TƯỞNG
NIỆM CHIẾN TRANH VIỆT – TRUNG 1979
12-02-2014
NQL: Quê Choa đăng vội cả ba bài của
Đào Tuấn đăng trên Một thế giới
vì sợ chùm bài sẽ bị lột xuống. Làm báo thời lú lấp sao mà khổ thế hở trời,
muốn yêu nước cũng chẳng được.
------------------------
Tháng 2 năm nay, những cây đào Tổng Chúp, Hưng
Đạo, Cao Bằng bỗng dưng đỏ loét trong cái nắng trái mùa. Trên đồn biên phòng
Pha Long, Lào Cai, thật lạ, chỉ duy nhất một gốc đào đơm hoa. Còn ở pháo đài
Đồng Đăng, Lạng Sơn, những cây đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau
lách tùm lum của một pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.
Một số phận
Trong ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An,
Cao Bằng, bà Nguyễn Thị Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước ban thờ chồng, người
35 năm trước bất đắc dĩ trở thành “tù binh chiến tranh”.
Câu chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người
phụ nữ nhỏ nhắn run lên bần bật trước những hồi ức từ 35 năm trước. Chiến tranh
đã lấy đi của bà một đứa con. Và sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành
khi hàng đêm, hình ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như một
nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó
cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.
Sáng 17.2.1979, trời rất mù và lạnh. Từ thị trấn
Nước Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy loạn khi tiếng pháo của lính
Trung Quốc “như bom Mỹ rải thảm” khắp nơi. Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người
sản phụ khốn khổ đang mang thai đến tháng thứ 9 chỉ còn biết vác bụng lặc lè để
chạy.
“Cô chạy vào núi đá Mỏ Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy
sang Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo”. Đám người chạy loạn bị lính Trung
Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ tán khắp nơi. “Chúng nó đông lắm cháu ơi!
Đâu đâu cũng thấy lính Trung Quốc”.
Trong gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau
đẻ trong cái đói, trong cái rét, trong trời mưa lạnh, trong tối tăm mò mẫm.
Không một hạt gạo mang theo. Không một tấm chăn. Cả đám người đói khát, rét
mướt và lo sợ đến hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc
nhúc, vây hãm khắp nơi.
Những con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ
giọt gianh trong một tấm nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất cả những gì mà ban
đêm mấy người đàn ông mò mẫm được từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung
Quốc dựng trại.
Đến hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường
cuối cùng, hòa với vốc nước “để có sức mà đẻ”. Đứa con đầu lòng được sinh ra
trong hang đá nhưng 3 hôm sau thì qua đời.
Bia thảm sát tại Tổng Chúp, Hưng Đạo, Hòa An, Cao
Bằng. Bà Hậu, một người dân Tổng Chúc xưa từng cắp con chạy loạn bảo rằng: Bà
không thể quên những ngày tháng 2 năm ấy
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó
cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.
Những giọt nước mắt mờ đục lăn dài trên khuôn mặt “một ngàn nếp nhăn” tưởng
chừng đã không còn có thể đau khổ được nữa: “Lúc đó cô yếu quá, bỏ mấy đồng nhờ
một ông già mang cháu đi. Chắc vứt nó ở một đâu đó”.
Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2,
người chồng nửa đêm đi kiếm ước uống bị sa vào tay lính Trung Quốc. Ông bị giam
giữ cho đến ngày 3.6 và từ sau đó, những đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao
Bằng cho biết ông bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.
Còn bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái
chết bi thảm của đứa con đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất suốt 3 tháng. Tuyến
sữa viêm tắc khiến sau đó người phụ nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.
35 năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi
hình ảnh đứa con đầu lòng chết tím tái. “Đau xót lắm cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy
bảo nó không có nhà, lang thang ở một gốc cây nào đó”…
Không chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã
Cao Bằng lỗ chỗ tổ ong như vừa trải qua “một trận B52 mặt đất”, không còn thứ
gì cao quá 1m. Bách hóa tổng hợp, một biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến
không còn một viên gạch lành.
