Phạm Chí
Dũng gửi RFA từ Việt Nam
2014-02-23
2014-02-23
Ngay sau khi trở thành thành viên Hội đồng nhân
quyền liên hiệp quốc, giới lãnh đạo cầm quyền ở Việt Nam rất có thể đang phải
chịu mối phân tâm giằng xé trong ý thích có nên thực hiện quyền con người hay
không.
Ngã ba đường
Được xem là tâm điểm trong cả hai chính sách “xoay
trục” của người Mỹ sang châu Á- Thái Bình Dương và của quốc gia “Mười sáu chữ
vàng” đối với mục tiêu bất di bất dịch khống chế biển Đông, cánh cửa hoen gỉ
của các nhà tù Việt Nam cũng đang rơi vào tâm thế vật lộn giữa đóng và mở.
Ngay trong kỳ họp kiểm điểm định kỳ phổ quát của Hội
đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc về nhân quyền Việt Nam tại Geneva vào đầu tháng
2/2014, nhiều phái bộ ngoại giao các nước đã xoáy đậm vào chủ đề vẫn còn đến
150-200 tù nhân lương tâm bị giam cầm ở Việt Nam. Riêng với tính cách bộc trực
không thèm che giấu của mình, người Mỹ còn thẳng thắn hơn: các tù nhân lương
tâm phải được trả tự do vô điều kiện và ngay lập tức, trong đó có bốn cái tên
đang làm cho chính thể Hà Nội đau đầu nhất: Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Trần Huỳnh
Duy Thức và Lê Quốc Quân.
Lời giải của bài toán tù nhân lương tâm thật ra khá
đơn giản: cho tới chứng nào Hà Nội vẫn còn mơ màng đến chuyện “không biết đến
cuối thể kỷ 21 có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay không”, chừng
đó vẫn chưa thể có bất cứ một ráng hồng xóa nợ quốc gia hoặc kỳ vọng nào cho
TPP đối với nhóm chính khách đặc quyền được chống đỡ bởi tâm trạng lo sợ sụp đổ
từ Bắc Kinh.
Chỉ trong ba năm qua, tâm thế trên được xem là khác
hoàn toàn với thế bứt phá trong câu chuyện cổ tích ở Myanmar.
Độ sớm Myanmar
Thậm chí kẻ
bị xem là đi sau chót như Myanmar vẫn còn khả quan hơn nhiều so với quốc gia đã
chịu mở cửa kinh tế từ hơn hai chục năm trước là Việt Nam. Không chỉ được Câu
lạc bộ Paris và Nhật Bản, Na Uy, Pháp, Đức xóa nợ đến ít nhất 8 tỷ USD, chính
quyền của tổng thống Thein Sein còn được hứa hẹn sẽ “đặc cách” ngồi vào bàn
tròn TPP mà không phải trải qua những thử thách khắc nghiệt như đối với chính
thể tại Hà Nội.
Tất cả đều có nguyên do, và nguyên cớ lại tạo nên
mối quan hệ nhân quả không thể chi li hơn trong các nền chính trị đương thời có
qua có lại. Khi lắng nghe bài diễn văn nhậm chức tổng thống đầy khuôn sáo của
Thein Sein vào đầu năm 2011, khó ai hình dung được một tương lai sán lạn sẽ mở
ra chỉ 6 tháng sau đó. Nhưng mọi việc đã khởi nguồn đầy triển vọng với vụ giải
chế thủ lãnh đảng đối lập Aung San Suu Kyi.
Không
thể có một xã hội phát triển nếu ít nhất không biết chấp nhận những kẻ nói
ngược quan điểm. Bài học gần gũi nhất với nền chính trị Việt Nam là
đảng Liên đoàn quốc gia vì dân chủ của Aung San Suu Kyi đã thực sự có chỗ đứng
với tư cách là một phe đối lập, nhưng lại là một tình cảm đối lập ôn hòa và còn
phần nào hỗ trợ chính quyền Thein Sein giải quyết những bất đồng chính trị giữa
các phe phái, bất công xã hội và chiêu dụ đầu tư nước ngoài.
Tồn đọng số lượng tù nhân chính trị còn nhiều hơn cả
Việt Nam, nhưng Myanmar với nhà lãnh đạo cách tân Thein Sein đã gần như thoát
hẳn cái bóng quân phiệt ròng rã hàng chục năm. Những đợt thả người nhanh chóng
vào năm 2012 của chế độ cầm quyền quốc gia này đã dẫn tới chuyến nhập cảnh bất
ngờ của người đứng đầu nước Mỹ Barak Obama vào Myanmar ngay cuối năm đó.
Nhưng cùng trong năm 2012, giới chức Bộ Chính trị ở
Hà Nội dường như vẫn bất động, im lặng theo dõi diễn tiến ở đất nước chỉ cách
họ chưa đầy một trăm cây số đường chim bay. Họ có thể mích lòng vì Obama đã
không màng tới chuyện đặt chân lên mảnh đất ngàn năm văn hiến. Song vẫn không
một cá nhân chính khách cao cấp nào, từ Tổng bí thư đến Chủ tịch nước và Thủ
tướng chính phủ, dám liều lĩnh đưa ra một quyết định vượt thoát khỏi hàng rào
tập thể truyền thống được dán nhãn “xã hội chủ nghĩa”.
