GS Lê Xuân Khoa
Không có một chủ nghĩa chính trị nào là chân lý tuyệt
đối. Mọi học thuyết hay chủ nghĩa do con người lập ra, dù của những đầu óc siêu
việt đến đâu, cũng chỉ có giá trị tương đối trong những hoàn cảnh xã hội nhất
định, hoặc chỉ có một số yếu tố tồn tại với thời gian vì chúng phản ánh những
nguyên lý cơ bản về đạo đức và trí tuệ của loài người… Bởi vậy, bất cứ một học
thuyết hay chủ nghĩa chính trị nào tự tuyên dương mình là chủ nghĩa duy nhất có
giá trị vĩnh viễn thì sẽ hoàn toàn sai lầm, và sẽ gây nên hậu quả vô cùng tai
hại. Đúng như một câu danh ngôn đã nói: “Làm thầy thuốc mà lầm thì có thể giết
chết một bệnh nhân, làm chính trị mà lầm thì có thể giết hại một dân tộc, làm
văn hoá tư tưởng mà lầm thì có thể giết hại nhiều thế hệ.” Độc tôn về chính trị
và tư tưởng sẽ đưa đến độc tài, bắt mọi người phải tuân phục một chủ nghĩa duy
nhất và một chế độ duy nhất, loại trừ tất cả những người có những suy nghĩ khác
biệt. Rốt cuộc, vì sai lầm chồng chất, các chế độ độc tài đều sẽ phải sụp đổ.
Điều này đã được chứng minh quá rõ ràng qua kinh nghiệm của nhiều nước độc tài
trên thế giới, cộng sản hay không cộng sản, trong những thập niên vừa qua.
….
Quyền lực và lợi lộc nếu biết chia sẻ thì nhà cầm quyền
vẫn có phần một cách chính đáng. Quyền lực và lợi lộc không thể mãi mãi giữ độc
quyền, và điều chắc chắn là không thể đem theo sang thế giới bên kia. Đã có
nhiều trường hợp cho thấy hậu quả tai hại xảy ra cho những chế độ độc tài, cộng
sản hay không cộng sản, trong khi những người cầm quyền còn tại chức. Thành
tích tốt hay xấu của những người lãnh đạo sẽ được nhân dân đánh giá công minh
và được lịch sử ghi chép thành văn hay truyền khẩu cho đến muôn đời sau. Có
những nhà lãnh đạo nào đã tự hỏi mình: Nên để lại tiếng thơm hay tiếng xấu cho
hậu thế? Bách thế lưu phương hay Lưu xú vạn niên?
*
*
Khi kiểm điểm các sự kiện lịch sử trong hơn
nửa sau của thế kỷ XX như đã được trình bày trong sách này, ngoài việc nhận
biết được những quyết định sai lầm và những cơ hội bỏ lỡ của những nhà lãnh đạo
chính trị và quân sự Pháp, Hoa Kỳ, Việt Nam cộng sản và Việt Nam quốc gia,
chúng ta còn có thể rút ra được nhiều kinh nghiệm và bài học thực tế về các
chính sách đối nội và đối ngoại của mỗi phe liên hệ. Vì mục tiêu giới hạn của
cuốn sách, tác giả sẽ chỉ chú trọng đến những bài học có lợi ích cho Việt Nam
trong hiện tại và tương lai. Thật ra, những bài học này không hoàn toàn mới lạ
vì đều là những sự thật khá hiển nhiên, nhưng những sự kiện và trường hợp chúng
xảy ra hay được áp dụng ở Việt Nam là những kinh nghiệm mới có hiệu lực cảnh
giác rất mạnh mẽ.
Các nhận định đúc kết cuốn sách này được
tập trung vào ba bài học lớn:
1. Trong quan hệ quốc tế, chỉ có lợi ích
quốc gia là quan trọng hơn cả.
Cũng như trong sự giao thiệp giữa các cá
nhân, quyền lợi vị kỷ hay gia đình của mỗi người luôn luôn là ưu tiên được bảo
vệ, mọi hình thức liên minh giữa các quốc gia đều chỉ tồn tại chừng nào
mỗi thành viên còn thấy sự hợp tác đó có lợi ích cho xứ sở của mình, cả hai phe
quốc gia và cộng sản ở Việt Nam đều đã trải qua nhiều kinh nghiệm đắng cay
trong sự giao thiệp với các đồng minh của mình.
