vẫn
chịu những suy yếu kinh tế nghiêm trọng. Đây là những vấn đề tiềm ẩn; mặc dù
những vấn đề này đã trở nên tồi tệ thêm do cuộc Đại Suy thoái vừa qua và do
kinh tế phục hồi yếu ớt, nhưng chúng vốn đã tồn tại trước khi nước Mỹ gặp phải
những khó khăn kinh tế gần đây.
Một là, Hoa Kỳ không đảm bảo đủ an ninh kinh tế cho
người dân của mình. Quá nhiều người Mỹ có lợi tức thấp đến nỗi họ phải phấn đấu
rất chật vật mới đủ sống qua ngày: 25 triệu hộ gia đình ở đáy thang lợi tức,
chiếm một phần năm dân số, chỉ có lợi tức trung bình là 18.000 USD một năm. Quá
nhiều người Mỹ đang trải qua những sút giảm lợi tức to lớn: mỗi năm, khoảng một
phần bảy số hộ gia đình tại Hoa Kỳ bị giảm sút từ 25 phần trăm lợi tức hàng năm
hay nhiều hơn. Quá nhiều người Mỹ không có bảo hiểm y tế: ngay cả khi Obamacare
được thực thi đầy đủ, vẫn còn từ năm đến mười phần trăm công dân Hoa Kỳ không
có bảo hiểm, một con số cao hơn khá xa so với bất cứ quốc gia giàu có nào khác.
Sau cùng, quá nhiều người Mỹ gần đến tuổi nghỉ hưu mà tiền dành dụm thì ít ỏi
và lương hưu thiếu hụt: tiền tiết kiệm hộ gia đình trung bình, như một phần lợi
tức hộ gia đình có thể tiêu xài được, đã rơi từ mười phần trăm trong thập niên
1970 xuống chỉ còn ba phần trăm trong thập niên đầu thế kỷ này; mặc dù một số
công ty có kế hoạch hưu trí với số tiền nhân viên đóng góp được qui định rõ
ràng, nhưng nhiều người đã đóng góp rất ít hoặc rút tiền ra quá sớm, và vụ vỡ
bong bóng địa ốc vừa qua đã xóa sạch cái tài sản duy nhất của nhiều chủ nhà
trung lưu.
Hai là, nước Mỹ không giữ được lời hứa về cơ hội
đồng đều. Hầu hết phụ nữ và nhiều người Mỹ gốc châu Phi hiện nay có cơ may tốt
đẹp hơn trước nhiều để theo đuổi một trình độ giáo dục cao và thành công trong
thị trường lao động so với các bậc cha anh của mình một thế hệ trước đây. Nhưng
câu chuyện về người Mỹ lớn lên trong cảnh nghèo nghe ra không được phấn khởi
bao nhiêu. Trong số những nước giàu với dữ liệu thống kê đầy đủ, Hoa Kỳ ở vào
một trong những nấc thấp nhất về sự thăng tiến lợi tức từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Một người Mỹ sinh ra trong một gia đình thuộc một phần năm dân số ở
đáy thang lợi tức trong giai đoạn từ giữa thập niên 1960 đến giữa thập niên
1980 có khoảng 30 phần trăm cơ may vươn tới một phần năm dân số thuộc giai cấp
trung lưu hay cao hơn khi đến tuổi trưởng thành; trong khi đó, một người Mỹ
sinh ra trong một phần năm dân số ở các nấc thang lợi tức cao nhất có khoảng 80
phần trăm cơ may gia nhập một phần năm dân số thuộc giai cấp trung lưu hay cao
hơn. Ngoài ra, những thập niên gần đây đã chứng kiến những gia tăng lớn trong
khoảng cách giữa điểm thi và tỉ lệ tốt nghiệp đại học của con cái những gia
đình có lợi tức thấp và con cái những gia đình có lợi tức cao, và khoảng cách
này có khả năng sẽ phản ánh trong doanh lợi hay thu nhập của họ khi đến tuổi
trưởng thành.
