Charles
W. Kegley, JR. & Gregory A. Raymond
Posted on 11/02/2014 by nghiencuuquocte
Nguồn: Charles W. Kegley, JR. & Gregory A.
Raymond, The Global Future: A Brief Introduction to World Politics (Chapter 1),
(Boston, MA: Wadsworth, 2010)
Biên dịch: Phạm Trang Nhung | Hiệu đính:
Lê Hồng Hiệp
Ngày nay có nhiều thứ chỉ ra rằng chúng ta đang trải
qua một giai đoạn chuyển đổi, khi mà có vẻ như một số thứ đang trên đà biến mất
và thứ khác đang được sinh ra trong đau đớn. Chuyện đó như thể cái gì đó đang
tự nó vỡ vụn, suy tàn và kiệt quệ, trong khi có những thứ khác, vẫn còn chưa
tồn tại, đang nổi lên từ đống đổ nát.
Vaclav
Havel – Nhà viết kịch và cựu tổng thống Cộng hòa Séc
Khi người ta sử dụng thuật ngữ “quan hệ quốc tế”,
người ta thường nói tới các mối tương tác giữa các quốc gia[1] có lãnh thổ và tự chủ mà không có quyền lực nào cao hơn để
điều chỉnh hành vi của chúng. Những ghi nhận sớm nhất về các nhà nước như vậy
là ở vùng Lưỡng Hà cổ đại, nơi có khoảng hơn hai chục thành bang (city-state)
nảy nở trên vùng đồng bằng châu thổ giữa sông Tigris và sông Euphrates. Các nhà
khảo cổ học tin rằng văn minh đã khởi nguồn từ Sumeria, rìa phía nam của khu
vực này, nơi tiếp giáp với đường bờ biển của cái mà ngày nay chúng ta gọi là
Vịnh Ba Tư (Vịnh Pec-xích). Ở đây người ta đã tìm thấy bằng chứng về bánh xe và
lưỡi cày đầu tiên, việc sử dụng rộng rãi chữ viết và thuật luyện kim, những đạo
luật và hợp đồng kinh doanh đầu tiên, cũng như việc sản xuất bia lần đầu, mà
trong đó có đến 19 loại khác nhau (Fields, Barber, and Riggs 1998; Durant
1954).
Vào khoảng năm 2500 trước Công nguyên, một thành
bang điển hình ở Sumeria đã có hàng ngàn cư dân, mà phần lớn sống trong những
bức tường cao làm bằng gạch và bùn. Cần thiết phải phòng thủ vì địa hình bằng
phẳng của vùng phía nam Lưỡng Hà làm cho các thàng bang dễ bị tấn công, và xung
đột thường xuyên về vấn đề quyền sử dụng nước, các bãi chăn thả gia súc, và các
tuyến đường thương mại làm cho chiến tranh trở thành một mối đe dọa thường
trực. Các quân đội người Sumeria gồm bộ binh trang bị cung tên và xe kéo 4
bánh. Binh lính đội mũ bằng đồng và áo giáp thô sơ, mang khiên hình chữ nhật
lớn và có trang bị giáo, kiếm, và rìu (Keegan 1993). Chiến đấu thường ở
cự li gần. Người chiến thắng trong những cuộc chiến tàn khốc này nô dịch bên
thua cuộc, cướp bóc đất đai và biến dân cư ở đó thành nô lệ.
Cuộc xung đột giữa các thành bang Lagash và Umma là
một ví dụ điển hình cho tính chất khốc liệt của chiến tranh ở Sumeria. Sau hàng
thế hệ thù hằn gián đoạn, một đội quân do vua Lugal-Zaggisi của Umma dẫn đầu
cuối cùng đã áp đảo Lagash (khoảng năm 2350 trước Công nguyên). Ông ta cướp bóc
thành phố, tàn sát người dân, và trong một động thái mang tính xúc phạm, đã
trói những bức tượng các thần linh của họ lại. Trong một tác phẩm văn chương
vào loại cổ xưa nhất của loài người, nhà thơ Dingiraddamu đã than khóc cho nữ
thần bảo trợ của Lagash: “Ôi nữ thần của thành phố tôi, bị tàn phá, khi nào
Người mới quay trở lại?”
Chiến tranh tiếp tục tàn phá vùng Lưỡng Hà rất lâu
sau cuộc xung đột bi thảm giữa Lagash và Umma. Trong suốt một thiên niên kỉ,
nhiều quân đội đã tiến vào vùng này. Khi nhìn nhận qua lăng kính lịch sử, chiến
dịch quân sự do Mỹ dẫn đầu trong mùa xuân năm 2003 chống lại lãnh đạo Iraq
Saddam Hussein đơn thuần chỉ là cuộc chiến gần đây nhất bùng phát ở vùng đất cổ
xưa này. Nhưng nó là một cuộc chiến khác với các cuộc chiến khác. Được xem là
cuộc chiến tranh kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới, nó sử dụng các hình thức
liên lạc qua mạng để tập hợp các dữ liệu từ nhiều nguồn nhằm phối hợp các cuộc
không kích chính xác với các cuộc tấn công trên đất liền. Không giống sự hỗn
loạn bao phủ các chiến trường cổ đại, các chỉ huy người Mỹ cách chiến trường
hàng trăm dặm có thể kiểm soát các diễn biến khi chúng xảy ra. Trong khi quân
thám báo truyền tải những báo cáo không đều đặn về phòng thủ của đối phương tới
Lugal-Zaggisi, thì máy bay không người lái Predator, máy bay có Hệ thống Kiểm
soát và Cảnh báo trên không (AWACS), và các đơn vị đặc nhiệm được đổ bộ vào
đằng sau chiến tuyến của kẻ thù bởi máy bay trực thăng mang lại cho Tướng Tommy
Franks một chuỗi tin tình báo liên tục. Trong khi các chiến binh Sumeria ném
vào trận một loạt tên và lao trước khi tiếp cận kẻ thù, thì các binh sĩ Mỹ sẽ
kì vọng một đợt bắn yểm hộ có tính tàn phá của tên lửa hành trình, máy bay
chiến đấu tàng hình, và các máy bay ném bom hạng nặng để bắt đầu một chiến
dịch. Nói ngắn gọn, tốc độ và sự linh hoạt giờ đây đã thay thế cho số đông;
thông tin và hỏa lực thay thế cho những con số đơn thuần.
