Trần Trọng Ngà
Gửi cho BBC từ California, Hoa Kỳ
Cập nhật: 16:43 GMT -
thứ tư, 12 tháng 2, 2014
Mới đây trang web BBC đăng tải bài viết của tác giả Bill
Hayton về trận hải chiến Hoàng Sa.
Nhận thấy đây là bài viết có
nhiều chi tiết không đúng với sự thật, đồng thời nội dung lại thiếu tính cách
khách quan cần thiết của một bài viết trình bày một biến cố lịch sử quan trọng,
chúng tôi từ Ủy Ban Nghiên cứu trận Hải chiến Hoàng Sa (UBHS) thấy có trách
nhiệm cần nêu ra những sự kiện sau.
Các chi tiết không đúng sự thật trong bài viết kể trên
chính yếu là:
Đại Tá Đỗ Kiểm không phải là
“người có cấp bậc cao thứ ba trong hàng ngũ hải quân VNCH“ như bài viết nhắc đi
nhắc lại. Trong Quân chủng Hải quân (HQ) VNCH lúc bấy giờ, ngoài vị Tư Lệnh và
Tư Lệnh Phó, còn có nhiều cấp tướng lãnh khác cao cấp hơn Đại Tá Kiểm. Riêng
tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân lúc xẩy ra trận Hoàng Sa, dù Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó
không hiện diện, nhưng còn có Phó Đề đốc Tham Mưu Trưởng Hải Quân, cấp bậc cao
hơn Đại Tá Kiểm;
Vào buổi sáng ngày diễn ra cuộc
chiến, Tư Lệnh HQ, Đề đốc Trần Văn Chơn đang trên máy bay từ Sài Gòn đến Đà
Nẵng với dự tính sẽ trực tiếp theo dõi trận chiến. Rất tiếc khi ông đến nơi thì
cuộc chiến đã chấm dứt. Vì vậy không có cái gọi là “Ở sở chỉ huy đã có sự hoang
mang “ và sự kiện “ông Chơn đã yêu cầu phải có bằng chứng lịch sử về chủ quyền
của Việt Nam với quần đảo đó.”
Tương tự, cũng trong buổi sáng
ngày diễn ra cuộc chiến, Phó Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh phó HQ, cũng đang
trên đường bay từ Sài Gòn ra Đà Nẵng theo chỉ thị của Đề đốc Chơn để theo dõi
các diễn biến tại chỗ.
Vì vậy các từ ngữ “biến mất”,
“mất tích” trong bài viết của ông Hayton để chỉ việc không liên lạc được với
các cấp chỉ huy của HQ đã tạo ra sự ngộ nhận.
Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư
lệnh HQ Vùng 1 Duyên Hải, trú đóng tại Đà Nẵng, trực tiếp liên lạc với lực
lượng các chiến hạm HQ tham chiến là người đã ra lệnh nổ súng, không phải Đại
Tá Đỗ Kiểm.
Trên đây chỉ là một số trong
nhiều chi tiết không chính xác trong bài viết của ông Hayton. Các sai lầm này
chứng tỏ tác giả đã thiếu cẩn trọng trong việc sưu khảo tài liệu. Thay vì truy
tầm nhiều nguồn để tìm ra các sự kiện khách quan mà độ chính xác cao, ông
Hayton đã chỉ đọc một vài tài liệu (bằng tiếng Anh) trong đó tác giả trình bày
các sự kiện theo góc độ riêng tư, phiến diện, theo cảm quan và ký ức, không
được đối chiếu, phối kiểm.
Cũng vì khuyết điểm quan trọng
này mà tác giả bài “Thực hư hải chiến Hoàng Sa 1974” đã đi đến kết luận “trận
chiến là một thảm họa”. Ông Hayton không biết rằng mặc dù HQVNCH mất một chiến
hạm và 74 quân nhân đã hy sinh nhưng chính sự hy sinh sinh mạng và hao tốn
chiến cụ này đã là một chứng cớ cụ thể xác quyết quần đảo Hoàng Sa là của Việt
Nam và người Việt đã đổ máu để bảo vệ.
Đây là một bằng chứng thực tế
không thể hiểu sai, bên cạnh các bằng chứng về lịch sử và địa lý, để xác nhận
chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam mà Trung Cộng đã dùng vũ lực để
chiếm đoạt. Trong ý nghĩa đó, trận hải chiến Hoàng Sa là một chiến tích quan
trọng của dân tộc Việt.
Muốn biết thêm chi tiết về trận
Hải chiến Hoàng Sa, xin đọc “Hải Chiến Hoàng Sa 19-1-1974” do Ủy Ban Nghiên Cứu
Trận Hải Chiến Hoàng Sa biên soạn và ấn hành năm 2010, sau 5 năm nghiên cứu tài
liệu và thực hiện hơn 30 cuộc phỏng vấn các quân nhân Hải Quân VNCH, từ các sĩ
quan chỉ huy cao cấp đến các quân nhân tham chiến trận Hoàng Sa, cùng quân nhân
các quân binh chủng bạn, các chính khách VNCH đương thời và một số chuyên gia.