Chỉ đến năm 2013, khi cuộc hội kiến được báo chí
phương Tây ca ngợi giữa tổng thống Thein Sein với Nghị viện châu Âu, cùng lễ
đón tiếp Aung San Suu Kyi tại Nhà trắng tương đương cấp nguyên thủ quốc gia,
mới có vẻ khiến cho Bộ chính trị đảng Việt Nam nao lòng. Gần như cùng thời
điểm, cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ được nối lại, sau khi đã bị hoãn một
thời gian dài trước đó do vấn đề “nhân quyền Việt Nam thụt lùi sâu sắc”.
Độ trễ Việt Nam
Dù khởi hành
sớm hơn rất nhiều so với Myanmar, nhưng giờ đây Hà Nội lại bị thụt lùi rất đáng
kể so với người hàng xóm cùng khu vực Đông Nam Á. Vì sao vậy?
Bất chấp điều luôn được cơ chế độc đảng và độc quyền
kinh tế ở Việt Nam coi là “thành tích kinh tế”, độ trễ về não trạng chính trị
giữa Hà Nội với Myanmar lại là hố phân cách không thể chấp nhận được, nếu xét
về tính cố chấp đến mức mất hẳn óc sáng suốt.
Khoảng cách đó càng trở nên tôn bật khi vào cuối năm
2013, Then Sein đã hoàn thiện lời hứa của ông trước Cộng đồng châu Âu không thể
tốt đẹp hơn: toàn bộ tù chính trị, có đến hơn 300 người, đã được phóng thích
khỏi các nhà tù ở Myanmar. Đến lúc này, một làn sóng đầu tư nước ngoài đang
chờ chực đổ vào đất nước còn gần như nguyên vẹn sự thuần phác tính cách và
tương lai phát triển này.
Trong khi đó, Hà Nội vẫn loay hoay trong mớ hỗn độn
về não trạng tư tưởng, giữa hai “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” và khái niệm “một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, cạnh tranh sòng
phẳng và minh bạch” mà họ rất cần để có thể được chấp nhận vào TPP. Ở vào thế quá khó với nợ công
quốc gia lên đến ít nhất 95% GDP cùng ít nhất 25 tỷ USD nợ xấu đang tồn đọng
trong ít nhất 1/3 số ngân hàng thương mại, toàn bộ nền kinh tế Việt Nam như nằm
trên một thùng thuốc súng có thể nổ tung vào bất cứ lúc nào.
Nền chính trị cũng bởi thế đang trở nên mẫn cảm
không kém. Bất cứ một tia lửa kích phát nào từ khối quần chúng trong xã hội
cũng có thể khiến cho các quan chức trong Bộ Chính trị mất ngủ.
Tình thế hỗn mang quốc nội lại đang có dấu hiệu biến
diễn đặc biệt xáo trộn kể từ đầu năm 2014 - năm con Ngựa theo phong thủy châu Á
và cũng là năm mà một viên sĩ quan công an mang cấp hàm thượng tướng cầm tinh
Quý Ngọ ra đi vĩnh viễn.
Sau những “thành tích nổi bật về đối ngoại” vào năm
con Rắn, thế trườn bò của nền chính trị trong năm ngoái đã bất ngờ chuyển sang
trạng thái phi mã vào năm Giáp Ngọ này với những cuộc tranh đấu không khoan
nhượng giữa các nhóm lợi ích – thân hữu.
Lời
chứng về tham nhũng có thể là lời kết cho số phận một chế độ tham lam vô độ. Đã từ quá lâu nay, độc đảng đã gây ra độc quyền, còn nạn độc đoán điều
hành lại tạo ra các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu mà đã bít chặt gần hết các
lối thoát của dân chúng.
Gần đây nhất, một trong những lối
thoát cho chế độ đã hiển hiện, nhưng tiếc thay lại không được vận dụng “linh
hoạt và uyển chuyển” như cụm tính từ đặc thù trong các báo cáo của Đảng và Chính
phủ. Trong khi kỳ Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) ở Thụy Sĩ vào đầu tháng
2/2014 là một cơ hội hiếm hoi cho Hà Nội để trình báo lòng thành của họ trong
con mắt của thế giới, nhưng đã chẳng có bất cứ một phát tiết nào từ hành vi
“đọc báo cáo” của phái bộ Việt Nam - một cử chỉ được giới quan sát quốc
tế bình luận chẳng khác gì “nói như vẹt”.
Hai tuần sau UPR Geneva, cơ hội giải tỏa cho trường
hợp dễ dàng nhất là Lê Quốc Quân cũng bị chà đạp với thái độ xét xử còn lâu mới
được xem là thức thời.
Giờ đây và hơn bao giờ hết, điều oái oăm là gần như
toàn bộ số phận của nền chính trị và tương lai có ổn định hay không của xã hội
Việt Nam lại phụ thuộc vào sứ mệnh của “phe lợi ích”. Nếu sự ra đi vĩnh hằng và
có vẻ được trông đợi của viên tướng công an Phạm Quý Ngọ có thể là một dấu mốc
khiến xoay chuyển cả đại cục, những người của “phe lợi ích” sẽ đánh mất cơ hội
cuối cùng nếu không thể lợi dụng được thời gian cuối cùng trước đại hội 12 của
đảng để làm nên một hình ảnh nhân quyền tối thiểu như Thein Sein đã kiến tạo ở
Myanmar.
No comments:
Post a Comment