Xung đột quân sự giữa Lagash và Umma cách chúng ta
hơn 4 thiên niên kỉ. Chúng ta có thể học được gì về chính trị thế giới đương
đại thông qua việc so sánh chiến tranh ở Lưỡng Hà cổ đại và Iraq hiện đại? Khá
đơn giản, nó nhắc nhở chúng ta rằng chính trị[2] giữa các quốc gia là một hỗn hợp của sự tiếp nối và thay
đổi. Một mặt, các quốc gia tồn tại dưới cái mà nhà khoa học chính trị
Kenneth Waltz (1979) gọi là “bóng ma ám ảnh của bạo lực” từ thời xa xưa. Mặt
khác, cách mà các lực lượng vũ trang sử dụng bạo lực đã thay đổi đáng kể. Trong
một thời đại của các tiến bộ nhanh chóng về khoa học và kĩ thuật, chúng ta dễ
tập trung vào những cách tân mới nhất mà chối bỏ quá khứ, coi như chẳng liên
quan. Thay đổi là cái gì đó rất cuốn hút; nó thu hút sự chú ý của chúng ta và
khuyến khích trí tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng
một số đặc điểm của chính trị thế giới tồn tại tương đối lâu dài. Khi nhìn nhận
chính trị thế giới có thể ảnh hưởng tới tương lai toàn cầu như thế nào, chúng
ta cần phải chú ý nhiều tới sự tiếp nối lâu dài này cũng như nguồn gốc của các
thay đổi lớn lao. Nếu như tương lai có vẻ không chắc chắn đối với chúng ta, là
một nơi bí ẩn với vô vàn những bất ngờ, thì thường là bởi chúng ta đã không chú
ý tới việc bao nhiêu thứ nằm ở phía trước sẽ trở thành cái mà nhà lịch sử kinh
tế Robert Heilbroner (1960, 15) gọi là “hệ lụy kết tinh được kì vọng từ quá khứ”
và “cái rìa kéo dài của hiện tại”.
Rất khó để nhìn xa hơn những giới hạn của thời kì
chúng ta đang sống. Nó đòi hỏi phải thừa nhận ảnh hưởng của những sự kiện ngày
hôm qua đến thực tiễn của ngày hôm nay và cách mà các ý tưởng và hành động hiện
tại có thể định hình tương lai. Như nhà triết học và toán học Gottfried Wilhelm
Leibniz đã từng nói, “Hiện tại quan trọng với tương lai, tương lai có thể được
nhìn nhận thông qua quá khứ.” Do đó, để hiểu được những sự kiện đang diễn ra và
dự đoán chúng có thể ảnh hưởng tới tương lai ra sao, chúng ta sẽ nhìn nhận
chúng trong bối cảnh của một quan điểm dài hạn, qua đó xem xét cách một vài
khía cạnh của hệ thống[3] chính trị quốc tế – hay hình mẫu tương tác giữa các chủ thể
chính trị thế giới – đã kháng cự lại sự thay đổi ra sao, trong khi các khía
cạnh khác lại thay đổi rất nhiều như thế nào.
Sự
tiếp nối và thay đổi trong chính trị thế giới
Hãy tưởng tượng bản thân bạn trở về nhà sau chuyến
đi nghỉ 2 tuần tới một hòn đảo vùng nhiệt đới ở nơi bạn không thể tiếp cận với
tin tức. Chuyến đi đã đem lại cho bạn một kì nghỉ đáng giá, thoát khỏi trường
học và cho phép bạn xả hơi với một vài người bạn vào cuối học kì. Nhưng nay bạn
đang tò mò xem chuyện gì đã xảy ra trong khi bạn đi vắng. Khi bạn liếc vào một
tờ báo mà ai đó đang đọc ở khu nhận hành lý kí gửi tại sân bay, các tiêu đề đập
vào mắt bạn. Chúng chỉ ra rằng quân nổi dậy ở Iraq đã lấy đi mạng sống của
nhiều binh sĩ Mỹ, bao gồm cả một người vừa tốt nghiệp một trường trung học địa
phương. Trong khi trở về nhà từ sân bay, bạn nghe một chương trình radio về
việc nhu cầu dầu mỏ nước ngoài của Mỹ tăng lên và sự bất ổn chính trị ở Nigeria
và nhiều nước sản xuất dầu mỏ chính yếu khác. Nhìn qua vào các biển báo trạm
dịch vụ dọc đường cao tốc bạn nhận ra giá xăng đã tăng đáng kể, làm cho việc đi
lại hằng ngày tới nơi làm thêm của bạn đắt đỏ hơn. Ngay sau khi về nhà, bạn kết
nối mạng và thấy rằng giá của đồng euro đã tăng tương đối so với giá đô la Mỹ,
và bạn bắt đầu lo lắng về chi phí cho khóa du học mà bạn dự định thực hiện ở
châu Âu vào kì sau. Cuối cùng, trong khi nghe tin tức trên tivi vào tối muộn ngày
hôm đó, bạn nghe được nhiều báo cáo khác: các quan chức địa phương trên cả nước
đã bắt đầu phàn nàn rằng ngân sách đảm bảo an ninh nội địa của liên bang đang
được gắn quá chặt với việc chống lại các cuộc tấn công có thể xảy ra của Al
Qaeda đến mức đã bỏ qua một vài nguy cơ nghiêm trọng khác; do nhu cầu ngày càng
tăng ở Trung Quốc và Ấn Độ, các chương trình nhiên liệu sinh học đang phát
triển ở châu Âu và Bắc Mỹ, và hạn ngạch xuất khẩu của các nhà sản xuất chính,
nên giá ngũ cốc đã tăng trên khắp thế giới, dẫn đến việc Ngân hàng Thế giới dự
tính rằng 33 nước đang có nguy cơ nội chiến vì thiếu lương thực; và, liên quan
đến sự bất ổn của thị trường tín dụng toàn cầu, nhiều ngân hàng chủ chốt ở Mỹ
đã cho biết rằng họ sẽ tạm thời dừng cho vay đối với học sinh nhập học các
trường cao đẳng cộng đồng và nhiều trường nhỏ khác.
Mặc dù chúng ta có văn chương hóa nó một chút, bối
cảnh vừa được mô tả không phải là giả định hoàn toàn; nó xuất phát từ rất nhiều
sự kiện đã thực sự diễn ra vào tháng 5 năm 2008. Khi nghĩ về cái tháng khá đặc
thù này, người ta không thể không bị nhắc nhở rằng chúng ta đều bị ảnh hưởng
bởi những sự kiện diễn ra ở xa xôi và rằng tất cả chúng ta đều có lợi khi có
thể nắm bắt tốt hơn nguyên nhân và kết quả của chúng. Nhưng làm sao chúng ta có
thể hiểu rõ nhất những biến động mà 6,7 tỉ người trên thế giới phải đối mặt
hằng ngày? Liệu những cú sốc thi thoảng lại bùng phát trên khắp thế giới có mở
đường cho một trật tự thế giới hoàn toàn mới của thế kỉ 21 không? Hay liệu rất
nhiều những rối loạn khủng khiếp ngày nay thực sự chỉ là nhất thời, chỉ là
những đường tăng bất thường trên bản vẽ địa chấn của lịch sử?