Ba là, quá ít người Mỹ được chia sẻ sự phồn vinh mà
nước họ đã hưởng trong những thập kỷ gần đây. Trong một xã hội tốt đẹp, những
thành phần ở giữa và ở đáy thang lợi tức phải được hưởng lợi lộc đáng kể từ
tăng trưởng kinh tế quốc gia. Khi đất nước thịnh vượng, thì mọi người phải được
phồn vinh. Nhưng từ thập niên 1970, mặc dù kinh tế tăng trưởng vững chắc, nhưng
thu nhập của những hộ gia đình trung lưu và thấp hơn đã tăng lên rất chậm so
với những hộ gia đình thuộc giai cấp thượng lưu. Theo những ước tính mà Văn
phòng Ngân sách Quốc hội [một cơ quan độc lập không đảng phái] đưa ra để giải
thích mức lạm phát, mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình thuộc một phần
trăm dân số ở chóp bu đã bay bổng từ 350.000 USD năm 1979 lên 1,3 triệu USD năm
2007. Đối với 60 phần trăm dân số ở phía đáy, mức tăng lợi tức hoàn toàn khiêm
nhượng: từ 30.000 USD lên 37.000 USD [trong khoảng thời gian 30 năm vừa nói].
Những bất cập này một phần do các thay đổi trong
kinh tế toàn cầu gây ra, đặc biệt là sự cạnh tranh ngày càng gia tăng mà các
hãng của Hoa Kỳ phải đối diện. Các công ty Mỹ bán hàng hóa hay dịch vụ trên thị
trường quốc tế đang đối đầu với những địch thủ nước ngoài có khả năng hơn trước
rất nhiều. Các công nghiệp trong nước cũng gặp nhiều cạnh tranh với nhau hơn,
khi những tiến bộ công nghệ, giá xây cất và chuyên chở rẻ hơn, và việc nới lỏng
các luật lệ điều tiết kinh tế hạ thấp những rào cản đối với việc tham gia thị
trường. Hơn nữa, các cổ đông ngày nay muốn giá trị cổ phần tăng nhanh. Trong
khi một thế hệ trước đây, người đầu tư vào một công ty có thể hài lòng vì được
trả tiền lời đều đặn và giá cổ phần của công ty tăng lên phần nào trong dài
hạn, thì ngày nay họ đòi hỏi lợi nhuận tăng lên từng quí [ba tháng một] và giá
cổ phần thường xuyên tăng trưởng.
Những thay đổi này có lợi cho người đầu tư, người
tiêu thụ và một số nhân viên. Nhưng chúng khuyến khích các công ty chống lại
việc tăng lương, bỏ các chương trình bảo hiểm y tế, cắt giảm tiền đóng góp vào
quĩ hưu của nhân viên, di dời ra nước ngoài, cắt giảm nhân sự, và thay thế nhân
viên thường trực bằng nhân viên tạm thời – hay bằng máy điện toán. Những chiến
lược cắt giảm chi phí như thế rốt cuộc làm suy yếu an ninh kinh tế, hạn chế cơ
hội đối với giới lao động thiếu kỹ năng, và giảm mức tăng trưởng lợi tức đối
với nhiều người Mỹ bình thường – những xu thế này chắc chắn còn tiếp tục đi vào
một tương lai có thể thấy trước. Trong những thập niên tới, một số người Mỹ
đông đảo hơn sẽ mất việc, sẽ làm việc qua những thời gian dài mà không được
tăng lương, sẽ làm việc bán thời gian hay vào những giờ giấc thất thường, sẽ
không có chương trình hưu trí do công ty bảo trợ hay bảo hiểm y tế.
Một số người cho rằng phương cách hay nhất để đối
phó những sức ép và căng thẳng của nền kinh tế mới là củng cố gia đình, các tổ
chức công dân, và các công đoàn. Đó là những tiêu chí đáng ca ngợi. Nhưng trong
nửa thế kỷ qua những định chế này liên tục trở nên suy yếu. Mặc dù những người
chủ trương mang lại sức sống cho chúng đưa ra nhiều hi vọng, nhưng họ cho thấy
quá ít bằng chứng về sự thành công.