Quan hệ Nhật-Việt: Ở
những thập niên đầu thế kỷ XX, Nhật Bản được giới sĩ phu Việt Nam coi là tấm
gương sáng cho các dân tộc Á châu, đặc biệt là ba nước Đông Dương muốn độc lập
và tiến bộ và có khả năng ngăn chặn sự lấn át của các đế quốc thực dân Tây
phương. Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng là một sách lược then
chốt trong mưu đồ chống Pháp. Trước khi đem quân vào Đông Dương, Nhật đã huấn
luyện cho Việt Nam Kiến Quốc Quân do Hoàng thân Cường Để thành lập vào cuối thập
kỷ 1930. Mặc dầu đạo quân này đã cùng quân Nhật tấn công Pháp trong trận Lạng
Sơn vào tháng Chín 1940, Nhật đã mau chóng bỏ rơi Cường Để khi thấy cần duy trì
tình trạng ổn định về hành chánh dưới một chính quyền Pháp bại trận ở Đông
Dương. Tới năm 1943, với chủ trương liên kết các dân tộc Á châu để thực hiện
mục tiêu Đại Đông Á, Nhật trở lại ủng hộ các nhóm chính trị hoạt động với Việt
Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội nhằm chuẩn bị đưa Cường Để về nước thay thế cho Bảo
Đại. Nhưng, như đã trình bày ở chương Một và chương Mười trên đây, sau cuộc đảo
chính lật đổ Pháp ngày 9.3.1945, Nhật lại bỏ rơi lá bài Cường Để và cũng không
muốn cho Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng vừa để tránh tiếng là dùng người thân Nhật
dù chống Pháp, vừa muốn làm việc với một học giả yêu nước ôn hoà là Trần Trọng
Kim hơn là một chính khách quốc gia cực đoan như Ngô Đình Diệm.
Quan hệ Trung-Việt: Trong gần hết nửa đầu thế kỷ XX, Trung Hoa là nơi lánh
nạn an toàn của những nhà cách mạng Việt Nam chống Pháp, thoạt tiên là các sĩ
phu thuộc phong trào cần vương, kế đó là thành phần các khuynh hướng chính trị
khác nhau nhưng đông nhất là đảng viên của việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi
nghĩa Yên Bái bị thất bại năm 1930. Nhiều người đã trở thành sĩ quan cấp tướng
trong quân đội Trung Hoa trong khi vẫn tiếp tục tranh đâu cho nền độc lập của
tổ quốc. Lý do Trung Hoa mở rộng vòng tay đón tiếp các nhà cách mạng Việt Nam
là vì lòng thù ghét sẵn có đối với Pháp và các nước Tây phương, từ cuộc Chiến
tranh Nha phiến (1839-1842) cho đến vụ nổi loạn “phù Thanh diệt Ngoại” của
Nghĩa Hòa Quyền (1898-1901) khiến cho triều đình nhà Thanh phải ký các hiệp ước
nhượng địa và bồi thường chiến tranh cho Anh, Pháp, Đức, Nga. Khi Tưởng Giới
Thạch lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Nhật từ 1937 đến 1945, ông lại cần đến sự
hợp tác của các thành phần Việt Nam yêu nước chống cả Pháp lẫn Nhật. Bởi vậy,
trong những phiên họp với Tổng Thống Roosevelt vào những năm 1943-1944, ông đã
hoàn toàn ủng hộ chủ trương giải thoát các thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Ông
còn từ chối đề nghị của Roosevelt giao cho Trung Hoa bảo trợ các dân tộc Đông
Dương, vì mối quan tâm lớn nhất của ông trong những năm cuối Đệ Nhị Thế chiến
là phải chiến đấu một mất một còn với Mao Trạch Đông sau khi Đồng Minh thắng
Nhật. Để đạt được mục tiêu lâu dài đó, Tưởng Giới Thạch muốn các nước ở phía
Nam Trung Hoa, nhất là Việt Nam, biết ơn ông và trở thành những quốc gia độc
lập chống cộng sản. Cũng vì thế, Trung Hoa Quốc Dân Đảng, qua Tổng đốc Quảng
Tây Trương Phát Khuê, đã tập họp các lãnh tụ cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa năm
1942 để thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội và giúp cho các phương tiện
hoạt động tình báo và du kích chống Nhật.
Năm 1945, quân đội Trung Hoa vào Việt Nam,
ngoài nhiệm vụ thay mặt Đồng Minh giải giới quân đội Nhật còn có mục đích thành
lập một chính phủ quốc gia thân Trung Hoa. Tuy nhiên, như đã thấy ở các chương
Một và Hai, các tướng Lư Hán và Tiêu Văn, vì quyền lợi và tham vọng riêng và
cũng vì khả năng yếu kém của các đảng phái quốc gia Việt Nam, đã ép buộc lãnh
tụ các đảng này phải tham gia vào một chính phủ liên hiệp do Hồ Chí Minh lãnh
đạo. Trong khi đó, chính phủ Trùng Khánh được Pháp điều đình và trả lại các
nhượng địa bị Pháp chiếm giữ và khai thác từ Chiến tranh Nha phiến, quyết định
bỏ ý định ủng hộ nền độc lập của việt Nam. Tưởng Giới Thạch lúc đó hẳn đã nghĩ
rằng lực lượng quân đội Pháp có thể dẹp tan được Việt Minh và một Đông Dương
thuộc Pháp sẽ đem lại an toàn cho miền Nam Trung Hoa hơn là những nước nhỏ đang
gặp nhiều khó khăn trong những nỗ lực giành lại nền độc lập. Vì lợi ích quốc
gia, Quốc Dân Đảng Trung Hoa không ngần ngại bỏ rơi các chiến hữu Việt Nam đã
gắn bó với mình trong suốt mấy chục năm.
Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam với
Trung Quốc trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ-VNCH còn cay
đắng hơn nhiều. Tình đoàn kết quốc tế giữa các nước theo chủ nghĩa cộng sản
tưởng như sẽ đời đời bền vững nhưng rốt cuộc, vì quyền lợi riêng của mỗi nước,
vẫn tan rã và có khi trở thành thù địch như trường hợp Liên Xô-Trung Quốc,
Trung Quốc-Việt Nam và Việt Nam-Khmer Đỏ. Sau khi thống nhất Trung Quốc vào
cuối năm 1949, Mao Trạch Đông bắt đầu xác định cho Trung Quốc vai trò “hậu
phương lớn” nhằm khích động và hỗ trợ cách mạng vô sản ở các nước Á châu mà
Stalin đã giao cho Mao lãnh đạo để thực hiện chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Đó là
lý do khiến cho Mao hết lòng trợ giúp mọi mặt cho VNDCCH trong cuộc chiến tranh
chống Pháp. Tuy nhiên, trước tình trạng kiệt quệ về kinh tế do gánh nặng của
hai cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, lại bị cô lập và bao vây bởi thế giới
tư bản nhất là sau cái chết của Stalin đầu năm 1953, Trung Quốc quyết định trở
về với chủ trương “Trung Quốc trên hết” và áp dụng đường lối “ngoại giao nụ
cười” với các nước Tây phương. Do đó, Chu Ân Lai đã giúp cho Pháp gỡ được thế
bí ở Hội nghị Genève bằng hiệp định ngưng bắn 1954 và ép Hồ Chí Minh phải chấp
thuận chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17. Trung Quốc chỉ trở lại giúp cho VNDCCH
trong cuộc chiến tranh chống Mỹ từ những năm 1960 khi thấy Mỹ là mối đe dọa lớn
cho Trung Quốc đồng thời muốn giành lấy vai trò lãnh đạo cộng sản quốc tế sau
khi kết tội Liên Xô theo “chủ nghĩa xét lại.” Sau những vụ đụng độ ở biên giới
với Liên Xô năm 1969, Trung Quốc quay sang hoà giải với Mỹ, tạo thế quân bình
tam cực quốc tế bằng chuyến đi thăm Bắc Kinh của Tổng thống Nixon năm 1972. Sau
đó, Hà Nội nghiêng hẳn về phía Mat-scơ-va trong khi Bắc Kinh gia tăng xây dựng
cho Khmer Đỏ. Sau 1975, mâu thuẫn Việt-Trung càng ngày càng lớn và bùng nổ
thành trận chiến 16 ngày vào đầu năm 1979.
Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam đã tái lập
quan hệ bình thường từ 1991 do nhu cầu đoàn kết để tồn tại của những thành trì
cộng sản cuối cùng, mâu thuẫn vì quyền lợi quốc gia giữa hai nước vẫn khi ẩn
khi hiện và Trung Quốc vẫn còn là một mối đe dọa thường trực. Cuộc tranh chấp
về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có nguy cơ trở thành một cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng về ngoại giao và quân sự giữa nhiều nước trong khu
vực, đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc
Quan hệ Pháp-Việt. Sau gần một trăm năm cai trị ba xứ Bắc Phi (An-giê-ri,
Tuy-ni-di và Ma-rốc) và ba xứ Đông Dương dưới chế độ thuộc địa và bảo hộ, các
chính phủ Pháp đã có thói quen coi những nước nhỏ yếu này là thuộc về nước
Pháp. Chính vì não trạng đó, khi “mẫu quốc” bị Đức Quốc xã chiếm đóng, tướng de
Gaulle từ Luân-đôn đã kêu gọi dân chúng Pháp không nên lo ngại trong công cuộc
chiến tranh giải phóng. Ông nhấn mạnh ba lần rằng “Nước Pháp không cô đơn” vì
“Nước Pháp còn có một đế quốc rộng lớn ở sau lưng.”1 Lợi ích vị kỷ
này đã là mục tiêu chung của mọi đảng phái chính trị của nước Pháp, từ cực hữu
như phe de Gaulle cho đến các đảng phe tả với những đại diện như Marius Moutet
(Xã Hội) hay Maurice Thorez (Cộng Sản). Những lời phát biểu của Thorez bảo vệ
quyền lợi đế quốc Pháp bằng vũ lực ngay cả đối với chính phủ Hồ Chí Minh cho thấy
rõ lợi ích quốc gia đã được đặt lên trên chủ nghĩa và tình đoàn kết quốc tế của
các lãnh tụ cộng sản. Các chương Hai và Bốn đã phân tích khá đầy đủ về lòng
tham mù quáng của giới lãnh đạo chính trị và tài phiệt Pháp không những đối với
chính phủ cộng sản Việt Nam mà với cả các chính phủ quốc gia, thậm chí những
người thân Pháp nhất cũng sinh ra thất vọng và bất mãn, do đó Pháp đã bỏ lỡ bao
cơ hội hòa bình và chuốc lấy thất bại. Vụ tự tử của Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh có
hiệu lực của một tiếng chuông cảnh tỉnh, một bài học cho những chính khách hợp
tác với một đồng minh không đáng tin cậy và không biết phản ứng thích hợp khi
bị đồng minh bội ước.