Vào lúc khởi đầu của một thế kỉ mới, người ta thường
suy xét về tương lai toàn cầu. Thế giới mới sẽ như thế nào? Liệu nhân loại có
tốt hơn trong những năm sắp tới không? Hay sẽ phải chịu đựng nhiều hơn? Chúng
tôi mời bạn khám phá những câu hỏi này với chúng tôi. Để bắt đầu cuộc tìm kiếm
câu trả lời của chúng ta, hãy kiểm nghiệm xem sự khác nhau giữa tiếp nối và
thay đổi trong lịch sử thế giới có thể giúp gì cho chúng ta trong việc định
hướng các nỗ lực của mình.
Ở một mức độ nào đó, mỗi giai đoạn lịch sử được đánh
dấu bởi sự thay đổi. Tuy nhiên hiện nay tốc độ thay đổi có vẻ nhanh hơn và tác
động của nó có vẻ sâu rộng hơn bao giờ hết. Đối với nhiều người quan sát, dòng
thác sự kiện ở đầu thế kỉ 21 ám chỉ một sự tái cấu trúc mang tính cách mạng của
chính trị thế giới. Nhiều xu hướng mang tính hợp nhất cho thấy đó là
điều khả thi. Các quốc gia trên thế giới đang tiến lại gần nhau trong truyền
thông và thương mại, sản sinh ra một thị trường toàn cầu hóa. Nhưng đồng thời,
các xu hướng phân rã lại vẽ nên một bức tranh kém tươi sáng hơn. Sự phổ
biến vũ khí, suy giảm môi trường toàn cầu, và sự hồi sinh của xung đột sắc tộc
đều báo trước một nỗi lo lắng về tái cấu trúc đi cùng với sự mất trật tự. Để dự
đoán lực lượng nào sẽ chiếm ưu thế trong tương lai, chúng ta phải nhận ra rằng
không có xu hướng nào đứng riêng lẻ. Tương lai bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố,
mỗi yếu tố lại gắn kết với những yếu tố khác trong một mạng lưới liên kết phức
tạp. Nhìn chung, những xu hướng này có thể tạo ra sự ổn định bằng cách giới hạn
các ảnh hưởng của bất cứ lực lượng phá hoại đơn lẻ nào. Chúng cũng có khả năng
tăng tốc độ thay đổi, đẩy chính trị thế giới đi theo những hướng nhất định.
Như Vaclav Havel đã gợi ý trong phần mở đầu của
chương này, chúng ta dường như đang đi qua một giai đoạn chuyển tiếp trong
chính trị thế giới. Các lực lượng đối lập của sự hợp nhất và phân rã hướng tới
sự biến đổi, nhưng hệ quả trong dài hạn của nó vẫn còn chưa rõ ràng. Thời khắc
chuyển đổi từ một hệ thống này sang một hệ thống khác không rõ ràng ngay lập
tức. Tuy nhiên, có những thời điểm nhất định đặc biệt có khả năng diễn ra sự
chuyển đổi này. Các điểm xoay chuyển chính trong chính trị thế giới thường xảy
ra vào cuối các cuộc chiến tranh lớn, thường phá hủy hay đập tan những dàn xếp
quốc tế tồn tại trước đó. Trong thế kỉ 20, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và
thứ hai và Chiến tranh Lạnh đã tạo ra những tách biệt căn bản khỏi quá khứ và
khởi động những chuyển biến lớn, mang lại cho các quốc gia sự cần thiết phải
suy nghĩ lại những tiền đề nằm sau những lợi ích, mục đích và ưu tiên của họ.
Cũng tương tự, nhiều người kết luận rằng cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9
năm 2001 tạo ra một sự chuyển đổi về căn bản trong quan hệ quốc tế. Thực tế, vụ
11/9 có vẻ đã thay đổi mọi thứ: Theo lời Tổng thống Mỹ George W. Bush, “Màn đêm
buông xuống một thế giới khác.”Bất chấp mọi thứ có vẻ đã khác rất nhiều kể từ
vụ tấn công khủng bố ngày 11/9, nhiều thứ vẫn giữa nguyên trong chính trị thế
giới. Như William Dobson (2006, 23), thư ký tòa soạn của tạp chí Foreign
Affairs, đã nói: “Điều đáng nói là thế giới đã thay đổi rất ít.” “Các lực
lượng lớn của thương mại quốc tế và toàn cầu hóa gần như không bị ảnh hưởng bởi
cuộc tấn công,” nhà sử học Juan Cole bổ sung (2006, 26). “Sự trỗi dậy của Trung
Quốc với tư cách là một người khổng lồ về kinh tế vẫn tiếp diễn, với nhiều hệ
lụy về kinh tế, ngoại giao, và quân sự.” Các điểm nóng kéo dài hàng thập kỉ vẫn
tồn tại, bao gồm cả xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan, Bắc Triều Tiên và Mỹ,
Israel và các du kích ở Nam Li-băng cũng như lãnh thổ Palestine. Cole kết luận
“Với tất cả thực tiễn đã diễn ra, vụ tấn công 11/9 đã không đụng chạm đến nhiều
lực lượng nền tảng và những căng thẳng dai dẳng định hình nên chính trị quốc
tế.”
Chúng ta thường kì vọng các sự kiện kịch tính thay
đổi cuộc đời của chúng ta mãi mãi và sau đó ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng có
những phần nhất định từ trong quá khứ lại tái xuất hiện. Do những thay đổi bất
chợt diễn ra trên thế giới song song với những tiếp nối lâu dài, đây là những
khoảng thời gian không chắc chắn. Bởi vì một vài khía cạnh trong tương lai có
khả năng sẽ lặp lại quá khứ, việc khẳng định rằng một sự chuyển đổi lớn trong
chính trị thế giới đang diễn ra đòi hỏi chúng ta phải xác định xem cái gì tạo
nên một trật tự thế giới mới.
Làm sao chúng ta có thể xác định khi nào thì một
hình mẫu quan hệ đang tồn tại nhường chỗ cho một hệ thống quốc tế hoàn toàn
mới? Sử dụng quan điểm của nhiều học giả đã vật lộn với những tiêu chuẩn để xác
định sự thay đổi hệ thống (Hoffmann 1961; Burns 1968; Gilpin 1981; Rosenau
1990), chúng tôi sẽ tiếp tục bằng cách mặc định rằng chúng ta có một hệ thống
quốc tế mới khi chúng ta có một câu trả trời lời mới cho một trong ba câu hỏi
sau: (1) Các đơn vị cơ bản trong hệ thống là gì? (ví dụ, đế chế, quốc
gia – dân tộc, hay một dạng chủ thể quốc tế nào đó); (2) Mục tiêu chính sách
đối ngoại chủ yếu mà những đơn vị này tìm kiếm đối với các đơn vị khác là gì?