Một thế lực chính trị tạiWashingtonủng hộ một giải
pháp khác: thu nhỏ vai trò của chính phủ liên bang. Theo quan điểm này, giảm
thuế và giảm chi tiêu của chính phủ sẽ cải tiến hiệu năng, hạn chế lãng phí, và
gia tăng các phần thưởng khuyến khích đầu tư, kinh doanh, và sự hăng hái làm
việc, do đó dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh chóng hơn. Nhưng đường lối này
đặt cơ sở trên ý niệm sai lầm là sự lớn mạnh của chính phủ sẽ hạn chế sự tăng
trưởng của khu vực tư. Qua quá trình một thế kỷ nay, Hoa Kỳ đã từng bước nới
rộng chi tiêu của chính phủ, từ 12 phần trăm GDP năm 1920 đến 37 phần trăm năm
2007. Suốt gian đoạn này, đà tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ vẫn bền vững rất
ngoạn mục. Các bằng chứng khác từ nước ngoài cũng cho thấy: trong số những nước
giàu, những nước mà thuế và chi tiêu chính phủ đều cao có xu thế tăng trưởng
nhanh chóng y hệt như những nước mà chính phủ đóng vai trò nhỏ bé hơn. Hơn nữa,
thậm chí nếu việc giảm thuế và giảm chi tiêu của liên bang có thực sự đưa đến
tăng trưởng nhanh hơn chăng nữa, thì lịch sử của mấy thập niên qua vẫn cho thấy
rằng sự tăng trưởng ấy không mang lại lợi ích bao nhiêu cho người Mỹ trung lưu
hay giai cấp kinh tế thấp hơn.
Một phản ứng khả thể khác đối với tình trạng này là
nhe răng cười chịu đựng. Theo quan điểm này, gần như không ai có thể làm được
gì để cải thiện những hậu quả xấu của nền kinh tế hiện đại, vì thế hành động
khôn ngoan nhất của người Mỹ bình thường là phải điều chỉnh những kỳ vọng của
mình cho phù hợp với thực tế để tiếp tục sống. Nhưng Hoa Kỳ có thể làm một cái
gì tốt đẹp hơn thế – và đường lối tốt đẹp nhất để đối phó những bất cập kinh
tế-xã hội của nước này là nới rộng bảo hiểm công.
(Còn 1 kì)
LANE
KENWORTHY là giáo sư Xã hội học và Chính trị học tại Đại học
Arizona. Bài tiểu luận này dựa vào tác phẩm gần đây nhất của ông, Social
Democratic America [Nước Mỹ dân chủ xã hội] (Oxford Unversity Press, 2014).
Nguồn: “America’s Social Democratic Future – The Arc of Policy Is Long But
Bends Toward Justice”, Foreign Affairs Jan/Feb 2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư &
pro&contra
[i]Phong trào Tiệc Trà (the Tea Party movement): một
phong trào chính trị Mỹ chủ trương giảm nợ quốc gia và thâm thủng ngân sách
liên bang bằng cách giảm chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Danh xưng có xuất
xứ từ một biến cố lịch sử được gọi là Tiệc trà Boston (the Boston Tea Party)
diễn ra năm 1773 khi một số dân thuộc địa tổ chức đổ trà từ một thuyền buôn Anh
xuống sông Boston như một hành động chống lại việc Đế quốc Anh đánh thuế
lên các thuộc địa Bắc Mỹ trong khi họ không được đại diện tại Nghị viện Anh
(taxation without representation). Đây là một phong trào vừa dân túy, vừa bảo
thủ, vừa bênh vực các tự do dân sự chống lại các áp đặt của chính phủ.
[ii]Medicare: một chương trình bảo hiểm xã hội quốc gia,
được chính phủ liên bang Mỹ quản trị từ năm 1966, nhằm cung cấp bảo hiểm y tế
cho những người Mỹ ở tuổi 65 hoặc già hơn, trước đó đã làm việc và trả phí vào
hệ thống này.
[iii]Medicaid: một chương trình y tế xã hội cho các gia
đình hoặc cá nhân có lợi tức thấp và nguồn lực yếu kém
No comments:
Post a Comment