Quan hệ Mỹ-Việt: Hoa Kỳ là một cường quốc hàng đầu thường tuyên dương các
giá trị của tự do, dân chủ và nhân quyền. Tiếp theo truyền thống của những nhà
lập quốc được Tổng thống Wilson đúc kết trong bản chương trình hòa bình 14 điểm
năm 1918, nhấn mạnh vào quyền dân tộc tự quyết của những nước nhược tiểu, Tổng
thống Roosevelt chủ trương trả lại độc lập cho các cựu thuộc địa của các nước
Tây phương. Năm 1960, Tổng thống Kennedy còn kiên quyết hơn nữa khi long trọng
tuyên bố với “từng quốc gia trên thế giới” rằng “chúng ta sẽ trả bất cứ giá
nào, mang bất cứ gánh nặng nào, chịu bất cứ gian khổ nào, hỗ trợ bất cứ người
bạn nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào, để bảo đảm cho sự tồn tại và thành công
của tự do.”
Tuy nhiên, lý tưởng cao cả và lòng cam kết
ấy chỉ được theo đuổi và duy trì khi vai trò lãnh đạo thế giới và quyền lợi của
nước Mỹ không bị đe dọa. Các nhà lãnh đạo Mỹ thường tìm cách làm cân bằng giữa
lý tưởng và lợi ích quốc gia, nhưng nhiệm vụ này nhiều khi rất phức tạp và việc
chọn lựa rất khó khăn, như đã thấy trong lời than phiền của Tổng thống Johnson
khi ông quyết định từ bỏ chiến tranh Việt Nam và từ bỏ luôn sự nghiệp chính trị
của mình.2 Quyết định của Johnson khó khăn vì ông bị giằng co giữa
một bên là chương trình “Xã hội Vĩ đại” mà ông đã hoạch định cho nhân dân Mỹ,
một bên là lòng tin cậy của các nước đồng minh vào sự cam kết bảo vệ của Mỹ
chống độc tài cộng sản. Nhưng quyết định chấm dứt chiến tranh Việt Nam của
Johnson còn có một lý do khác mà trước đó McNamara đã nói ra nhưng ông không
đồng ý là Mỹ không thể thắng chiến tranh Việt Nam bằng sức mạnh quân sự. Nói
cách khác, ông nhìn nhận Mỹ đã thất bại về quân sự và phải tìm một giải pháp
chính trị ít tổn hại nhất cho uy tín của Mỹ trước quốc tế. Giải pháp này phải
đợi đến thời của Tổng thống Nixon mới đạt được.
Câu hỏi cần đặt ra ở đây là quyết định chấm
dứt chiến tranh Việt Nam có phải là vì lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ hay không?
Nếu câu trả lời là phải thì khi Hoa kỳ quyết định tham gia vào chiến tranh Việt
Nam để ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản chẳng phải là vì lợi ích của Hoa
Kỳ hay sao? Đối với Tổng thống Johnson thì câu trả lời đã rõ ràng là Mỹ không
thể tiếp tục theo đuổi giải pháp quân sự, nhưng ông không còn thì giờ và cơ hội
tìm giải pháp chính trị. Đối với Tổng thống Nixon thì quyền lợi quốc gia đã
được tìm thấy ở giải pháp chính trị là khai thác mâu thuẫn Liên Xô-Trung Quốc
để ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản ở Á châu. Khi đã thiết lập được quan
hệ bình thường với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể rút hết quân ở Việt Nam về nước.
Để khỏi mang tiếng là bỏ rơi đồng minh, Nixon đưa ra chương trình Việt Nam hoá
chiến tranh, ký kết hiệp định Paris 1973 với lời hứa “tiếp tục viện trợ đầy đủ
về kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà” và “sẽ phản ứng mạnh mẽ trong
trường hợp bản hiệp định bị vi phạm.”3 Quả thật, nếu không có vụ
Watergate khiến Nixon phải từ chức thì ông đã có thể giữ lời hứa của ông, nhưng
cũng không có gì đảm bảo là ông có khả năng thực hiện được lời hứa đó. Lý do
chính là Quốc Hội Mỹ, ngoài thái độ muốn rũ bỏ trách nhiệm đối với VNCH sau hiệp
định Paris, còn có một định kiến về chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là từ khi Mỹ
phải đổ quân vào tham chiến. Định kiến này là quân đội cộng sản Bắc Việt chiến
đấu vì lòng yêu nước, chịu đựng gian khổ và sẵn sàng hi sinh tính mạng, giới
lãnh đạo cộng sản đều có lý tưởng và đời sống trong sạch, trong khi quân đội
miền Nam thì tham sống sợ chết, giới lãnh đạo quốc gia thì tham quyền cố vị và
tham nhũng thối nát. Định kiến đó được nhiều tác giả và giới truyền thông Mỹ
quảng bá rộng rãi, lại thêm sự bất mãn của dân chúng đối với việc chính phủ
dùng sức mạnh của bom đạn để tàn phá một nước nhỏ ở bên kia bán cầu, đã là
những động cơ của phong trào phản chiến mạnh mẽ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Định kiến này không phải là không có cơ sở,
nhưng chỉ đúng về mặt nổi của nó. Bộ đội cộng sản xả thân chiến đấu vì đã được
Đảng Cộng sản hun đúc một niềm tin và ý chí mãnh liệt vào chính nghĩa chống
quân xâm lược và bọn “Việt gian bán nước” để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc.
