Wednesday 20 February 2013

VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 7 : SỰ SỤP ĐỖ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm)




PHẦN BA: NỘI CHIẾN hay CHIẾN TRANH ỦY NHIỆM ?

GS Lê Xuân Khoa

Posted by basamnews on 20/02/2013

Năm 1975 là kết quả của một cuộc tranh chấp hai mươi năm mà phe quốc gia gọi là cuộc chiến đấu chống chế độ cộng sản của dân tộc Việt Nam, còn phe cộng sản thì gọi là chiến tranh chống Mỹ-Ngụy để cứu nước. Thực tế thì đây là một cuộc nội chiến giữa hai phe người Việt Nam theo đuổi những lý tưởng khác nhau, đồng thời cũng là một cuộc chiến tranh ủy nhiệm trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa hai khối quốc tế tư bản và cộng sản, với sự tham gia trực tiếp của Hoa Kỳ.
Bởi vậy, tìm hiểu nguyên nhân của tị nạn 1975 cũng là tìm hiểu những nguyên nhân đưa đến chiến tranh và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà. Trước hết cần minh xác rằng Pháp chỉ thực sự trả lại độc lập hoàn toàn cho Việt Nam (dù đây chỉ là phân nửa phía Nam) sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm đã loại trừ các lực lượng nổi loạn thân Pháp năm 1955 và đòi quân đội viễn chỉnh Pháp phải rút hết về nước vào đầu năm 1966. VNCH được thành lập vào tháng Mười 1955 và trở thành một thực thể chính trị có chủ quyền trên toàn lãnh thổ thuộc phía Nam vĩ tuyến 17. Cuộc chiến tranh “quốc- cộng” lập tức được chuẩn bị theo chiều hướng là miền Bắc cương quyết thống nhất đất nước dưới quyền kiểm soát của đảng cộng sản, và miền Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ chống lại mọi hoạt động xâm nhập của miền Bắc. Trung Quốc và Liên Xô viện trợ VNDCCH, trong khi Hoa Kỳ viện trợ VNCH và trực tiếp tham chiến từ 1965 sau những cuộc khủng hoảng lãnh đạo liên tiếp ở miền Nam.
Cuộc chiến càng ngày càng ác liệt tiếp theo quyết định “Mỹ hóa” chiến tranh, và tình hình càng ngày càng bất lợi cho VNCH. Sau trận Tết Mậu Thân 1968), Hoa Kỳ và Bắc Việt đồng ý thương thuyết hòa bình. Thực tế là một tiến trình “vừa đánh vừa đàm” cho đến 1973 mới đạt được hiệp định Paris với sự ký kết của “hai phe, bốn thành phần một bên là Hoa Kỳ và VNCH, bên kia là VNDCCH và MTGPMN. Chương trình “Việt Nam hoá ” chiến tranh của Nixon bị thất bại do quyết định bỏ rơi miền Nam Việt Nam của Quốc hội Mỹ và vụ xì-căn-đan Watergate khiến Nixon phải từ chức. Nhờ tình thế thuận lợi ấy, Bắc Việt mở cuộc tổng tấn công VNCH và hoàn tất chinh phục miền Nam ngày 30 tháng Tư 1975.
Bài học lịch sử được ghi nhận qua việc ôn lại vai trò và nhất là những sai lầm và cơ hội bỏ lỡ của mỗi phe lâm chiến để có thể kết luận rằng chiến tranh Việt Nam là “cuộc chiến mà mọi phe đều thua”. Điều này cũng đúng cho cả cuộc chiến mười sáu ngày chống Trung Quốc (1979) và cuộc chiến bốn năm chống Khơ-me Đỏ và mười năm trấn giữ Cam-pu-chia (1975-1989). Sau gần ba thập kỷ, mặc dầu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Hoa Kỳ đã bình thường hoá các quan hệ kinh tế và ngoại giao, nhưng bài học về chiến tranh Việt Nam vẫn còn là đề tài tranh luận trong các giới chính trị và quân sự ở Hoa Kỳ. Trong khi đó, mối quan hệ giữa cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và quê hương cũ vẫn còn phức tạp và cuộc tranh luận về bài học lịch sử này vẫn chưa đạt được đồng thuận.
Việc duyệt xét lại những sai lầm quá khứ của mỗi bên không có nghĩa là khơi gợi lại những mối thù hận cũ mà chính là để có thể vượt được những oán thù của quá khứ và hướng về tương lai, cùng nhau rút kỉnh nghiệm và bài học lịch sử để tạo lập những điều kiện bền vững cho một nước Việt Nam dân chủ, hòa bình và thịnh vượng.


