Nam Phương phỏng vấn Gs. Nguyễn Mạnh Hùng
Posted by btvn01hatbaodanquyen on 24/02/2014
Theo Người Việt, số Xuân
giáp Ngọ (trang 184-185)
Hỏi:
Dù có rất nhiều áp lực của quần
chúng hơn bao giờ hết và ngay cả trong nội bộ đảng, tại sao chính quyền CSVN vẫn
tồn tại? Và họ còn tồn tại bao lâu? Hay các áp lực quá yếu nên sẽ không có gì
thay đổi?
Đáp:
Quả thật chính quyền CSVN đang
chịu áp lực thay đổi ngày càng gia tăng; áp lực ấy còn lớn hơn các áp lực
đã làm sụp đổ các chế độ cộng sản Đông Âu cuối thập niên 1980. Ở Đông Âu, đó là
kết hợp của đòi hỏi tự do dân chủ với chủ nghĩa dân tộc bởi vì người dân cho
rằng chính quyền của họ quá lệ thuộc vào Nga Xô. Hai yếu tố ấy đều có ở
Việt Nam ngày nay, cộng thêm với bất mãn của quần chúng đối với nạn tham nhũng
lan tràn, tình trạng bất công xã hội, khoảng cách giàu-nghèo quá lớn, và bất
mãn của nông dân trước hành động chiếm đất mà không có bồi thường thỏa đáng của
chính quyền đôi khi đẩy người ta vào tình trạng tuyệt vọng. Với những áp lực
ấy, chính quyền cộng sản như đang ngồi trên một thùng thuôc súng, nó có thể nổ
tung bất cứ lúc nào. Hiện tượng ”tức nước vỡ bờ” chỉ trong vòng 2 tháng đã làm
sụp đổ chính quyển độc tài ở Tunisia đầu năm 2011 là một đe dọa thường trực đối
với chế độ hiên hữu ở Việt Nam.
Lý do chính khiến chế độ CSVN tồn tại vì họ kiểm soát được phương tiện
đàn áp và dám sử dụng phương tiện ấy. Đó là lý do khiến cho cuộc tranh đấu của sinh viên Trung Quốc ở
Thiên An Môn năm 1989 và cuộc “cách mạng áo cà sa” (saffron
revolution) ở Miến Điện năm 2007 bị dập tắt, trong khi các đòi hỏi lật đổ
độc tài lai thành công ở Đông Âu.
Nếu không phải là nhà tướng số
và tin tướng số thì khó ai dám đoán chắc chính quyến CSVN còn tồn tại được bao
lâu, chỉ biết với những áp lực kể trên, nó không thể tồn tại mãi mãi dưới hình
thức này.
Áp lực thay đổi ở Việt Nam hiện
này chưa đủ mạnh để chính quyền chùn tay trong việc xử dụng phương tiên đàn áp,
nhưng không đủ mạnh không có nghĩa là nó cứ yếu mãi. Tương quan giữa cố gắng
duy trì nguyên trạng và áp lực thay đổi có ảnh hưởng hỗ tương. Quần chúng càng
bất mãn thì áp lực đàn áp hoặc thay đổi càng gia tăng, đến một lúc nào đó
khả năng kiểm soát phương tiện đàn áp và ý chí sư dụng phương tiện ấy sẽ kém đi.
Lúc ấy thay đổi sẽ đến, hoặc bằng thương thuyết và tương nhượng như trường hợp
Đông Âu, hoăc bạo loạn như trong “Mùa Xuân Á Rập.”
Hỏi:
Làm sao để có dân chủ thực sự ờ
Việt Nam?
Đáp:
Đây là một câu hỏi chính đáng
nhưng khó có câu trả lời khiến mọi người thỏa mãn. Vả chăng, nói thì dễ mà làm
thì khó. Tôi xin trả lời câu hỏi của ông trong tinh thần ấy và trong giới
hạn sự hiểu biết của tôi.
Hiện nay, Việt Nam đang sống
trong một chế độ độc tài, độc đảng; nghĩa là không có dân chủ. Muốn có dân chủ
thì trước hết phải gỡ bỏ chế độ ấy đi. Có 4 phương cách chính để thay đổi chế
độ. Cách thứ nhất là cải tổ từ bên trên, như ở Nga dưới thời Gorbachev, Đài
Loan dưới thời Tưởng Kinh Quốc. Cách thứ hai là bẳng điều đình, tương
nhượng (đôi khi xảy ra sau các cuộc biểu tình, xuông đường, và đàn áp), như ở
Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đại Hàn. Cách thứ ba là bẳng bạo loạn bộc
phát, lật đổ như ở Tunisia, Lybia, và Ai Cập. Cách thứ tư có thể, có thể thôi,
là bằng một cuộc nội chiến như đang xảy ra ở Syria.