Chị Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao
Bằng, năm đó 9 tuổi, đến giờ vẫn không thể quên hình những xác người bị súng
phun lửa đốt cháy trên mặt đất. Khắp nơi.
Ông Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa
An nhớ lại: Đến ngày 20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn. Chiều 29.3.
Không một chiếc xe, không một người dân đi trên đường. Kho lương thực còn cháy
nghi ngút. Thị xã tan hoang khi lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật đổ
từng cây cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái gì không lấy được
thì phá hết.
Khi giặc đến nhà
Ngày 17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng
quân sự chính quy lên tới 60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp chiều dài
1.200 km biên giới 6 tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính là một trong những trọng
điểm đánh phá của quân đoàn 41A với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.
Theo nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên
cứu đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của Trung
Quốc phụ thuộc phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.
Nhưng hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong
vòng 24 tiếng. Khu vực đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó
khăn lớn. Việc đi chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn
cuộc tấn công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này
ở mạn phía đông và nam.
Trong một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương
Danh Hy dịch ra tiếng Việt ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng
Tiểu Bình đã xác nhận đó là cuộc chiến "giết gà đã phải dùng dao mổ
trâu". Cụ thể “vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao
Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng
đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”.
Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với
tàn phá như vậy?
Trang mạng quân sự milchina.com của Trung
Quốc 3 năm trước đã cho đăng thư của một cựu chiến binh Trung Quốc từng
tham gia chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải thích lý do: "Mục đích của cuộc chiến tranh này là
tàn phá, hủy hoại quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ,
nên sau hai ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành mệnh lệnh bán
chính thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây ngọn
cỏ”.
[Cho
đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng,
không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước mắt. Bao
đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người
lính.]
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao
Bằng giai đoạn 1979-1992 nhớ lại: Bấy
giờ, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm và vấn đề người Hoa đã khá căng thẳng,
nhưng không ai nghĩ là chiến tranh xảy ra. Chủ trương của ta là đưa thanh niên
ra biên giới tổ chức các lâm nông trường. “TƯ xác định cũng phải đề phòng,
nhưng là phòng xích mích biên giới thôi”- ông Tường nói.
Tỉnh ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ
đội về một số xã để củng cố đội ngũ cán bộ. Quân đội không có ở Cao Bằng. Lực
lượng công an vũ trang chỉ có ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả
thị xã bấy giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương (E567), nhưng cũng chủ
yếu là làm kinh tế. Đến đội ngũ dân quân tự vệ, “có thì có đấy, căng thì
căng như thế nhưng đã được phát súng đâu”. Thậm chí khi chiến tranh đã nổ ra,
có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng chưa có quân”.
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao
Bằng
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng, thời điểm
1979 đeo quân hàm trung sĩ, tiểu đoàn 40 Bộ đội địa phương còn nhớ như in là
khi xe tăng Trung Quốc vượt cầu Sông Hiến vào đến tận dốc Nà Toòng, đại đội 3
phòng không của trung đoàn 567 phải thay đạn, chúc nòng pháo 37 ly xuống để bắn
xe tăng bằng đạn xuyên.
Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên
chạy bộ đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.
“Chúng tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận
địa”, ông Hùng nói, “về sau, khi lính Trung Quốc lên quá đông, đơn vị đã phải
tháo súng (pháo) để rút”.
Theo Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới
chiếm được Cao Bằng sau khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt
Nam cố thủ. Nhưng sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng đã ngáng trở kế hoạch ban đầu
của Trung Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.
Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với
xe tăng và pháo binh yểm trợ?
“Dân Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng
đánh, gặp đâu cũng đánh, ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh. Chặn khắp
nơi”- ông Vương Dương Tường nói.
Ở Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm
cựu binh vẫn tự tập hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt được cái gì thì đánh
được bằng cái đó. Ở Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch
như vậy.
Người Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại.
Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu
hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn
vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tháng 2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh
sập năm xưa, một siêu thị mới đã được dựng lên, cho dù người Cao Bằng vẫn gọi
đó là Tổng Hợp Đổ.
Còn người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu chuyện,
bỗng bất ngờ hỏi lại chúng tôi: “Sao các cháu không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy
cô không đi tìm một cây súng? Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: “Năm xưa, cô
phải chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng đến anh em đồng
chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già yếu
không đánh được, những đứa con của cô sẽ cầm súng".
Con gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau
đó nói sẽ đưa chúng tôi vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn nhiều người
biết đến những gì xảy ra tại Tổng Chúp 35 năm trước, dù theo lời cô bé:
"nơi đó giờ đã hoang vắng lắm rồi anh ạ”.
*
*
Bài 2: "Đồng chí với nhau, ai nghĩ sẽ đánh nhau"
Đào
Tuấn
“Ai
cũng chỉ nói chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi.
Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi. Chứ anh em đồng
chí, ai nghĩ là sẽ đánh nhau”- 35 năm sau, nguyên Bí thư tỉnh Cao Bằng vẫn còn
khắc khoải câu chuyện xảy ra năm 1979.
Trận tập kích bất ngờ
Ở Bát Xát, Lào Cai, khi pháo Trung Quốc bắt đầu bắn
sang từ phía bên kia biên giới, ông Nguyễn Văn Tuyến, đại đội trưởng tự vệ Đoàn
địa chất 305 (Đoàn 5) đang ở Bản Vược, ngay trong tầm súng trường lính Trung
Quốc.
“Chúng tôi vẫn pha trà uống. Chiến sự vẫn liên miên
từ trước đó, đêm nào cũng có tiếng súng, cho nên không ai ngờ Trung Quốc đánh
lớn”- ông nói.
Chỉ trước khi cuộc tấn công diễn ra 48 tiếng, cả dân
lẫn lính Trung Quốc vẫn “sang bên này xem chiếu bóng bình thường".
Ông Tuyến từng là lính trong chiến tranh với Mỹ, sau
chiến tranh làm Phó Chủ tịch HĐND huyện Bát Xát, nhớ lại: "Khi pháo Trung
Quốc chuyển làn, ông mới giật mình hô anh em vì cảm giác rằng bộ binh Trung
Quốc sẽ sang. Mấy người hoảng hốt chạy ra đến đến ngã ba Bản Vược thì khắp nơi
đã tràn ngập màu áo lính đang vận động từ phía trong ra điểm chốt của công an
vũ trang. Chúng tôi tưởng bộ đội mình đã lên ngay thành thử súng cầm trong
tay mà không bắn”.
Từ trong hậu phương, lính Trung Quốc tiến đánh từ
phía sau đồn công an vũ trang và chốt tự vệ địa phương. Hỏa lực từ bên kia biên
giới bắn sang như mưa rào. Đơn vị ông Tuyến cơ động ra đến chốt Cây 2 thì bị
một khẩu đại liên chặn lại. Bấy giờ, anh em vẫn có người giơ súng, giơ cờ vẫy
ra hiệu vì vẫn tưởng bộ đội mình bắn nhầm.
Chỉ một lát sau đó, từ khu vực bản Xèo, lính công
binh Trung Quốc lao cầu phao và sau đó xe tăng Trung Quốc tiến sang. “Họ đã
chuẩn bị sẵn hết rồi. Cây cầu phao thả ra trôi theo dòng nước là áp khít sang
bờ bên này”, lời ông Tuyến.
Tự vệ bản Xèo hy sinh vô số kể. “Chúng tôi chỉ được
trang bị trung liên và súng K63. Không có vũ khí chống tăng”- ông Tuyến nói.
Ông Nguyễn Mạnh Tường, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh
Bát Xát thời điểm tháng 2.1979 đang là lính sư đoàn 316, một trong hai sư đoàn
chủ lực duy nhất hiện diện ở biên giới phía Bắc.