Chương 7: Sự Sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa

Hiệp định đình chiến Genève 1954 giúp cho Pháp rứt ra khỏi cuộc chiến chín năm ở Việt Nam nhưng lại chia đất nước làm hai và chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác giữa hai miền: miền Bắc với sự hỗ trợ của Trung Quốc và Liên Xô, miền Nam với sự tham chiến của Hoa Kỳ. Do sự chấm dứt vai trò của Pháp, Quốc Gia Việt Nam mới giành lại được độc lập thực sự dưới một chính thể mới là Việt Nam Cộng Hoà. Mối quan tâm trước mắt của đôi bên là cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước được dự liệu vào tháng Bảy 1956. Về vấn đề này có hai điều đáng lưu ý:

1) Hiệp định Genève thực chất là một thỏa hiệp ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh nên không có những điều khoản về việc tổ chức tổng tuyển cử. Cũng vì đây là thỏa hiệp giữa Pháp và Việt Minh nên mọi việc chính trị và hành chánh ở-miền Nam được coi là trách nhiệm của Pháp. Trong bản hiệp định, tổng tuyển cử chỉ được nhắc đến một lần như một sự kiện bên ngoài: “Trong khi chờ đợi tổng tuyển cử đem lại sự thống nhất cho Việt Nam, việc điều hành bộ máy hành chánh dân sự ở mỗi miền tập trung là thẩm quyền của bên có lực lượng tập trung ở miền đó như được ấn định bởi Hiệp định này” (điều 14.a). Như vậy, việc Quốc Gia Việt Nam giành được chủ quyền từ tay Pháp là một sự kiện riêng biệt, không bị ràng buộc bởi bản thỏa hiệp giữa Pháp và Việt Minh.

2) Cuộc tổng tuyển cử cũng chỉ được nhắc đến ở điểm số 7 trong bản Tuyên cáo không có chữ ký của những nước tham dự hội nghị Genève. Bản Tuyên cáo cho biết một cách tổng quát là cuộc bầu cử tự do sẽ được kiểm soát bởi Ủy hội Quốc tế, và các nhà cầm quyền ở hai miền sẽ tham khảo với nhau từ ngày 20.7.1955 về việc tổ chức tổng tuyển cử. Cũng như đối với bản hiệp định, Hoa Kỳ chỉ “ghi nhận ” bản tuyên cáo, còn Quốc Gia Việt Nam thì “long trọng phản đối sự tiếm quyền của giới Chỉ huy Cao cấp Pháp, ấn định ngày bầu cử tương lai mà không có sự thỏa thuận trước của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam trong khi đây là một quyết định hiển nhiên có tính cách chính trị.”1

Như vậy, tuy không phủ nhận việc tổ chức tổng tuyển cử, nhưng vì không phải là phe ký hiệp định, cũng không đứng tên trong bản Tuyên cáo chung và phản đối việc Pháp tự ý ấn định ngày bầu cử, Quốc Gia Việt Nam đã dành quyền quyết định về vấn đề thi hành các điều thỏa thuận tại hội nghị Genève. Trong khung cảnh chính trị hậu Genève, chính quyền miền Nam còn quá mới và phải đối phó với nhiều chuyện khó khăn, rõ ràng là ở trong một tình thế bất lợi so với miền Bắc nếu có cuộc tranh cử năm 1956. Vì những lý do đó, một năm sau hội nghị Genève, QGVN chính thức bác bỏ vấn đề tổng tuyển cử. Ngày 19 tháng Bảy 1955, thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thư cho thủ tướng Ngô Đình Diệm yêu cầu hai bên gặp nhau để thảo luận vấn đề này. Ngày 9 tháng Tám, Ngô Đình Diệm tuyên bố việc bầu cử không thể thực hiện được “chừng nào mà chế độ cộng sản chưa cho phép người dân Việt Nam được hưởng những quyền tự do dân chủ và những quyền căn bản của con người.”2