Kinh nghiệm chuyển đổi thể chế
độc tài từ Đông Âu, qua Bắc Á dến Trung Đông cho thấy chuyển đổi qua phương
thức hòa bình dễ dẫn đến dân chủ hơn là qua bạo loạn vì bạo loạn, nếu kéo dài, thường tạo điều kiện
cho sự phát triển của những phong trào quá khích với những lãnh tụ quá khích.
Vì thế, tầm nhìn, khả năng, và sự chọn lựa của nhà lãnh đạo chính quyền đương
nhiệm cũng là yếu tố rất quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa.
Lật đổ hay thay thế được chế độ
độc tài không nhất thiết dẫn đến chế độ dân chủ. Dân chủ không phải là hậu
quả tự nhiên hay tất yếu của sự sụp đổ một chính quyền độc tài. Dân chủ cũng
không nhất thiết là kết quả của một cuộc bàu cử tự do. Đôi khi cuộc bàu cử
tự do sau cách mạng có thể dẫn đến một chính phủ do đại đa số bàu lên, nhưng
lại không phải là một chính quyền dân chủ, như trường hợp Iran dưới các
ayatollahs, và Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Muslim Brotherhood . Người ta gọi
hiện tượng này là dân chủ phi tự do (illiberal democracy). Hơn
nữa, dân chủ cũng không nhất thiết đưa đến một chính quyền hữu hiệu, một
điều kiện rất cần thiết của một quốc gia chậm tiến. Những gì xảy ra ở Ai
Cập và sự tê liệt của chính quyên Mỹ trong thời gian gần đây bắt nguồn từ đòi
hỏi của các chính trị gia quá khích là những trường hợp điển hình.
Việc xây dựng dân chủ sau thời
cộng sản là một công tác quan trọng và khó khăn chẳng kém gì việc lật đổ chế
độ. Vậy, thế nào là dân chủ, và dân chủ đòi hỏi những điều kiện gì?
Các học giả không đồng ý với
nhau về số điều kiện cần có của nền dân chủ. Có người đề nghị 8 điều kiện (như
Robert A. Dahl), có người đúc kết thành 3 điều kiện (như Georg Sorensen). Nói
chung, dân chủ đòi hỏi những yếu tố cốt lõi tối thiểu sau đây:
1.
Dân chủ, nói nôm na, là người dân phải làm chủ mình. Điều này có nghĩa là người
dân có quyền tham dự vào việc làm chính sách công (public policy) có ảnh
hưởng đến họ. Nhưng, trừ trường hợp trưng cầu dân ý, không phải lúc nào người
dân cũng có thể trực tiếp tham dự vào việc làm chính sách chung, cho nên họ
phải có quyền bàu người đại diện cho họ làm chuyện ấy. Việc này được thực hiện
qua thể thức bàu cử tự do.
2.
Trong cuộc bàu cử này, người dân phải có sự lựa chọn thực sự. Điều này có nghĩa
là phải có sự cạnh tranh giữa những người và tổ chức muốn đại diện cho
dân. Chế độ độc đảng không thể là một chế độ dân chủ.
3.
Dân chủ có nghĩa là chính sách
công phải phản ánh sự lưa chọn của đa số, nhưng quyền bất đồng chính kiến của
thiểu số phải được bảo vệ, vì khi hoàn cảnh hay nhu cầu thay đổi, phe thiểu số
hôm nay có thể trở thành đa số ngày mai. Điều này có nghĩa là các quyền căn
bản của người dân phải được luật pháp và thủ tục chính trị bảo vệ.
Để tránh lạc đường vào một nền
dân chủ phi tự do, ba điều kiện tối thiểu của một nền dân chủ đích thực là: bàu
cự tự do, cạnh tranh chính trị, và tôn trọng các quyền căn bản và bất khả xâm
phạm của người dân.
Lý thuyết là như vậy, nhưng làm
thế nào để áp dụng lý thuyệt ấy vào thực tế?