Sáng đó, đang ở Than Uyên, đơn vị ông có lệnh báo
động. Ai cũng tưởng chỉ báo động hành quân dã ngoại, thành thử “có người chỉ
mang theo một quả đạn, có người trút lại tượng gạo, và có người, chỉ mang độc
một bộ quần áo trên người”.
Đơn vị ông Trường hành quân lên đến Sapa thì những
người lính mới biết chiến tranh đã xảy ra, và sau đó chạm địch ngay tại đèo Ô
Quy Hồ. 218 đồng đội của ông đã hy sinh trong trận đánh đó.
Bát Xát là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” với
những địa danh anh hùng và đau thương: A Mú Sung, Y tý.
Những người lính biên phòng A Mú Sung trong ngày 17
tháng 2 năm ấy, đã đánh đến viên đạn cuối cùng và hy sinh oanh liệt.
Một góc pháo đài Đồng Đăng
Cú đánh trộm của "người anh em"
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng nhớ lại,
trưa ngày 17, khi một người dân chạy đến đơn vị báo tin xe tăng Trung Quốc đã
vào đến Nước Hai, Hòa An, thủ trưởng của ông còn lệnh cho lính "trói nó
lại” vì cho rằng người này phao tin đồn nhảm.
Vì sao quân dân ta lại bị bất ngờ trước một cuộc tấn
công toàn tuyến với quy mô 32 sư đoàn?
Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương Tường, nhớ lại ở
Cao Bằng hôm ấy, quân khu còn đưa các chỉ huy quân sự tỉnh về họp. Không ai
biết Trung Quốc đánh mình. Ngay cả khi tiếng súng đã nổ vang từ hướng Hà Quảng,
Thông Nông, trưởng ty Thủy lợi băn khoăn nói tiếng súng nhiều lắm, không biết
súng ta hay súng địch. Một lãnh đạo Cao Bằng khi đó nói anh em cứ yên trí. Đó
là súng mình.
Ông Tường thừa nhận: "Cơ bản nhất là bấy giờ
không ai tin anh em đồng chí lại đánh nhau", ông Tường nói.
Cao Bằng bấy giờ vừa tách tỉnh. Đến 1 giờ đêm, pháo
Trung Quốc bắn phá dồn dập. Sáng ngày 17.2, lính Trung Quốc đã đến chân đèo
Minh Tâm. 2 tiếng sau, xe tăng chúng đã vào đến Cao Bình, rồi vào đến Nà Tàu.
Pháo binh Trung Quốc dồn dập nã xuống Nà Tản.
Ngày 18.2, lính Trung Quốc đã vào đến Hòa An, Cao
Bình. Đến ngày 19, khắp nơi đã bị đốt phá giết chóc.
“Ai cũng nghĩ là chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng
chỉ xác định là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen
ghét thế thôi, ai nghĩ là sẽ đánh nhau” - ông Tường nói, và theo ông, 35 năm
sau vẫn chưa hiểu nguyên nhân câu chuyện đã xảy ra.
Cho đến năm 1992, khi các cơ quan của Bát Xát, Lào
Cai từ Mường Vi trở lại Bản Xèo thì “vẫn chỉ có cỏ may và đất đỏ”.
Chúng tôi trở lại Đồng Đăng, Lạng Sơn vào đúng ngày
lễ Đền Mẫu, lễ lớn nhất Lạng Sơn, nằm ngay dưới chân pháo đài Đồng Đăng.
Từ 35 năm nay, mỗi dịp tháng hai, đại tá Triệu Quang
Điện, Trưởng phòng cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn vẫn đến đây thắp
hương tưởng nhớ những người đồng đội của mình.
Ông Điện được phong Anh hùng lực lượng vũ trang sau
cuộc chiến tranh biên giới 1979, và sau 35 năm, ông vẫn nhớ như in những cái
tên Trần Văn Thái, Vi Văn Cao, những người đồng đội trong tổ tam tam và bữa
cháo cơm nếp cuối cùng đêm 16.12.