(ví dụ, xâm chiếm lãnh thổ, giành được lợi ích vật chất thông qua thương mại);
và (3) Những đơn vị này có thể tác động gì tới các đơn vị khác với năng lực
quân sự và kinh tế của chúng?
Liệu những tiêu chuẩn này có dẫn chúng ta tới kết
luận rằng một hệ thống mới đã nảy sinh? Đầu tiên, mặc dù các quốc gia vẫn là
chủ thể chính trên đấu trường thế giới, chúng không còn là các chủ thể duy nhất
nữa. Theo Richard Haass (2008, 45), cựu thành viên cấp cao của Ủy ban An ninh
Quốc gia Mỹ, “các quốc gia đang bị thách thức từ bên trên, bởi các tổ chức khu
vực và toàn cầu; từ bên dưới, bởi dân quân, và từ bên cạnh, bởi nhiều tổ chức
phi chính phủ.” Ví dụ, Tổ chức Thương mại Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế hiện
nay thỉnh thoảng lại thể hiện quyền lực chính trị của họ trong cuộc tranh giành
với các quốc gia cá thể, tương tự là những nhóm từ Hezbollah và Taliban tới Tổ
chức Hòa bình xanh và Bác sĩ không biên giới. Hệ thống quốc tế ngày nay, nói
cách khác, bao gồm không chỉ các quốc gia lãnh thổ có chủ quyền mà còn bao gồm
một mạng lưới tương tác phức tạp giữa các quốc gia, các thể chế quốc tế và các chủ
thể phi quốc gia khác.[4]
Thứ hai, mặc dù cuộc cạnh tranh giành các nguồn tài
nguyên vẫn tiếp diễn, như có thể được nhìn thấy trong cuộc tranh chấp giữa
Trung Quốc và Nhật Bản về các mỏ dầu khí ở biển Hoa Đông, xâm chiếm lãnh thổ
không còn là mục tiêu chủ chốt trong chính sách đối ngoại của phần lớn quốc
gia. Thay vào đó, trọng tâm của chúng đã chuyển từ các phương pháp thực thi ảnh
hưởng quân sự truyền thống sang các biện pháp kinh tế. Trong khi đó, cuộc cạnh
tranh về ý thức hệ của Chiến tranh Lạnh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản không còn là sự chia rẽ căn bản trong chính trị quốc tế nữa, và một trục
mới vẫn chưa hình thành rõ ràng.
Thứ ba, sự phổ biến các loại vũ khí chết người đã
thay đổi sức phá hủy mà một quốc gia có thể giáng lên quốc gia khác. Không chỉ
mình các cường quốc kiểm soát các vũ khí đáng sợ nhất của thế giới nữa. Đáng sợ
hơn, một nhóm người cuồng tín nhỏ và hoạt động ngầm không còn cần đến các vũ
khí tiên tiến mới có thể tạo ra các sự tàn phá kinh khủng. Sự khéo léo và dao
gấp rọc giấy đã giúp bọn khủng bố giết hàng ngàn người trong vụ ngày 11/9.
Những thay đổi về loại đơn vị (hay chủ thể), mục
tiêu và năng lực trong những năm gần đây đã thay đổi ghê gớm xếp hạng sức mạnh
của các chủ thể quốc gia và phi quốc gia trên trường quốc tế. Tất nhiên, cấu
trúc thứ bậc vẫn tồn tại. Thứ bậc kinh tế tách rời kẻ giàu và kẻ nghèo, thứ bậc
chính trị tách biệt những người cai trị với những kẻ bị trị, thứ bậc tài nguyên
làm một số trở thành nhà cung cấp và số khác phải phụ thuộc, và thứ bậc quân sự
đẩy các nước mạnh chống lại các nước yếu. Tất cả vẫn định hình quan hệ giữa các
quốc gia, như trong quá khứ. Tương tự, sự thiếu vắng các thể chế để quản lý
toàn cầu cùng với tình trạng mất an ninh quốc gia thường xuyên khuyến khích
việc sử dụng sức mạnh mà không có sự ủy nhiệm quốc tế. Do đó những thay đổi và
tiếp nối cùng tồn tại, với cả hai lực lượng cùng lúc định hình nền chính trị
thế giới đương đại.
Thách thức, do vậy, là làm sao quan sát các thực
tiễn toàn cầu hiện nay một cách cẩn thận nhằm mô tả và giải thích đặc điểm của
chúng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu xem hình ảnh về hiện thực của chúng
ta đã định hình kì vọng của chúng ta ra sao. Nó cũng đòi hỏi một loạt công cụ
để phân tích các lực lượng giữ nguyên và thay đổi có ảnh hưởng đến thế giới của
chúng ta. Do đó, phần còn lại của chương này sẽ xem xét sơ lược vai trò của
hình ảnh của thực tế trong việc thấu hiểu chính trị thế giới, và sau đó sẽ mô
tả một vài công cụ mà chúng ta sử dụng trong quyển sách này để lý giải các xu
hướng và thay đổi trong chính trị thế giới.
Nhận
thức ảnh hưởng như thế nào đến hình ảnh về hiện thực
Tất cả chúng ta đều có những hình ảnh trong tâm
tưởng về chính trị thế giới – công khai hay ngấm ngầm, vô thức hay có ý thức.
Nhưng dù chúng ta có tự nhận thức được ở mức độ nào, thì hình ảnh của chúng ta
cũng đơn giản hóa “hiện thực” bằng cách phóng đại một vài đặc điểm của môi
trường xung quanh trong khi phớt lờ những đặc điểm khác. Do đó chúng ta sống
trong một thế giới được định dạng bởi kì vọng và hình ảnh của chúng ta.
Những bức tranh tinh thần, hay các nhận thức này,
không tránh khỏi bóp méo sự thật, bởi vì chúng không thể nắm bắt đầy đủ sự phức
tạp và hình dạng của ngay cả các vật thể vật lý, như bản thân địa cầu (xem phần
Tranh luận: Liệu chúng ta có nên tin những gì mình nhìn thấy?)
Nhiều hình ảnh của chúng ta về chính trị thế giới
được xây dựng dựa trên những ảo tưởng và nhận thức sai lầm. Và kể cả những hình
ảnh hiện nay chính xác cũng dễ dàng trở nên lỗi thời nếu chúng ta không thể
nhận ra những thay đổi trên thế giới. Thực tế, tương lai của thế giới sẽ bị
quyết định không chỉ bởi những thay đổi đối với các thực tế “khách quan” trong
chính trị thế giới mà còn theo nghĩa rằng con người tin vào các thực tế đó, tức
những nhận thức mà họ dựa vào đó để lý giải, và hành động theo sau những nhận
định và sự lý giải đó – cho dù những nhận thức đó chính xác hay không chính xác
đến đâu.