Quyết định của QGVN bác bỏ việc tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1956 đã là một đề tài tranh cãi về pháp lý. Quan điểm ủng hộ tổng tuyển cử lập luận rằng QGVN, dù không ký tên trên hiệp định và không đứng tên trong bản tuyên cáo chung, vẫn phải tiếp tục nhận lãnh trách nhiệm của Pháp đối với các điều khoản thỏa thuận tại Genève sau khi được Pháp chính thức trao lại chủ quyền ngày 19.12.1954. Ngoài ra, dù bản Tuyên cáo chỉ là bản thỏa thuận bằng miệng không có ký tên, tuyên cáo đó vẫn có giá trị vì theo công pháp quốc tế, những bản hiệp ước bằng lời cũng có giá trị như hiệp ước bằng chữ viết. Tuy nhiên, QGVN không bị ràng buộc bởi điều kiện này vì Pháp đã công nhận QGVN hoàn toàn độc lập trong hiệp ước Laniel-Bửu Lộc ký tại Paris ngày 4 tháng Sáu 1954, gần hai tháng trước hiệp định Genève. Đó là lý do tại sao ở Genève Pháp chỉ có thể ký kết với Việt Minh thỏa ước ngưng chiến mà thôi. Cũng không thể viện lẽ rằng theo tinh thần hiệp ước 4 tháng Sáu, QGVN phải nhận trách nhiệm thi hành những thỏa ước quốc tế mà Pháp đã ký kết, vì điều này chỉ có thể áp dụng cho những văn kiện đã ký trước ngày đó.

Dù sao, khi không chấp nhận điều khoản tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước thì QGVN đã tự tách mình ra khỏi điều kiện thiết lập hoà bình của hiệp định Genève, và như vậy, VNDCCH cũng có lý do không tôn trọng những điều kiện đó. Hai bên đều có tự do đối phó với nhau trong việc định đoạt tương lai của xứ sở, và thực tế thì chuyện này cũng tùy thuộc ở những thế lực ở đàng sau của mỗi bên.

Đối với Hoa Kỳ, đây là cơ hội thuận tiện để thay thế Pháp, dù bất đắc dĩ, trong vai trò ngăn chặn cộng sản ở Đông Dương qua sự hỗ trợ cho một chính thể dân chủ và tự do ở miền Nam. Nếu miền Bắc xâm nhập miền Nam để tranh đấu bằng chính trị hay quân sự, Hoa Kỳ sẽ coi đó là hành động xâm lược vi phạm nghiêm trọng hiệp định Genève, đe dọa hoà bình và an ninh thế giới mà Hoa Kỳ sẽ phải ứng xử thích hợp. Để phòng ngừa, ngày 8 tháng Chín, Hoa Kỳ thành lập Tổ chức Minh Ước Liên Phòng Đông Nam Á (South­east Asia Treaty Organization – SEATO).3 Ngày 29.9, Bộ trưởng các Quốc gia Liên Kết Guy La Chambre mật ký với Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Bedell Smith một Nghị-định-thư ghi nhận VNDCCH là “lực lượng cộng sản gây hấn, chống lại những ý niệm và quyền lợi của nhân dân tự do ở các quốc gia liên kết, Pháp và Hoa Kỳ,” và hứa ủng hộ Ngô Đình Diệm “trong việc thành lập và duy trì một chính phủ mạnh, chống cộng và có xu hướng quốc gia.”4

Về phía Trung Quốc, như đã phân tích trong chương Bốn, chính sách đối ngoại của xứ này đã xoay chiều từ “đối đầu” sang “chung sống hoà bình” với các nước tư bản, qua bài diễn văn của Trần Nghị đầu năm 1954 và chính sách “ngoại giao nụ cười” Chu Ân Lai tại Genève. Để có thể yên tâm về một vùng đệm an toàn ở biên giới phía Nam, Trung Quốc đã giúp cho Pháp giải quyết chiến tranh Đông Dương bằng cách ép buộc chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Phạm văn Đồng phải chấp nhận những điều kiện thiệt thòi đốì với phe chiến thắng. Giải pháp chia đôi nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17 vừa có thể duy trì được hoà bình (dù chỉ là tạm thời) với khối tư bản vừa giúp Trung Quốc củng cố được ảnh hưởng đối với VNDCCH. Do đó, trong những năm đầu sau Genève, Trung Quốc không muốn cho giới lãnh đạo miền Bắc tấn công miền Nam để thống nhất đất nước trong khi vẫn theo dõi rất sát chính sách của Hoa Kỳ ở trong vùng để tùy cơ ứng biến.