*
*
Bài 3: Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu đỏ
Đào Tuấn
Từ 35 năm nay, vào dịp tháng 2 mỗi năm, Đại tá Triệu Quang Điện, trưởng
Phòng Cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn đều đến đền Mẫu để thắp hương cho
đồng đội của mình.
35 năm, thời gian chưa đủ để ông quên đi bữa cháo
nếp cuối cùng. 35 năm, ông vẫn nhớ như in hình ảnh của những người đồng đội
trong tổ tam tam: Những Trần Văn Thái. Những Vi Văn Cao.
Pháo đài Đồng Đăng và pháo hoa Trung Quốc
Năm đó, binh nhì Triệu Quang Điện vừa cưới vợ được 4
tháng, cũng vừa qua khóa huấn luyện 4 tháng ở Đông Khê, trở lại Lạng Sơn vào
đúng buổi chiều ngày 16, khi phía Trung Quốc cho người đuổi trâu dò phá những
bãi mìn biên giới.
5h sáng, khi pháo bắn cấp tập vào Đồng Đăng, ông
cùng hai người đồng đội trong tổ thậm chí còn chưa kịp ăn nồi cháo gạo nếp đã
đặt trên bếp để vội vã xách súng lên chốt ngay tại khu vực Đền Mẫu, pháo đài
Đồng Đăng.
Tới 7h, sương còn chưa tan thì lính Trung Quốc đã
kéo sang khắp nơi. Ba người kê súng bắn. Ông Điện, giữ súng trung liên bắn suốt
1 giờ đồng hồ.
“Hồi huấn luyện, tôi bắn bia được 3 điểm 9 - ông
Điện nhớ lại - nhưng hôm đó, lính Trung Quốc lên quá đông, có lẽ là không cần
bắn giỏi cũng có thể trúng”. Riêng tại chốt Đền Mẫu, binh nhì Điện đã
tiêu diệt tới 30 lính Trung Quốc.
Lính Trung Quốc cứ theo tiếng kèn lớp lớp xông lên.
Bị hắt ngược trở lại, rồi lại xông lên.
Trong một thời khắc, khi ông vừa nhảy xuống hào thay
đạn thì chỉ nghe “bầm”. Ngoảnh lại, nơi 2 người đồng đội nằm chỉ còn lại một hố
pháo đen xì. Không còn chút vết tích.
Tới 10h, xe tăng Trung Quốc đã tràn ngập khắp nơi.
Pháo binh Trung Quốc nã đạn vào pháo đài trong suốt nửa ngày 18.
Bấy giờ trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của
ông Điện có tới 300 - 400 dân tới tránh pháo.
Đến tối 18, đơn vị ông nhận được phương án đưa dân
trong hang ra. Và chỉ trong một đêm, binh nhì Triệu Quang Điện trực tiếp đưa
dân, ra ra vào vào 3 lần để cõng được ra 3 người đồng đội bị thương nặng.
Khẩu trung liên của ông giờ đang được trưng bày tại
Viện Bảo tàng công an nhân dân.
Bia
trấn ải ở Pha Long, Mường Khương, Lào Cai
Ít năm sau đó, khi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong
một buổi lễ, ông thậm chí không trả lời được vì sao chỉ trong 1 đêm, với quãng
đường 17km, một người chỉ nặng chưa tới 49kg đã 3 lần bò vào cõng đồng đội bị
thương ra nơi an toàn.
Chúng tôi theo lối mòn trèo lên pháo đài Đồng Đăng,
nơi bị đánh phá ác liệt nhất trong cuộc chiến biên giới.
Vào ngày 17.2.1979, 2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc
dưới sự hỗ trợ của 1 trung đoàn xe tăng và 6 trung đoàn pháo binh đã tấn công
ác liệt nơi này.
Trong cuốn Lịch sử sư đoàn 3 Sao Vàng còn ghi rõ:
Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi
được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính,
dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm
thiệt mạng cả thương binh và nhân dân tới đây trú ẩn.