Giới lãnh đạo cộng sản đều là những tín đồ trung kiên của chủ nghĩa Mác-Lênin
với sứ mệnh thực hiện cách mạng vô sản toàn thế giới. Trên chiến trường Việt
Nam, họ phải sử dụng chiến thuật du kích và chịu đựng những điều kiện nguy nan
và thiếu thốn để đối phó với kẻ thù có lực lượng đồ sộ và đời sống đầy đủ hơn
gấp nhiều lần. Đồng minh Liên Xô và Trung Quốc chỉ viện trợ khí giới mà không
đưa quân vào tham chiến (trong trường hợp Trung Quốc, có một số quân giả dạng
là bộ đội Bắc Việt). Ngược lại, trong thời gian từ 1965 đến 1973, quân đội VNCH
chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ và trong các trận lớn đều phải trông cậy vào sự
yểm trợ của các lực lượng Mỹ. Nhiều sĩ quan chỉ huy VNCH không có tự do quyết
định, bị giới hạn về phương tiện và nếu không có sự đồng ý của cố vấn Mỹ thì sẽ
không được yểm trợ. Trong tình trạng lệ thuộc vào một quân đội nhà giàu như
vậy, binh sĩ quốc gia không thể chiến đấu với một niềm tin và ý chí bền vững
như bộ đội cộng sản. Ngoài ra, vì thành phần tuyển dụng phức tạp và đào tạo
không đồng đều nên chỉ có những thành phần có ý thức chống cộng cao độ mới
quyết tâm tấn công hay lùng diệt địch quân, và tinh thần chiến đấu dũng cảm này
của quân đội VNCH đã được nhiều tướng lãnh Mỹ xác nhận. Một sự thật không thể
tranh cãi được là người Việt Nam dù Bắc hay Nam đều cùng chung dòng giống, ngôn
ngữ và đã cùng chia sẻ vinh nhục, thành bại trong những cuộc khởi nghĩa chống
sự đô hộ của đế quốc Trung Hoa và Pháp. Như vậy, không thể có gì sai hơn khi
nói rằng chỉ có người cộng sản mới là người yêu nước.
Về vấn đề lãnh đạo của VNCH tham nhũng thối
nát thì đó cũng là tình trạng chung của những chế độ độc tài có bề ngoài dân
chủ. Các cấp trong hệ thống chính quyền, vì sợ có thể bị thay đổi, phải tận
dụng mọi cơ hội để tích lũy tài sản cho bản thân và bè phái của mình. Chính
sách của Hoa Kỳ ủng hộ những người lãnh đạo chịu phục tòng mình như đối với các
chế độ quân nhân sau thời Ngô Đình Diệm đã đóng góp không nhỏ vào tệ nạn độc
tài và tham nhũng ở miền Nam. Như vậy nguyên nhân của độc tài và tham nhũng
không phải là tại bản chất của chế độ là quốc gia hay cộng sản mà do những điều
kiện thuận lợi cho một chế độ độc tài. Nếu so sánh đời sống khắc khổ của Đảng
và Nhà nước cộng sản Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh với những cơ hội giàu
sang từ ngày tham gia vào sinh hoạt kinh tế thị trường thì sẽ có thể thấy rõ
tại sao nạn tham nhũng thối nát và sự cách biệt giàu nghèo giữa giai cấp thống
trị và quần chúng bị trị, nhất là ở nông thôn, ngày nay đã trở nên trầm trọng
hơn nhiều lần tình trạng dưới thời VNCH. Quốc nạn này chỉ có thể được giải
quyết bằng một lộ trình tiến đến dân chủ thực sự với sự phân quyền rõ rệt giữa
hành pháp, lập pháp và tư pháp để có thể kiểm soát lẫn nhau, đem lại sự phú
cường cho đất nước và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người dân.
Bài học cho Việt Nam về lợi ích quốc gia
trong quan hệ hợp tác quốc tế là mọi hoạt động đều phải hưổng về sự xây dựng và
duy trì một hệ thông chính quyền dân chủ thích hợp, và sự hội nhập thành công
vào cộng đồng thế giới để có thể vừa bảo vệ được những quyền lợi chính đáng của
mình vừa tranh thủ được sự tôn trọng, hợp tác và giúp đỡ của các nước.
2. Không có một chủ nghĩa chính trị nào
là chân lý tuyệt đối.