Bản
chất và nguồn gốc của các hình ảnh
Nỗ lực đơn giản hóa quan điểm của con người về thế
giới là không thể tránh khỏi, và thậm chí còn cần thiết. Giống như người vẽ bản
đồ dự định đơn giản hóa các khoảng không gian địa vật lý phức tạp để chúng ta
có thể hiểu rõ hơn về thế giới, mỗi người chúng ta không tránh khỏi tạo ra một
“bản đồ tinh thần” – một cách thường gặp trong việc sắp xếp thông tin – để làm cho
một khối thông tin rối loạn trở nên có ý nghĩa, dễ hiểu. Mặc dù các bản đồ tinh
thần này không đúng hay sai một cách cố hữu, chúng lại rất quan trọng bởi vì
chúng ta có xu hướng phản ứng theo cách mà chúng ta nhìn nhận thế giới hơn là
theo bản chất thực sự của thế giới đó. Các lãnh đạo chính trị cũng đi theo xu
hướng này (Kirkpatrick 2007). Như nhà tâm lý học chính trị Richard Ned Lebow
(1981) đã cảnh báo, “Những người hoạch định chính sách có xu hướng bóp méo sự
thực phù hợp với nhu cầu của họ ngay cả trong những tình huống tỏ ra …tương đối
rõ ràng.”
Phần lớn chúng ta – bao gồm cả những người hoạch
định chính sách – tìm kiếm thông tin củng cố niềm tin vốn có của mình về thế
giới, đồng hóa những dữ liệu mới vào những hình ảnh quen thuộc, và sai lầm khi đánh
đồng những gì chúng ta tin với những gì chúng ta biết, và chối bỏ những thông
tin mâu thuẫn với kì vọng của chúng ta. Chúng ta cũng dựa vào trực giác của
mình và đưa ra những phán xét tức thời về nhiều vấn đề quan trọng (Gladwell
2005). Nghiên cứu về tâm lý học nhận thức gợi ý rằng con người là “những người
phân loại” cố gắng hiểu thế giới bằng cách đối chiếu những gì họ thấy với những
hình ảnh trong trí nhớ về những sự kiện và con người nguyên mẫu – một quá trình
mà các nhà tâm lý học gọi là lập luận theo khuôn mẫu[5] (Larson 1994). Giáo sư thì đãng trí, luật sư thì không trung thực,
còn bà thì tốt bụng là những ví dụ về các hình ảnh “dự trữ” mà nhiều người
trong chúng ta có về các dạng người cụ thể. Mặc dù các giáo sư, luật sư và
người bà mà chúng ta gặp có thể chỉ giống rất ít với những hình ảnh nguyên mẫu
ấy, khi chúng ta biết ít về ai đó, kì vọng của chúng ta sẽ bị định hình bởi
những điểm tương đồng được chúng ta mặc định về những nhân vật này.
TRANH
LUẬN: Liệu chúng ta có nên tin vào cái mình nhìn thấy? Tổ chức Quan sát và Dự
đoán về Thực tiễn Toàn cầu
|
Nhiều người mặc định rằng “nhìn thấy là tin tưởng”
mà không cần đặt vấn đề liệu quan niệm của họ có đúng không. Nhưng liệu có gì
nữa cần nhìn nhận ngoài những gì mắt thấy? Khi nhìn vào thế giới, liệu chúng
ta có nhìn nhận nó bằng những cách có thể sai lệch? Các sinh viên ngành tâm
lý học về nhận thức nghĩ như vậy. Họ giữ quan điểm rằng nhìn thấy không phải
là một hành động hoàn toàn thụ động: Cái chúng ta quan sát được bị ảnh hưởng
một phần bởi những giá trị và kì vọng có sẵn của chúng ta. Hai người quan sát
cùng nhìn vào một vật có thể dễ dàng nhận thức những thực tiễn khác nhau. Để
minh họa điều này, các nhà tâm lý học về nhận thức thích thú trình bày bức vẽ
này, vốn dựa vào cách mà người xem nhìn vào nó, nó có thể được nhìn là một
cái ly hay là hai gương mặt đối diện nhau.Nguyên tắc này có tầm quan trọng
lớn đối với những sinh viên học chính trị thế giới. Phụ thuộc vào quan điểm
của một người, người ta có thể có sự khác biệt rất lớn về cách họ nhìn nhận
các sự kiện, chủ thể và vấn đề quốc tế. Để hiểu được sự khác biệt xuất phát
từ thực tế rằng những người khác nhau có thể dễ dàng nhìn thấy những thực tế
khác nhau khi họ cùng nhìn vào một thứ, hãy cân nhắc một thứ căn bản như là
nhìn nhận một cách khách quan về vị trí và kích cỡ của các lục địa trên thế
giới. Đã tồn tại sự bất đồng từ lâu giữa những người vẽ bản đồ về cách vẽ bản
đồ địa cầu “đúng đắn”, đó là, làm sao để có thể vẽ được chính xác về bề mặt
Trái đất. Mọi bản đồ về địa cầu đều có sự sai lệch, bởi vì không thể thể hiện
địa cầu ba chiều một cách hoàn hảo trên giấy hai mặt. Khó khăn mà những người
vẽ bản đồ phải đối mặt có thể được nhìn nhận bằng cách cố gắng trải phẳng một
cái vỏ cam. Bạn chỉ có thể trải phẳng nó bằng cách tách từng phần của vỏ vốn
dính liền nhau ở dạng hình cầu. Những người vẽ bản đồ nào cố gắng làm phẳng
địa cầu trên giấy, mà không “xé lẻ nó” thành những phần riêng rẽ, cũng gặp
vấn đề tương tự. Mặc dù có nhiều cách để thể hiện một vật thể ba chiều trên
giấy, tất cả những việc này đều dẫn đến một dạng sai lệch nào đấy. Do đó
những người vẽ bản đồ phải chọn trong số các cách thể hiện địa cầu không hoàn
hảo bằng cách chọn ra những khía cạnh của địa lý thế giới mà họ cho là quan
trọng nhất để mô tả một cách chính xác, trong khi có sửa đổi những phần
khác.Ý kiến của những người vẽ bản đồ về cái gì là quan trọng nhất trong địa
lý thế giới thay đổi phụ thuộc vào quan điểm toàn cầu của bản thân họ, hay
phụ thuộc vào quan điểm của những cá nhân hay tổ chức mà bản đồ này được tạo
ra (Xem Klinghoffer 2006). Ba bản đồ dưới đây (Bản đồ 1.1, 1.2, 1.3) mô tả sự
phân bố bề mặt đất liền của trái đất, nhưng mỗi bản đồ lại mô tả một hình ảnh
khác nhau. Mỗi bản đồ là một hình mẫu của hiện thực, một hình ảnh trừu tượng
nhấn mạnh một vài đặc điểm của địa cầu trong khi bỏ qua những đặc điểm khác.