Đối với Liên Xô, mối quan tâm chính hồi đó là củng cố và bành trướng thế lực ở Âu châu. Đông Dương không có ưu tiên về an ninh hay quyền lợi của cộng sản quốc tế, trong khi Liên Xô đang cần ngăn chặn những nỗ lực của Hoa Kỳ thành lập Cộng đồng Phòng thủ Châu Âu (EDC). Thái độ hợp tác thân thiện của Molotov đối với Mendès France ở Genève là bằng chứng Liên Xô muốn mua chuộc cảm tình của Pháp. Ngoài ra, Liên Xô không muốn đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam vì điều đó có thể tạo thành một tiền lệ cho các nước Âu châu đòi tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước Đức mà kết quả chắc chắn sẽ là sự thảm bại của cộng sản Đông Đức. Trước viễn tượng đó, Liên Xô thà từ bỏ ảnh hưởng ở Việt Nam xa xôi còn hơn là mất quyền kiểm soát một nửa nước Đức và ảnh hưởng ở Âu châu. Tháng Giêng 1957, Khruschev còn đề nghị cho cả hai nước Việt Nam được gia nhập Liên Hiệp Quốc.

Tiên liệu được tình hình chưa thuận lợi đó, VNDGCH đã áp dụng một sách lược uyển chuyển trong công cuộc chinh phục miền Nam, từ chính trị đến vũ trang, từ bí mật đến công khai. Ngay trong tháng Bảy 1954, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 đã họp để chuẩn bị sách lược đấu tranh thống nhất đất nước. Sách lược này, như được Bộ Chính trị xác định và bổ sung trong kỳ họp ngày 5 tháng Chín, chủ yếu là lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh chính trị đòi hiệp thương giữa hai miền Nam- Bắc, thực hiện tổng tuyển cử, đòi các quyền tự do dân chủ, chống bắt bớ những người kháng chiến cũ v.v… Sử liệu miền Bắc tiết lộ việc đảng cộng sản, ngay sau hội nghị Genève, đã để lại nhiều cán bộ, chôn giấu vũ khí và hoạt động bí mật đàng sau các phong trào quần chúng tranh đấu ở miền Nam:
Để lại những đảng viên chưa lộ mặt và những cán bộ có thể giữ bí mật được, làm cho tổ chức hoạt động gọn, nhẹ, bí mật, lực lượng của ta ở miền Nam đã nhanh chóng rút lui vào hoạt động bí mật. Riêng Nam Bộ đã có 6 vạn đảng viên rút vào bí mật, hơn 1 vạn súng và nhiều điện đài được chôn giấu. Tại Liên Khu V, hai vạn rưỡi đảng viên được lệnh rút vào bí mật, các tổ chức Đảng được sắp xếp gọn nhẹ cho phù hợp với tình hình mới. Tại Trị Thiên-Huế, ta cũng cho cất giấu một số lớn vũ khí và bố trí nhiều cán bộ ở lại địa phương. Đến năm 1955, về cơ bản, bộ máy chỉ đạo của Đảng từ xứ ủy, tỉnh ủy đến huyện ủy đã được sắp xếp xong và chuyển hướng hoạt động bí mật. Những cán bộ bị lộ thì được điều sang các địa phương khác hoặc tạm ngừng hoạt động để che dấu lực lượng.5