Mọi học thuyết hay chủ nghĩa do con người
lập ra, dù của những đầu óc siêu việt đến đâu, cũng chỉ có giá trị tương đối
trong những hoàn cảnh xã hội nhất định, hoặc chỉ có một số yếu tố tồn tại với
thời gian vì chúng phản ánh những nguyên lý cơ bản về đạo đức và trí tuệ của
loài người. Ngay cả về mặt tâm linh, khi những chân lý do thiêng liêng mặc khải
hay tự thân giác ngộ được phát biểu ra thành lời thì chúng đã trở thành tương
đối do giới hạn của ngôn ngữ và chữ viết, và do đó chỉ là những phương tiện có
thể dẫn dắt đến chân lý chứ không phải là chân lý. Bởi vậy, bất cứ một học
thuyết hay chủ nghĩa chính trị nào tự tuyên dương mình là chủ nghĩa duy nhất có
giá trị vĩnh viễn thì sẽ hoàn toàn sai lầm, và sẽ gây nên hậu quả vô cùng tai
hại. Đúng như một câu danh ngôn đã nói: “Làm thầy thuốc mà lầm thì có thể giết
chết một bệnh nhân, làm chính trị mà lầm thì có thể giết hại một dân tộc, làm
văn hoá tư tưởng mà lầm thì có thể giết hại nhiều thế hệ.” Độc tôn về chính trị
và tư tưởng sẽ đưa đến độc tài, bắt mọi người phải tuân phục một chủ nghĩa duy
nhất và một chế độ duy nhất, loại trừ tất cả những người có những suy nghĩ khác
biệt. Rốt cuộc, vì sai lầm chồng chất, các chế độ độc tài đều sẽ phải sụp đổ.
Điều này đã được chứng minh quá rõ ràng qua kinh nghiệm của nhiều nước độc tài
trên thế giới, cộng sản hay không cộng sản, trong những thập kỷ vừa qua.
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhờ kịp
thời đổi mới, từ bỏ chế độ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, đã tránh
được nguy cơ bị lôi cuốn theo sự tan rã của các nước cộng sản Đông Âu và Liên
Bang Xô Viết vào cuối thập kỷ 1980. Tuy nhiên, từ mười mấy năm qua, Đảng và Nhà
nước luôn luôn phải đôi phó với những áp lực đổi mới về chính trị, những đòi
hỏi phải cải thiện về nhân quyền và dân chủ hóa chế độ, những yêu cầu cải tổ về
hành chánh, hệ thống ngân hàng và cơ cấu pháp lý, không phải chỉ từ phía bị coi
là “thế lực thù địch” mà còn từ phía các quốc gia có thể coi là thân thiện như
Cộng đồng Châu Âu, Nhật, úc, Canada và những tổ chức quốc tế phi chính trị như
Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp
Quốc. Trong tình trạng giằng co giữa khuynh hướng bảo thủ và tiến bộ trong nội
bộ Đảng, khuynh hướng bảo thủ vẫn còn nắm được ưu thế, chủ trương giữ chặt lấy
quyền lực lâu chừng nào hay chừng nấy, khi cần thì dè dặt đi theo những bước
thay đổi của Trung Quốc cho được an toàn hơn, và cũng không dám vượt mặt Trung
Quốc trong tiến trình hội nhập với cộng đồng thế giới. Phe bảo thủ cũng vẫn còn
sống với hào quang của chiến thắng “chống Mỹ cứu nước”, tin rằng mình đã thắng
được kẻ thù mạnh nhất thế giới thì cái gì khó đến đâu cũng sẽ làm được. Một
chuyên gia kinh tế ở trong nước đã có một nhận xét rất hay trong những năm đầu
đổi mới: “Nhà nước thì cái gì cũng làm được, chỉ có vấn đề là làm không đúng.”
Vì Việt Nam không có được cái tư thế như
Trung Quốc đối với quốc tế và Trung Quốc vẫn là một mối đe dọa thường trực về
kinh tế và quân sự đối với Việt Nam, bài học sinh tồn cho Việt Nam ngày nay là
không nên tiếp tục tuyên dương chủ nghĩa Mác-Lênin như lý tưởng của dân tộc và
coi Trung Quốc là gương mẫu cho đường lối đối nội và đối ngoại. Trong một phiên
hội thảo về giáo dục ở thành phố Hồ Chí Minh nhiều năm trước đây, một giáo sư
đã nói lên một sự thật: “ Chủ nghĩa Mác-xít đã trở thành một môn học mà thầy
không muôn dạy và trò không muốn học.” Để có thể tồn tại trong độc lập và phát
triển, về đối nội, Việt Nam cần áp dụng truyền thông thích ứng có sáng tạo vào
việc thiết lập một lộ trình dân chủ hoá chế độ. về đối ngoại, Việt Nam cần liên
minh với những thế lực quốc tế theo cả chiều dọc (tung) lẫn chiều ngang
(hoành). Chiều dọc là các cường quốc tân tiến như khối Bắc Mỹ, Cộng đồng châu
Âu, và Nhật Bản; chiều ngang là những con rồng Á châu và các nước đang phát
triển trong khối ASEAN. Việt Nam đang cố gắng hoà mình với thế giới theo con
đường “hợp tung, liên hoành” này nhưng mới chỉ là những cố gắng rụt rè, nửa
chừng. Muốn có được các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ đất
nước, các nhà lãnh đạo Việt Nam cần mạnh dạn vượt ra khỏi tình trạng lúng túng
hiện nay và chủ động áp dụng bài học này sớm chừng nào hay chừng nấy.