Bài giới thiệu tác phẩm này của tác giả Trần Bình Nam với
tên “Đọc cuốn Hải Chiến Hoàng Sa” cũng đã được đăng tải trên trang
mạng của BBC.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin
thông báo, để tránh tình trạng vì thiếu tài liệu bằng ngoại ngữ dẫn đến những
ngộ nhận tai hại như bài viết của ông Bill Hayton, Ủy Ban đang nỗ lực dịch cuốn
“Hải Chiến Hoàng Sa 19-1-1974” ra Anh ngữ, với dự tính sẽ hoàn thành trong năm
2015.
Tác giả là chủ tịch Ủy Ban
Nghiên Cứu Trận Hải Chiến Hoàng Sa, do các cựu quân nhân hải quân Việt Nam Cộng
Hòa thành lập
-------------------------------------------
Bill Hayton
Gửi từ Naypyidaw, Myanmar
Cập nhật: 13:14 GMT -
chủ nhật, 2 tháng 2, 2014
Nhân kỉ niệm lần thứ 40 vừa qua, đã có hàng loạt các bài
báo viết về trận hải chiến Hoàng Sa 19/1/1974 và lòng dũng cảm của quân Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH). Tuy vậy, lại có ít thảo luận về điều thực sự diễn ra trong
trận chiến.
Trong hàng thập niên, nó vẫn
được giữ kín, nhưng gần đây một vài cựu binh đã viết hoặc kể lại câu chuyện của
mình. Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã công bố một vài tư liệu quan trọng từ kho lưu
trữ. Gộp lại những thông tin đó, chúng kể ta nghe câu chuyện về những cá nhân
anh hùng bị làm hại bởi kế hoạch tác chiến kém, lãnh đạo tệ hại, và lực lượng
không cân sức.
Tháng 1/1974 là quãng thời gian
rất khó khăn cho Nam Việt Nam. Lệnh ngừng bắn, được thiết lập sau khi quân Mỹ
rút khỏi Việt Nam, đã sụp đổ, buộc chính quyền Sài Gòn phải tham chiến với một
nền kinh tế hầu như bị tê liệt. Sự kiện ở mấy mỏm đá ngoài khơi cách Đà Nẵng
350 dặm không phải là ưu tiên. Quân lính canh gác Hoàng Sa cũng không có đủ
nguồn lực lẫn chiến lược đúng đắn để tự bảo vệ.
Vào thứ Hai 14/1, một tàu thủy
của VNCH phát hiện hai tàu hải quân Trung Quốc đang thả neo gần đảo Hữu Nhật
(Robert), thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm trong quần đảo Hoàng Sa do Nam Việt Nam
chiếm giữ. Chỉ quen với việc đóng quân trên đất liền, quân VNCH đột nhiên phải
đối diện với nguy cơ chiến đấu trên biển. Ngay ngày hôm sau, 15/1, tổng thống
Thiệu đã trực tiếp đến thăm hải quân tại Đà Nẵng.
Hôm đó, Jerry Scott từ lãnh sự
quán Hoa Kỳ đã đề nghị Tư lệnh Hải quân vùng I duyên hải và là bạn tốt của
mình, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cho phép Gerald Kosh, một nhân viên dưới
quyền, được lên tàu đi Hoàng Sa.
Ông Thoại nhanh chóng đồng ý và Kosh đã có mặt trên tàu HQ-16. Con tàu này là một trong bảy chiếc tuần dương hạm cũ của Hoa Kỳ giao lại cho VNCH đầu những năm 1970. Mặc dù ra đời từ thời Thế chiến Đệ nhị, loại tàu này được trang bị những khẩu súng cỡ nòng lên tới 5 inch (127mm), tốt nhất trong cả lực lượng hải quân của VNCH. Kosh sau
đó đã viết một bản tường trình dài về trận chiến mà hiện đã được phép công bố.
Ngày hôm sau, 16/1, HQ-16 đưa
16 lính Biệt Hải của VNCH đến bảo vệ đảo Hữu Nhật. Nhưng quân Trung Quốc đã có
mặt trên đảo Duy Mộng (Drummond) và đảo Quang Hòa (Duncan) với lực lượng hỗ trợ
ở gần đó. Tất cả những thông tin này đều được khẩn báo về Đà Nẵng.
Ở sở chỉ huy đã có sự hoang
mang. Tham mưu phó Hải quân Đỗ Kiểm, người có cấp bậc cao thứ ba trong hàng ngũ
hải quân VNCH, đã đề nghị phải phản ứng nhanh và kiên quyết. “Nếu chúng ta hàng
động bây giờ thì có thể lấy lại được đảo,” ông Kiểm nhớ lại lời ông nói với tư
lệnh hải quân, Đề đốc Trần Văn Chơn. Thay vì thế, theo lời ông Kiểm, ông Chơn
đã yêu cầu phải có bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam với quần đảo
đó. Mấy giờ sau ông Kiểm đã phải tìm trong thư viện hải quân và phòng lưu trữ
chỉ để tìm các tài liệu.