Một bản đồ nhấn mạnh cái gì sẽ có ý nghĩa quan trọng về chính trị bởi vì nó
định hình cách người ta nhìn nhận cái gì là quan trọng. Khi xem xét ba cách
nhìn nhận và lý giải địa cầu này, bạn hãy đánh giá cách vẽ nào mà bạn cho là
tốt nhất. Đặc điểm nào của thực tiễn toàn cầu đáng nhấn mạnh nhất để tạo ra
một hình ảnh chính xác? Câu trả lời của bạn thể hiện giá trị và quan điểm của
bạn về thế giới như thế nào?
Bản
đồ 1.1 Phép chiếu Mercator
Phép chiếu Mercator, phổ biến ở châu Âu thế kỉ 16,
là quan điểm châu Âu cổ điển về thế giới. Nó chỉ hướng chính xác, làm cho bản
đồ này rất hữu ích trong định hướng, nhưng lại đặt châu Âu vào trung tâm thế
giới và phóng đại tầm quan trọng của lục địa này so với các lục địa khác.
Châu Âu có vẻ lớn hơn Nam Mỹ, vốn gấp đôi kích cỡ của châu Âu, và 2/3 bản đồ
được sử dụng để mô tả nửa phía bắc của thế giới và chỉ 1/3 là dành cho nửa
phía nam. Bởi vì các đường kinh tuyến được trình bày song song thay vì hội
tụ, nó cũng phóng đại quá nhiều kích cỡ của Greenland và Bắc Băng Dương.
Bản
đồ 1.2 Phép chiếu Peter
Trong phép chiếu Peter, mỗi vùng đất có vẻ là có
có tỉ lệ đúng trong tương quan với các phần khác, nhưng nó lại bóp méo hình
dạng và vị trí các vùng đất. Trái ngược với phần lớn các cách trình bày địa
lý khác, nó thu hút sự chú ý vào các nước châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh nơi
có hơn 3/4 dân số thế giới sinh sống.
Bản
đồ 1.3 Phép chiếu trực giao
Phép chiếu trực giao, tập trung vào trung tâm Đại
Tây Dương, chuyển tải được cảm nhận về độ cong của Trái đất thông qua việc sử
dụng đường viền hình tròn. Kích cỡ và hình dạng các lục địa ở phía đường rìa
của vòng tròn bị sai lệch để tạo cảm giác về mặt cầu.
|
Sự
thiên vị khi quy kết[6] cũng tô màu cho những hình ảnh mà chúng ta có về bản thân và
những người khác. Khi giải thích hành động của mình, đặc biệt là khi ai đó nghi
ngờ về tính đúng đắn của những cái chúng ta đã làm, phần lớn chúng ta nhấn mạnh
vào sự đưa đẩy của hoàn cảnh bên ngoài (“Tôi làm việc đó bởi vì hoàn cảnh cho
thấy việc ấy cần thiết; tôi không còn lựa chọn nào khác.”) Tuy nhiên, khi kẻ
thù hành động tương tự, nhìn chung chúng ta sẽ quy kết hành động của họ là do
sự khiếm khuyết trong tính cách của họ (“Họ làm việc đó vì bản chất thủ đoạn
của họ.”) Nói cách khác, chúng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của ảnh hưởng tình
huống tới cái chúng ta làm trong khi chú trọng vào tầm quan trọng của những ảnh
hưởng tính cách tới những gì người khác làm (L. Ross 1977).
Nhiều yếu tố định hình hình ảnh của chúng ta, bao
gồm cách chúng ta tiếp xúc với xã hội khi còn nhỏ, các sự kiện đau buồn mà
chúng ta có thể đã trải qua khi trưởng thành, và sự tiếp cận với những ý tưởng
của những người mà chúng ta ngưỡng mộ chuyên môn của họ (Jervis 1976). Một khi
chúng ta đã đạt được một hình ảnh, hình ảnh đó có vẻ là đương nhiên, đúng đắn.
Theo đó, chúng ta cố gắng giữ cho nó tương hợp với những niềm tin khác của
chúng ta, và qua một quá trình được gọi là sự xung đột về nhận thức[7] (Festinger 1957), chúng ta loại bỏ các thông tin mâu thuẫn với
cách mà nó miêu tả thế giới. Nói ngắn gọn, tâm trí của chúng ta lựa chọn, sàng
lọc thông tin; kết quả là quan niệm của chúng ta phụ thuộc không chỉ vào cái gì
xảy ra trong đời sống hàng ngày mà còn vào cách chúng ta lý giải và tiếp thu
những sự kiện đó.
Tất nhiên, sự chấp nhận những điều mập mờ và tiếp
thu các cách nghĩ mới ở các cá nhân là khác nhau. Một số người có khả năng tốt
hơn những người khác trong việc thay đổi các thói quen nhận thức và tiếp nhận
thông tin mới. Tuy nhiên, ở một mức nào đó, tất cả chúng ta đều là tù nhân của
những quan niệm của chính mình.
Vai
trò của các hình ảnh trong chính trị thế giới
Chúng ta phải cẩn thận để không tự động mặc nhận
rằng điều gì áp dụng với cá nhân cũng áp dụng với cả quốc gia, và chúng ta
không nên đánh đồng niềm tin của lãnh đạo quốc gia với niềm tin của những người
sống dưới quyền họ. Tuy nhiên, lãnh đạo lại có ảnh hưởng lớn, và nhận thức của
lãnh đạo về hoàn cảnh lịch sử thường dẫn dắt họ cư xử với người khác theo những
cách cụ thể, bất chấp thực tế “khách quan”. Ví dụ, sự thiệt mạng của 26 triệu
người Liên Xô trong “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại” (là cách người Nga dùng
để nói về Chiến tranh thế giới lần thứ hai) củng cố một nỗi sợ lâu dài đối với
ngoại xâm, khiến cho cả một thế hệ nhà hoạch định chính sách Liên Xô nhìn nhận
những động thái quân sự của Mỹ đầy nghi kị và cảnh giác.
Bởi vì các lãnh đạo và người dân thường có xu hướng
phớt lờ hay diễn dịch lại các thông tin đi ngược với niềm tin của họ, sự hiểu
lầm lẫn nhau càng làm trầm trọng thêm những xung đột có nguồn gốc từ sự khác
biệt về lợi ích và giá trị. Mặc dù mức độ hiểu nhầm có thể không giống nhau ở
hai bên xung đột và một bên có thể có thể giữ định kiến của họ dai dẳng hơn so
với bên kia, sự thiếu tin tưởng và nghi ngờ vẫn gia tăng khi các bên xung đột
nhìn nhận bên kia một cách tiêu cực. Hiện tượng được gọi là hình ảnh qua
gương[8] này xảy ra ở Matxcơva và Washington trong Chiến tranh Lạnh.