3. Cần phải hiểu rõ ta, bạn và thù.
Một danh ngôn trong binh pháp Tôn Tử thường
được nhiều người nhắc đến là: “biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.” ở
đây, vấn đề biết người không những chỉ là biết kẻ địch mà còn cần phải biết cả
bạn đồng minh của mình để có thể tránh được những hiểu lầm tai hại trong những
hoạt động hợp tác nhằm đạt được mục tiêu chung (khi còn là đồng minh). McNamara
đã thẳng thắn nhìn nhận một trong những nguyên nhân thất bại của các nhà làm
chính sách của Hoa Kỳ trong chiến tranh Đông Dương là “không hiểu biết gì về
lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và các giá trị của những xứ này… Khi bàn đến vấn đề
Việt Nam, chúng tôi đã thiết lập chính sách cho một miền đất lạ.”4
Chương Tám đã nói đến những hiểu biết thiếu sót của Hoa Kỳ về lịch sử và các
đặc tính Việt Nam, do đó đã phạm phải hai sai lầm rất lớn đối với VNCH: thứ
nhất là sai lầm trong các quan hệ hợp tác với Việt Nam Cộng Hoà đưa đến cái chết
thảm thương của ba anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm; thứ hai là sai lầm trong
quyết định “Mỹ hoá chiến tranh” và dùng phương pháp của chiến tranh qui ước để
đối phó với một cuộc chiến tranh nhân dân, đẩy quân đội quốc gia miền Nam vào
vai trò phụ thuộc khiến cho khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” của Bắc Việt và
MTGPMN có thêm hiệu lực tuyên truyền trong dân chúng. Trước những cuộc hành
quân “lùng và diệt địch” với sức tàn phá khủng khiếp của bom đạn Hoa Kỳ, dân
chúng miền Nam nếu không theo cộng sản thì cũng mất đi rất nhiều thiện cảm đối
với chính phủ và quân đội VNCH.
Hoa Kỳ cũng hiểu biết rất thiếu sót hoặc
không chú ý đúng mức đến quan hệ Việt-Trung, đặc biệt là truyền thống tranh đấu
bảo vệ quyền tự chủ của dân tộc Việt Nam đối với Trung Quốc và ảnh hưởng của
truyền thống ấy trong các quan hệ giữa hai đảng cộng sản của hai nước, nhất là
trong những năm Việt Nam bị Trung Quốc áp lực chống “bè lũ xét lại Liên Xô” và
chiến đấu chống Mỹ “đến đời con đời cháu của chúng ta.”5 Những khiếm
khuyết ấy đã khiến cho chính quyền Johnson bỏ lỡ mất nhiều cơ hội khai thác mâu
thuẫn Việt-Trung để giải quyết chiến tranh Việt Nam trong những điều kiện thuận
lợi cho Hoa Kỳ hay ít ra cũng tránh được cho Johnson bị lâm vào tình thế khó
khăn đến nỗi phải quyết định chấm dứt sự nghiệp chính trị của mình. Ngược lại,
Đảng Cộng sản Việt Nam, vì thiếu hiểu biết tâm lý và lề lối làm việc của người
Mỹ, cũng đã bỏ lỡ những cơ hội thảo luận song phương với các đại diện của chính
phủ Mỹ để thoát ra khỏi sự khống chế của Trung Quốc. Những điều này đã được các
nhà ngoại giao miền Bắc, Lưu Doãn Huỳnh và Nguyễn Khắc Huỳnh, thẳng thắn nhìn
nhận trong những phiên thảo luận hậu chiến Mỹ-Việt (1995-1998).6
Cũng vì “chủ quan trong việc đánh giá cao lực lượng mình, đánh giá thấp lực
lượng địch,”7 các nhà lãnh đạo miền Bắc đã thất bại lớn trong chiến
dịch “Tổng công kích, Tổng nổi dậy” Tết Mậu Thân. Những nhược điểm không biết
mình, biết người này của Washington và Hà Nội đã được cả đôi bên ghi nhận và đã
được nhắc đến khá đầy đủ trong các chương Tám và Chín trên đây.
Giữa hai phe quốc gia và cộng sản ở Việt
Nam không có vấn đề thiếu hiểu biết về lịch sử và tâm lý giữa ta và địch, nhưng
do nhiệm vụ chủ yếu của mỗi bên và lòng thù ghét không đội trời chung trong
suốt mấy chục năm chiến tranh, việc đánh giá lẫn nhau hoàn toàn chủ quan và
những định kiến sai lầm thường được thổi phồng quá đáng. Nhiệm vụ chủ yếu của
phe cộng sản là tấn công để thực hiện mục tiêu thống nhất hai miền dưới ngọn cờ
xã hội chủ nghĩa trong khi nhiệm vụ chủ yếu của phe quốc gia là tự vệ để bảo
toàn lãnh thổ miền Nam dưới chế độ tự do dân chủ. Hai bên đều gán cho nhau tội
phản quốc: chính phủ VNCH bị gọi là bù nhìn, tay sai của đế quốc Mỹ, chính phủ
VNDCCH bị gọi là đầy tớ của quan thày Liên Xô và Trung Cộng. Không bên nào nhìn
nbận tinh thần yêu nước của bên kia. Do vô tình hay cố ý, người cộng sản đã
quên rằng có biết bao nhà cách mạng Việt Nam đã chết vì yêu nước trước khi chủ
nghĩa cộng sản ra đời; người quốc gia cũng quên rằng nếu người cộng sản không
yêu nước thì đã không có những mâu thuẫn Việt-Trung dẫn đến chiến tranh giữa
hai nước năm 1979.