Vào ngày thứ Năm, 17/1, 15 lính
Biệt Hải đổ bộ lên đảo Quang Ảnh (Money). Trong 7 hòn đảo thuộc nhóm đảo Lưỡi
Liềm, lúc đó 3 được quân VNCH chiếm giữ và 2 nằm trong tay quân Trung Quốc.
Thêm 3 tàu được vội vàng điều tới Hoàng Sa: HQ-5 (tuần dương hạm cũ của Mỹ),
HQ-4 (tàu khu trục USS Forster cũ, được trang bị súng cỡ nòng 3 inch) và HQ-10
(tàu quét thủy lôi cũ USS Serene của Hoa Kỳ, được cải biên thành tàu tuần tra).
Vào sáng thứ Sáu ngày 18/1, tất
cả 4 con tàu trên đã có mặt tại Hoàng Sa. Hải đội trưởng Hà Văn Ngạc quyết định
thể hiện sức mạnh bằng cách cho lực lượng đổ bộ xuống đảo Quang Hòa. Nhưng hai
tàu hộ tống Trung Quốc đã được điều động đến đó và ông Ngạc phải hủy kế hoạch.
Quân Trung Quốc thắng hiệp 1.
Vào tối thứ Sáu, mật tin đã
được gửi cho ông Ngạc từ Đà Nẵng. Một mệnh lệnh rất kì quặc: tái chiếm đảo
Quang Hòa một cách hòa bình. Ông Ngạc quyết định đổ bộ vào sáng hôm sau, thứ
Bảy ngày 19/1. Vào lúc 8.29, khi đội lính đi vào đảo, quân Trung Quốc nổ súng,
làm một lính VNCH thiệt mạng. Người thứ hai bị giết hại khi cố lấy lại xác đồng
đội. Quân thủy đánh bộ VNCH phải rút lui.
Ông Ngạc liên lạc về để tìm
mệnh lệnh. Trong trụ sở Hải Quân VNCH ở Sài Gòn, Đỗ Kiểm chạy đi tìm Đề đốc
Chơn. Ông ta biến mất. Một trợ lý bảo rằng ông Chơn đã ra sân bay để chuẩn bị đi Đà Nẵng. Ông Kiểm gọi cho phó của ông Chơn ở Đà Nẵng. Ông ta cũng biến mất, để ra sân bay đón ông Chơn. Ngay tại thời điểm mà số phận của Hoàng Sa đang ngàn cân treo sợi tóc, hai lãnh đạo tối cao của Hải Quân
VNCH đều mất tích. Cuối cùng, ông Kiểm là người ra lệnh nổ súng.
Vào lúc 10.29, hai giờ sau khi
hai lính thủy đánh bộ bị giết hại, 4 tàu của phía Việt Nam nổ súng vào 6 tàu
Trung Quốc.
Thật không may, súng trên tàu
HQ-4 lại bị hỏng và con tàu nhanh chóng bị trúng đạn bởi một trong hai tàu hộ
tống Trung Quốc. HQ-5 đã bắn trúng và làm hư hỏng nặng tàu hộ tống còn lại,
nhưng rốt cuộc nó cũng bị trúng đạn. Mười lăm phút sau, HQ-5 vô tình bắn trúng
tàu HQ-16. HQ-16 bị mất kiểm soát nguồn điện và bị nghiêng 20 độ. Sau đó tàu
HQ-5 lại bị trúng đạn, hỏng mất tháp pháo và hệ thống radio. Cuối cùng, tàu
HQ-10 nhỏ nhất đoàn, bị trúng tên lửa của quân Trung Quốc khiến cho đài chỉ huy
bị phá hủy và thuyền trưởng thiệt mạng.
Chỉ trong vòng một giờ đồng hồ,
mặc dù đã làm hư hỏng nặng hai tàu của Trung Quốc, đội tàu của VNCH hầu như đã
mất khả năng chiến đấu. HQ-10 bị chìm còn ba chiếc còn lại lê lết về được Đà
Nẵng.
Đánh giá một cách khách quan,
trận chiến là một thảm họa, tuy nhiên những lính quay trở về được chào đón như
những người hùng. Truyền thông Nam Việt Nam được kể lại rằng đội tàu VNCH đã
làm chìm hai tàu và ngăn cản được hạm đội Trung Quốc lớn hơn nhiều lần. Trận
chiến được thêu dệt ly kì như huyền thoại vào đúng dịp Tết. Nhưng trên thực tế,
đó lại là một thảm họa.
Nhà báo Bill Hayton, làm việc ở
BBC, là tác giả cuốn Vietnam: Rising Dragon (2010). Tác phẩm mới của ông về
tranh chấp Biển Đông, The South China Sea - dangerous ground, sẽ được xuất bản
năm nay bởi NXB Đại học Yale.
No comments:
Post a Comment