Đối với những quốc gia chậm
tiến về phương diên chính trị, thì trong lúc ban đầu, yếu tố quan trọng nhất là
tầm nhìn, bản lãnh, khả năng của các nhà lãnh đạo chính trị. Đó là lý do
tại sao cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ 1776, dù các nhà lập quốc không hoàn toàn đồng ý
với nhau về bản chất và quyền hạn của chính quyền liên bang, vẫn đem đến ngay
một nền dân chủ vững vàng, trong khi cuộc Cách Mạng Pháp 1789 phải trải qua một
thời kỳ cực quyền mới đi đến dân chủ. Gần đây hơn, cái nhìn sáng suốt và cải tổ
chính trị ngay trong nội bộ Quốc Dân Đảng của Tưởng Kinh Quốc đã giúp cho Đài
Loan chuyển đổi tương đối ôn hòa từ một chế độ độc tài sang chế độ dân chủ. Ở
Đại Hàn, cạnh tranh và tương nhượng giữa Roh Tae Woo, Kim Young Sam, và Kim Dae
Jung sau những cuộc biểu tình và đàn áp đẫm máu cũng giúp cho nước này đi từ
một chế độ độc tài sang dân chủ. Tiến trình này có thể đang xảy ra ở
Miến Điện.
Cuộc tranh đấu lật đổ chế đô
độc tài có nhiều triển vọng thành công hơn nếu phong trào chống đối được lãnh
đạo bởi một nhân vật có tầm vóc và trí tuệ, trung thành với quy luật dân chủ,
và được sự ủng hộ của quần chúng cũng như sự kính nể, dù miễn cưỡng, của một số
người lãnh đạo chính quyền độc tài, như Vaclav Havel ở Tiệp Khắc. Càng tốt hơn
khi nhân vật này được hậu thuẫn bởi một lực lượng có tổ chức và đoàn
kết, như Lech Walesa ở Ba Lan, Nelson Mandela ở Nam Phi, Kim Dae Jung ở Đại
Hàn. Sức mạnh của tổ chức không những chỉ quan trọng trong khi tranh đấu mà còn
ngay sau khi chính quyền độc tài bị lật đổ. Nếu những người hay tổ chức tranh
đấu cho dân chủ không đoàn kết , chia rẽ nhau, và không thu phục được sự ủng hộ
của quần chúng thì cuộc tranh đấu của họ dễ bị “cướp tay trên” bởi những thành
phần phản dân chủ.
Vì vai trò của nhà lãnh đạo lúc
đầu quan trọng như thế, họ thường được dân chúng thán phục và ủng hộ, và họ dễ
biến thể từ một nhà dân chủ thành một nhà đôc tài, nếu họ không tự chế và
không có lực lượng kìm hãm họ. Nước Mỹ có thể không có những cuộc bàu cử
Tổng Thống đều đặn như ngày nay nếu George Washington không cương quyết từ chối
mọi đề nghị ông tiếp tục ứng cử Tổng Thống khi nhiệm kỳ chấm dứt. Người ta cho
rằng sau khi đánh thắng quận Anh giành độc lập cho nước Mỹ, tướng George
Washington được toàn dân biết ơn và ngưỡng mộ đến nỗi họ có thể bằng lòng cho
ông làm vua nước này, nếu ông muốn.
Tuy yếu tố cá nhân lãnh đạo
quan trọng như thế, một nền dân chủ bền vững còn đòi hỏi nhà lãnh đạo
phải xây dựng định chế mạnh để nó có thể tồn tại sau khi mình rời chính
quyền và có khả năng duy trì ổn định chính trị dù dưới một nhà lãnh đạo
không xuất chúng. Đó là lý do tại sao Mustafa Kemal được ghi công là
người không những đã đem lại độc lập và canh tân cho Thổ Nhĩ Kỳ mà còn lập ra
một đảng chính trị, Đảng Cộng Hòa Nhân Dân (Republican People’s Party) và cho
phép sự thành lập một đảng đối lập, Đảng Cộng Hòa Cấp Tiến (Progressive
Republican Party) làm nền móng cho chế độ đa đảng tiếp tục sứ mệnh canh tân đất
nước sau khi ông qua đời.
Đó là những bài học lịch sử, nó
có thể giúp cho người ta tránh được những lỗi lầm. Đó là lý thuyết. Áp dụng lý
thuyết như thề nào để đem đến dân chủ đích thực và bền vững cho Việt Nam tùy
thuộc vào khả năng, tầm nhìn, và sự chọn lựa của các nhà tranh đấu cũng như của
các nhà lãnh đạo chính quyền đượng nhiệm.
No comments:
Post a Comment