Chủ nghĩa cực đoan dễ làm cho con người mất
sự sáng suốt của lý trí và trở thành lự tôn, độc tài và tàn nhẫn. Chế độ độc
tài không phải chỉ tàn nhẫn với kẻ thù trong lúc chiến tranh mà, sau khi chiến
thắng, vẫn tiếp tục tàn nhẫn với kẻ bại trận và, nguy hại hơn nữa, tàn nhẫn
không kém đối với mọi thành phần dân chúng có tư tưởng khác biệt kể cả những
người cùng trong hàng ngũ đã có công đem lại chiến thắng cho chế độ. Dưới chế
độ độc tài toàn trị, nhà cầm quyền sẽ phải thường xuyên cảnh giác, rất nhạy cảm
trước những lời nói hay đề nghị nào trái với ý muốn của mình, rất nghi ngờ
những hoạt động nào được hiểu là dấu hiệu của ly khai hay chống đối, và lẽ dĩ
nhiên sẽ thẳng tay đàn áp những đòi hỏi cụ thể về những quyền tự do căn bản của
con người. Do đó, xứ sở luôn luôn bị chỉ trích bởi các chính phủ dân chủ và các
tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền. Kết quả là bị nhiều khó khăn và hạn chế về
quyền lợi trong các quan hệ hợp tác quốc tế, và tình trạng bất ổn định trong
nước là một nỗi ám ảnh thường trực.
Những nhà lãnh đạo thật tâm yêu nước và có
tài là những người biết rút ra được những bài học của quá khứ, những kinh
nghiệm hay, dở của mình và của người để áp dụng vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước, đem lại an ninh, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân dân. Quyền lực
và lợi lộc nếu biết chia sẻ thì nhà cầm quyền vẫn có phần một cách chính đáng.
Quyền lực và lợi lộc không thể mãi mãi giữ độc quyền, và điều chắc chắn là
không thể đem theo sang thế giới bên kia. Đã có nhiều trường hợp cho thấy hậu
quả tai hại xảy ra cho những chế độ độc tài, cộng sản hay không cộng sản, trong
khi những người cầm quyền còn tại chức. Thành tích tốt hay xấu của những người
lãnh đạo sẽ được nhân dân đánh giá công minh và được lịch sử ghi chép thành văn
hay truyền khẩu cho đến muôn đời sau. Có những nhà lãnh đạo nào đã tự hỏi mình:
Nên để lại tiếng thơm hay tiếng xấu cho hậu thế? Bách thế lưu phương hay Lưu xú
vạn niên?
——
Ghi chú:
1 Xem chương Hai, trang
37.
2 Xem chương Bảy, chú
thích 43.
3 Thư T.T. Nixon gửi
T.T. Thiệu ngày 16 tháng Giêng, 1973.
4 Xem trích dẫn đầy đủ ở
chương Tám, chú thích 27
5 Xem chương Bảy, trang
184.
6Xem chương Chín, trang
235, 238.
7 Xem chương Bảy, trang
191.
Copyright © 2004 by Lê Xuân Khoa
Bản Word © blog Ba Sàm 2013
—-
Mời xem toàn bộ nội dung sách tại đây: Việt Nam 1945-1995
--------------------------------------------------------
BON-PHUONG’S BLOG
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / MỤC LỤC (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba
Sàm) Wednesday,
30 January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / LỜI MỞ ĐẦU (GS Lê Xuân Khoa - Blog
Ba Sàm) Thursday, 31 January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 1 : QUỐC GIA & CỘNG SẢN
(GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Friday, 1 February
2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 2 : NHỮNG YẾU TỐ BÊN NGOÀI
(GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Monday, 4 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC
LỊCH SỬ / CHƯƠNG 3 : CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (GS Lê Xuân Khoa - Blog BA
SÀM) Thursday,
7 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 4 : HỘI NGHỊ GENÈVE &
HAI NƯỚC VIỆT NAM (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Sunday, 10 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 5 : BÀI HỌC CHÍN NĂM
[1945-1954] - (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Wednesday, 13 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 6 : DI TẢN và ĐỊNH CƯ TỊ
NẠN 1954 (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Saturday, 16 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 7 : SỰ SỤP ĐỖ CỦA VIỆT NAM
CỘNG HÒA (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Wednesday,
20 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 8 : SAI LẦM CỦA HOA KỲ (GS
Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Saturday,
23 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 9 : SAI LẦM CỦA VIỆT NAM
CỘNG SẢN (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Thursday,
28 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 10 : SAI LẦM CỦA VIỆT NAM
QUỐC GIA (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Sunday, 3 March 2013
No comments:
Post a Comment