Mỗi bên tự thấy hành động của mình là mang tính xây dựng và phản ứng của đối
thủ là mang tính thù địch, và cả hai bên đều nhận định sai lầm rằng bên kia sẽ
hiểu các sáng kiến chính sách (của mình) như đã được dự định. Ví dụ, khi nhà
tâm lý học Urie Bronfenbenner (1961) tới Matxcơva, ông rất ngạc nhiên khi thấy
người Nga mô tả người Mỹ bằng những từ ngữ cực kì giống với cách người Mỹ mô tả
Liên Xô: Mỗi bên tự thấy mình đạo đức và yêu hòa bình trong khi bên kia được
xem là không thành thật và hiếu chiến. Kể từ đó, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy
bằng chứng về những hình ảnh đối lập trắng-và-đen rõ ràng mà những đối thủ lưu
giữ trong nhiều xung đột quốc tế khác, bao gồm xung đột Ấn Độ – Pakistan và
Ả-rập – Israel (Stoessinger 1993, 111-135; R. White 1977). Trong những tình
huống đó việc giải quyết xung đột là cực kì khó khăn. Không chỉ các bên đối lập
có sự thiên vị đối với các kết quả nhất định so với các kết quả khác, mà họ còn
không nhìn nhận các vấn đề bên dưới theo cùng một cách. Các vấn đề càng phức
tạp hơn khi hình ảnh qua gương của các bên thù địch có xu hướng tự củng cố. Khi
một bên cho là bên kia thù địch, họ cư xử với đối thủ của họ theo một cách làm
đối thủ của họ có hành động đáp trả tương ứng khẳng định giả định ban đầu, do
vậy tạo nên một vòng tròn luẩn quẩn của sự thù địch ngày càng sâu sắc,
khiến làm giảm triển vọng hòa bình (M. Deutsche 1986; Sen 2006). Việc làm
sáng tỏ các hiểu nhầm lẫn nhau có thể thúc đẩy đàm phán giữa hai bên, nhưng xóa
bỏ những quan điểm lệch lạc về nhau của các bên thù địch sẽ không tự động xóa
bỏ mục đích thực sự trái ngược nhau và xung đột về lợi ích đã chia rẽ họ (xem
Áp dụng: nhìn nhận thế giới qua con mắt bên ngoài).
ÁP
DỤNG: Nhìn nhận thế giới qua con mắt bên ngoài
|
Một vấn đề liên tục xảy ra trong lĩnh vực quan hệ
quốc tế liên quan đến mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn. Các lý thuyết
về chính trị thế giới phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước tới mức độ nào?
Các lý thuyết do cộng đồng học thuật đưa ra giúp ích cho những người hoạt
động thực tiễn trong việc định hình và thực hiện chính sách đối ngoại như thế
nào?Trong chương này chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn về một vài quan niệm
lý thuyết mà các học giả sử dụng để mô tả vai trò của nhận thức trong chính
trị thế giới. Nghiên cứu tâm lý về nhận thức của con người cho thấy rằng niềm
tin và kì vọng của chúng ta ảnh hưởng đến những gì chúng ta nhìn thấy, và
rằng nhiều người không thể tưởng tượng nổi làm sao mà những người khác có thể
nhìn nhận thế giới theo những cách khác. Gắn chặt với những mối quan tâm và
nhu cầu bản thân, họ đã đánh giá quá cao sự chính xác trong cái nhìn về thế
giới của mình và lý giải sai lầm các đặc điểm, dự định và năng lực của người
khác. Theo Dennis Ross, cựu phái viên Trung Đông và nhà đàm phán hòa bình
trong nhiệm kì của tổng thống George H. W. Bush và Bill Clinton, hiểu một
nhận thức của bên kia là điều quan trọng trong việc tiến hành đàm phán quốc
tế thành công. Ông lập luận rằng việc biết cái mà các bên khác coi trọng cũng
như những điều họ lo sợ, những áp lực sẽ khiến quan điểm mặc cả của họ trở
nên cứng rắn hoặc mềm mỏng hơn là rất quan trọng. Trong phần trích dẫn dưới
dây, Ross mô tả cách hỏi những câu hỏi mang tính thăm dò cũng như lắng nghe
cẩn thận câu trả lời của bên kia đã giúp ông trong quá trình đàm phán kiểm
soát vũ khí với Liên Xô và Liên bang Nga như thế nào.Với Liên Xô lúc ban đầu
và sau đó là người Nga, tôi có những cuộc trao đổi dài với Sergei Tarasenko
và Yuri Mamedov, những người phụ tá chủ chốt của các ngoại trưởng lúc đó là
Eduard Shevardnadze và Andrei Kosyrev. Trao đổi với họ làm hé lộ một lượng
lớn những gì có thể và không thể thực hiện được đối với kiểm soát vũ khí –
không nhất thiết là tôi đã đào bới thông tin từ họ, mà vì tôi hỏi những câu
hỏi chuyển tải sự quan tâm đối với việc cố gắng hiểu được những hoàn cảnh
rộng hơn mà họ phải tuân thủ.
Ví dụ, đôi khi tôi hỏi những câu hỏi về việc cải
tổ thực sự khả thi đến đâu. Thường thì, nó dẫn đến những cuộc tranh luận về
sự suy yếu và tình trạng bất ổn ở Liên Xô, những người ủng hộ và phản đối cải
tổ ở nhiều cấp độ, lập luận của họ; liệu các hiệp ước kiểm soát vũ khí có phù
hợp, và quan điểm của họ về việc chúng tôi và những người khác có thể giúp gì
hay gây hại gì cho quá trình cải tổ.
Một thuộc tính thiết yếu đối với bất kì nhà đàm
phán nào là phải là người biết lắng nghe. Điều quan trọng là biết khi nào thì
nói, nhưng, quan trọng hơn, là khi nào thì lắng nghe. Bạn sẽ không học được
gì khi bạn đang nói. Có lẽ bạn sẽ định hình hay đưa ra điều kiện cho các quan
điểm, nhưng bạn sẽ không học được gì. Bạn học được khi bạn lắng nghe.
Là một người biết lắng nghe chuyển tải một mức độ quan tâm và tôn trọng. Nó
thể hiện rằng bạn coi trọng những gì liên quan đến những người bạn đang làm
việc cùng. Bạn có khả năng gợi ra nhiều thứ hơn khi bạn chủ động chuyển tải
sự tôn trọng và lắng nghe như thế (D. Ross 2007, 191-192).