Tháng 2 năm nay, pháo đài trở nên cô đơn, trơ trọi
giữa sự náo nhiệt của lễ hội Đền Mẫu.
Hoặc như ở chính cái nơi mà lính Trung Quốc xả súng
vào chiếc xe cứu thương 12A 04-35 của bệnh viện Lạng Sơn đi Đồng Đăng cứu nhân
dân bị thương, giết chết cả người lái xe, cả BS Nguyễn Thu Thủy, y tá Trịnh Thị
Sâm, giờ một con đường mới đã được mở ra dập dìu xe cộ, hàng hóa thông thương
qua cửa khẩu Hữu Nghị.
Ở Tổng Chúp có tấm bia ghi bại vụ thảm sát này. Tấm
bia giờ vẫn còn sau 35 năm, dù chiếc giếng cạn, nơi năm xưa chứa đầy xác phụ
nữ, trẻ em bị hành quyết bằng rìu bổ củi giờ đã lấp đầy cây lá.
Quá khứ không dễ quên. Nhất là khi đó là những gì
đau thương nhất. Cho dù theo thời gian, những nhân chứng chiến tranh giờ đã lần
lượt ra đi. Ông Hoàng A Tỉn, nhân chứng thảm sát trong sân Bách hóa tổng hợp
Bát Xát đã mất 2 năm trước.
Đến Tổng Chúp, lại nghe tin ông Nông Văn Ất, nguyên
trưởng trại giống Đức Chính, người đã mất vợ và 4 đứa con trong vụ thảm sát
Tổng Chúp giờ cũng không còn.
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long
Nhưng cũng có những tấm bia trấn ải mới được dựng
lên. Ngay bên tay phải đồn biên phòng tiền tiêu Pha Long, Mường Khương, Lào
Cai, có những dòng chữ mới, được in trên bia đá:
Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non
Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.
Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng
Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an
Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ.
Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh dịch: Nguyên Thần được
giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn
nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm (điều đó). (Có) rồng phượng
tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây.
Thiếu tá Phan Đức Mạnh, chính trị viên đồn Pha Long
cho biết tấm bia trấn ải vừa được dựng hồi tháng 5, đúng vào điểm đối diện đài
tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Bên này từng hàng, từng hàng tên tuổi của 37
liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc được khắc chìm trong
đá xám.
Năm ấy, những chiến sĩ công an vũ trang còn trẻ măng
đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đã đâm gẫy đến chiếc lưỡi lê cuối cùng để bảo
vệ tổ quốc.
Ngày 17.2.1979, sau khi bắn viên đạn cuối cùng, một
người lính Pha Long đã gửi bức điện cuối cùng về hậu phương. Và cũng chỉ vài
chữ, đại ý: Chúng tôi hết đạn. Xin Vĩnh biệt.
Chợt nhớ đến những câu thơ Vương Trọng:
Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng
Gặp điệp khúc Tháng Hai năm Bảy chín
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long.
…
Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Vì sao đường Biên giới bản đồ
Của Tổ quốc được tô màu đỏ!..
Năm nay, chỉ duy nhất một, trong số gần bảy chục gốc
đào ở Pha Long đơm hoa.
Không xa Pha Long là điểm cao Tả Ngải Chồ, nơi một
đồng nghiệp của chúng tôi, nhà báo, anh hùng liệt sĩ Bùi Nguyên Khiết đã tay
bút tay súng hy sinh vào ngày 17.2.1979.
Có lẽ, chính những người lính biên phòng, chính
những nhà báo liệt sĩ, chính nhân dân anh hùng, những người đã ngã xuống từ cả
ngàn năm nay, những người đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh chống quân
xâm lược phương Bắc năm 1979 mới là những tấm “bia trấn ải” thiêng liêng nhất
mà mỗi người làm báo chúng tôi cần phải nhắc lại để thế hệ con cháu còn có được
cảm xúc thiêng liêng, tự hào khi nhắc đến hai chữ “Tổ Quốc”.
Đào
Tuấn
No comments:
Post a Comment