Từ những cơ sở bí mật, các phong trào đấu tranh chính trị được phát động, đặc biệt là phong trào hòa bình Sài-gòn-Chợ Lớn và phong trào đòi lập lại quan hệ bình thường Nam-Bắc. Từ giữa năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm phát động chiến dịch “tố cộng” mãnh liệt trên toàn miền Nam để loại trừ mọi hoạt động cộng sản hay thân cộng. Miền Bắc ghi nhận con số cán bộ bị bắt giữ hay bị giết rất cao:
Chỉ trong bốn năm (từ 1955-1958), 9/10 cán bộ đảng viên ở miền Nam đã bị tổn thất. Riêng Nam Bộ, chỉ còn khoảng 5,000 so với 60,000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng Liên Khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị địch bắt giết hại, 12 huyện không còn cơ sở Đảng. Ở Quảng Trị, chỉ còn 176 trong số 8,400 đảng viên trước đó.6

Đảng Lao Động phản công từ năm 1956 bằng những hành động khủng bố và ám sát các viên chức địa phương phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Một đối tượng đặc biệt để sát hại là các giáo viên chống cộng hay thân chính quyền ở miền quê vì những người này, theo truyền thống văn hoá Á đông, rất có ảnh hưởng đối với phụ huynh và dân chúng. Một Quận trưởng hay Tỉnh trưởng có thể làm cho dân sợ nhưng không được dân kính trọng và nghe lời bằng một thầy giáo của con mình. Nhiều trường học vì thiếu giáo viên đã phải đóng cửa khiến nhiều trẻ em không được đi học. Miền Bắc không công bố kết quả các vụ bắt cóc và ám sát và con số này cũng khó được xác định. Chẳng hạn, riêng trong năm 1959, theo các nguồn tin khác nhau, con số các nạn nhân sai biệt giữa 239 và 5,000 người.7 Tuy nhiên, theo báo cáo của toà Đại sứ Mỹ ở Sài-Gòn thì chỉ trong sáu tháng cuối năm 1960 đã có 700 viên chức VNCH bị ám sát.8

Tháng Giêng 1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết kết hợp đấu tranh chính trị với lực lượng vũ trang, mở đầu công cuộc vận chuyển bộ đội tập kết và vũ khí vào miền Nam qua đường Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh) được thiết lập trên lãnh thổ Lào. Phong trào “Đồng Khởi” được phát động, bắt đầu từ tháng Hai 1959 tại Liên Khu V (miền Trung) ở các tỉnh Bình Định, Ninh Thuận, Kon Tum, và đặc biệt là cuộc nổi dậy ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi (tháng 8, 1959). Tại miền Nam, các hoạt động vũ trang du kích cũng diễn ra ở một số tỉnh đồng bằng sông cửu Long và miền Đông Nam phần, kiểm soát được nhiều quận huyện về ban đêm. Đáng kể nhất là cuộc nổi dậy kéo dài một tuần lễ ở các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Thạnh Phú. Ba Tri, Châu Thành, Bình Đại thuộc tỉnh Bến Tre (tháng 1, 1960).

Tháng Ba 1959, chính phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Ngày 6 tháng Năm, Tổng thống Diệm ký đạo luật số 10/59 thiết lập tòa án quân sự đặc biệt xét xử cán bộ cộng sản và bị can không có quyền chống án. Tuy nhiên, các hoạt động tuyên truyền của miền Bắc sách động quần chúng nổi dậy vẫn tiếp tục. Từ 1960, phong trào “Đồng Khởi” có được nhiều điều kiện khách quan hết sức thuận lợi. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã trở thành một chế độ độc tài gia đình trị, gây nhiều bất mãn trong giới chính trị cũng như quân đội mà hậu quả là cuộc đảo chính hụt của nhóm Nguyễn Chánh Thi-Vương Văn Đông ngày 11-11-1960 và những khó khăn về sau càng ngày càng trầm trọng, về mặt quốc tế, VNDCCH vẫn được Trung Quốc nhiệt tình ủng hộ từ thời chiến tranh chống Pháp, nay vì mối mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc từ 1956 mà cả hai nước đều phải gia tăng chi viện cho Hà Nội để giữ được uy tín và ảnh hưởng với các nước cộng sản khác trên thế giới. Hà Nội rất cần cơ giới nặng của Liên Xô mà Trung Quốc không thể cung cấp được. Mặc dù mối bất hòa giữa hai nước, Trung Quốc vẫn phải để cho Liên Xô mượn đường tiếp tế vũ khí cho VNDCCH.

Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (gọi tắt Là MTGPMN) ra đời trong những điều kiện thuận lợi đó. Ngày 19.12.1960 (kỷ niệm ngày khởi đầu chiến tranh chống Pháp), khoảng 60 người đã hội họp tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh để thành lập MTGPMN. Phần lớn số người này không phải là đảng viên cộng sản nhưng thành phần nòng cốt đều là đảng viên cao cấp trong đó có ba người lãnh đạo ban tổ chức là Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Hiếu và Trần Bửu Kiếm. Riêng Nguyễn Văn Hiếu còn là người liên lạc với miền Bắc trong việc soạn thảo bản Tuyên ngôn và Chương trình Hành động của MTGPMN.9 Phiên họp kết thúc ngày 20.12 sau khi MTGPMN bầu ra một ủy Ban Lâm Thời do Nguyễn văn Hiếu làm Tổng thư ký. Ủy Ban này công bố bản Tuyên ngôn “gởi đồng bào trong và ngoài nước” và Chương trình Hành động 10 điểm mà nội dung cơ bản là “đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hoà bình, thống nhất tổ quốc.” Khẩu hiệu mới “trung lập” được sử dụng để ám chỉ tính chất không cộng sản của MTGPMN đi kèm với “hoà bình” để dễ lôi cuốn sự ủng hộ của dư luận trong nước và quốc tế.
Tháng Giêng 1961, Đảng Lao Động quyết định tăng cường kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang ở miền Nam bằng việc chuyển thêm quân đội và vũ khí qua đường mòn Hồ Chí Minh. Đây là bộ đội chủ lực phần lớn là binh sĩ miền Bắc đi kèm với binh sĩ miền Nam tập kết. Cũng như trong cuộc chiến tranh chống Pháp, các lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, nay được thống nhất thành Quân đội Giải Phóng miền Nam Việt Nam (QGPMN). Trong khi đó, tân Tổng Thống Hoa Kỳ John Kennedy cũng thiết lập sách lược chống du kích bằng cách tăng cường khả năng chiến đấu của quân lực VNCH qua việc gia tăng quân số và vũ khí, với sự giúp đỡ kỹ thuật của cố vấn quân sự Mỹ. Sách lược này áp dụng một mô hình đã được chuyên gia Anh quốc Sir Robert Thompson thực hiện thành công trong công cuộc tiễu trừ quân du kích cộng sản ở Mã Lai. Thompson được mời sang làm cố vấn cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Giữa năm 1961, kinh tế gia Eugene Staley được phái sang Việt Nam nghiên cứu tình hình và đã đề nghị xây dựng hệ thống “ấp chiến lược” để tách rời dân chúng ở nông thôn ra khỏi sự kiểm soát của cộng sản.

Tháng Mười Một, sau chuyến đi xem xét tình hình ở Đông Dương với tư cách cố vấn quân sự của Kennedy, tướng Maxwell Taylor nhận xét rằng điểm then chốt là phải ngăn chặn đường xâm nhập của cộng sản qua biên giới Lào và cuộc hành quân này cần ít nhất là ba sư đoàn quân chiến đấu Mỹ. Tiếp theo đó, trong một bản phúc trình chung lên Tổng Thống, cả hai Tổng trưởng Quốc phòng McNamara và Ngoại giao Dean Rusk đều nhấn mạnh đến trách nhiệm của Hoa Kỳ bảo vệ VNCH khỏi rơi vào tay cộng sản:

Để đạt mục tiêu này, chính phủ miền Nam Việt Nam phải được đặt vào vị thế có thể tự một mình chiến thắng quân du kích. Chúng ta cần nhấn mạnh rằng Chính phủ phải thực hiện lấy những biện pháp cần thiết để có thể được sự trợ giúp qui mô của Hoa Kỳ trên các địa hạt quân sự, kinh tế và chính trị. Đồng thời chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng Chính phủ Việt Nam rất khó thắng nổi chiến tranh này chừng nào mà những đợt người và vũ khí từ miền Bắc vào Nam vẫn tiếp tục không bị ngăn chặn và quân du kích còn được an toàn ẩn náu trên lãnh thổ của nước láng giềng.