Lý thuyết và nghiên cứu về quan điểm nhận thức của
các lãnh đạo chính trị chỉ ra rằng mỗi chủ thể trên đấu trường quốc tế nhìn
nhận thế giới tương đối khác nhau. Các nhà hoạch định chính sách mà phớt lờ
những khác biệt đó có thể dễ dàng bỏ qua những dấu hiệu có ý nghĩa từ các đối
thủ của họ và không thể nắm bắt được các cơ hội lướt qua để có được các đột
phá ngoại giao. Sự cảm thông, nhìn nhận một tình huống từ quan điểm của phía
bên kia, do vậy là một kĩ năng đáng quý. Ross kết luận “Một người càng thể
hiện được sự thấu hiểu của mình về việc tại sao những người khác lại tin vào
cái họ làm, và niềm tin đó đến từ đâu, thì họ càng có cơ hội thành công.”
Như phản ánh của Ross về kinh nghiệm của mình
trong các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí cho thấy, ranh giới giữa lý thuyết
và kỹ năng ngoại giao có thể hòa trộn vào nhau. Kiến thức về lý thuyết không
những phù hợp với việc hoạch định chính sách, mà những nhà hoạch định chính
sách còn tận dụng nó, dù có ý thức về việc đó hay không (George 1993, 135).
|
Mặc dù hình ảnh (hay nhận thức) của chúng ta về
chính trị thế giới khá ổn định, thay đổi vẫn có thể xảy ra. Việc vượt qua những
thói quen tư duy cũ kĩ đôi khi sẽ xảy ra khi chúng ta trải nghiệm sự không hài
lòng cực kì lớn do bám lấy một nhận định sai lầm. Như Benjamin Franklin đã từng
nhận định, “Những thứ gây tổn thương sẽ đưa ra chỉ dẫn.” Đặc biệt, các sự kiện
kịch tính đôi khi có thể thay đổi hoàn toàn các hình ảnh quốc tế. Ví dụ, chiến
tranh Việt Nam đã khiến nhiều người Mỹ thay đổi quan điểm của mình về việc sử
dụng sức mạnh trong nền chính trị thế giới đương đại. Khi chúng ta dự đoán về
tương lai toàn cầu, chúng ta cần phải suy nghĩ một cách phê phán về nền tảng
của quan niệm của chúng ta. Chúng có đúng không? Chúng có dựa trên đầy đủ thông
tin không? Liệu chúng có thể được điều chỉnh để giành được sự hiểu biết lớn hơn
về những người khác không?
Nghi vấn chính hình ảnh của mình là một trong những
thách thức quan trọng nhất mà chúng ta phải đối mặt khi phân tích chính trị thế
giới. Một mục đích của cuốn sách này là để giúp bạn nuôi dưỡng một thái độ phê
phán với niềm tin của mình về quan hệ quốc tế. Vì mục đích đó, chúng tôi sẽ đề
nghị bạn đánh giá các quan điểm trái ngược nhau về các vấn đề toàn cầu, kể cả
khi chúng khác xa quan điểm của bạn. Thực tế, chúng tôi sẽ cho bạn tiếp xúc với
những trường phái tư duy đang thịnh hành hiện nay mà có thể bạn không thấy
thuyết phục, và có thể bạn không thích. Tại sao lại thêm cả chúng vào? Bởi vì
nhiều người khác lại dùng những quan điểm này làm nền tảng cho cách nhìn thế
giới của họ. Suy nghĩ một cách phê phán trong lĩnh vực quan hệ quốc tế kéo theo
việc chống lại những thiên vị và nhận định của bản thân mỗi người, cũng như
thừa nhận rằng sự thiên lệch trong tư duy của những người khác có thể dẫn đến
việc họ nhìn nhận và lý giải các sự kiện theo những cách mà từ quan điểm của cá
nhân bạn là rất kì cục.
Một
khuôn khổ để nghiên cứu chính trị thế giới
Các
cấp độ phân tích
Chuỗi
thời gian
Áp
dụng khuôn khổ vào sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh
Đối
mặt với tương lai
Thách
thức về nghiên cứu
Bố
cục của cuốn sách
Tóm
tắt chương
Bài
đọc gợi ý
Câu
hỏi tư duy phê phán
Download
toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Tim
hieu chinh tri the gioi the ky 21.pdf
[1] Quốc gia (state): một thực thể chính trị có tổ chức với dân số
thường trực, một lãnh thổ xác định, và một chính quyền.
[2] Chính trị (politics): việc thực thi ảnh hưởng của các cá nhân
và nhóm cạnh tranh nhau để ảnh hưởng đến việc phân bổ các giá trị và sự phân
chia các nguồn lực; theo lời nhà khoa học chính trị Harold Lasswell, thì đó là
quá trình xác định “ai được cái gì, khi nào, như thế nào và tại sao.”
[3] Hệ thống (system): một chuỗi các bộ phận có liên hệ với nhau
vận hành như một tổng thể thống nhất. Trong chính trị thế giới, các bộ phận chủ
yếu gồm các quốc gia, các công ty và các tổ chức khác vốn tương tác lẫn nhau
trên đấu trường toàn cầu.
[4] Chủ thể phi quốc gia (non-state actors): mọi nhóm hành động
xuyên quốc gia mà không phải là quốc gia, như là các tổ chức quốc tế mà thành
viên là các quốc gia (IGOs) và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) mà thành viên
là các cá nhân và các nhóm tư nhân có thành viên đến từ nhiều hơn một quốc gia.
[5] Lập luận theo nguyên mẫu (schematic reasoning): một quá trình
mà các thông tin mới được lý giải bằng cách so sánh nó với các khái niệm chung
đã lưu sẵn trong trí nhớ về một tình huống, chuỗi sự kiện và nhân vật theo
khuôn mẫu cụ thể.
[6] Sự thiên vị khi quy kết (attribution biases): xu hướng nhấn
mạnh các yếu tố tình huống khi giải thích hành vi của bản thân ai đó trong khi
nhấn mạnh những yếu tố tính cách khi giải thích hành vi tương tự của người
khác.
[7] Sự xung đột về nhận thức (cognitive dissonance): xu hướng tâm
lý từ chối hay không hợp lý hóa những sự khác biệt giữa niềm tin vốn có của một
người với những thông tin mới.
[8] Hình ảnh qua gương (mirror image): xu hướng mà người ta khi
tương tác cạnh tranh nhìn nhận đối phương tương tự nhau – tức nhìn nhận kẻ thù
theo cùng một cách mà kẻ thù nhìn nhận họ.
- See more at:
http://nghiencuuquocte.net/2014/02/11/tim-hieu-chinh-tri-the-gioi-tk21/#sthash.gXbVvBSR.dpuf
No comments:
Post a Comment