Chúng ta phải chuẩn bị để đưa lực lượng chiến đấu Hoa Kỳ vào Việt Nam nếu điều đó cần thiết để thành công. Tùy theo hoàn cảnh, có thể quân đội Hoa Kỳ cũng phải đánh vào nguồn xâm lược ở Bắc Việt. 10

Giữa lúc này, một Hội nghị về Lào đang diễn ra tại Genève nhằm chấm dứt cuộc xung đột giữa ba phe tả (Pathet Lao), hữu (tướng Phoumi Nosavan) và trung lập (hoàng thân Souvanna Phouma) với sự tham dự của 14 nước.11 Hội nghị bắt đầu từ 12-5-1961 và kéo dài cho tới 23-7-1962 mới kết thúc bằng một bản Tuyên cáo chung về nền trung lập của Lào kèm theo một Nghị định thư xác định rằng tất cả quân đội ngoại quốc phải rút ra khỏi Lào và quân đội ngoại quốc cùng mọi thứ vũ khí đều không được đưa vào Lào. Tại hội nghị Genève lần thứ hai này, Trung Quốc đã thành công trong việc lôi cuốn được phe trung lập Lào nghiêng về phe tả, đưa được Pathet Lào vào chính phủ liên hiệp và đạt được mục tiêu chính là ngăn chặn được sự can thiệp của Hoa Kỳ và SEATO vào tình hình chính trị và quân sự ở Lào.12 Trong mưu lược chính trị cộng sản, liên hiệp và trung lập chỉ là những phương tiện trong buổi giao thời để tiến đến cách mạng bạo động. Như Chu Ân Lai đã dặn dò Souphanouvong, lãnh tụ Pathet Lào:
Nếu tổ chức được chính phủ liên hiệp thì tốt… Đồng chí phải chuẩn bị để tranh đấu trong nội bộ chính phủ liên hiệp. Trong bất cứ trường hợp nào, điều quan trọng nhất là đồng chí phải gia tăng được sức mạnh của chính mình. Giải pháp cuối cùng sẽ được quyết định bằng vũ lực.13

Phe được hưởng lợi trực tiếp trong cuộc thu xếp hoà bình ở Lào là VNDCCH. Vì lãnh thổ phiá Đông của Lào vẫn thuộc quyền kiểm soát của Pathet Lao, Bắc Việt có thể tiếp tục sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh để chuyển vận quân đội, vũ khí và đồ tiếp tế vào miền Nam. Con đường này hiển nhiên là con đường dẫn đến chiến thắng tháng Tư 1975.14 Sau cuộc thất bại ở hội nghị Genève 1962, Hoa Kỳ muốn chú trọng vào việc bảo vệ miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, Tổng Thống Kennedy vẫn giữ vững quyết định không đưa quân chiến đấu vào Việt Nam và mở cuộc tấn công vào đường xâm nhập của Bắc Việt trên lãnh thổ Lào, mặc dù những đề nghị khẩn cấp của những chiến lược gia thân cận. Có lẽ Kennedy thành thật tin tưởng ở hiệu lực của chiến tranh “chống du kích” và chương trình “ấp chiến lược”, nhưng hai lý do chính làm cho ông ngần ngại là Hoa Kỳ có thể phải đối đầu với Trung Quốc một lần nữa như trong cuộc chiến ở Triều Tiên, và sự thất bại của cuộc đổ bộ ở Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) mới xảy ra vào tháng Tư năm đó.15

Đến lúc này thì hiệp định Genève 1954 không còn có giá trị gì nữa. Cả hai bên đều leo thang chiến tranh càng ngày càng cao, nhất là mức xâm nhập của bộ đội chủ lực miền Bắc, từ 6,295 người năm 1961 lên tới 33,730 năm 1965 và 84,800 năm 1966.16

Theo tài liệu của miền Bắc:
… mức vận tải từ 40 tấn năm 1961 đã tăng lên 4,000 tấn năm 1964…. Năm 1964, đội quân từ miền Bắc vào tăng cường với số lượng lớn gấp 14 lần so với năm 1960 (17.427 người/1217 người)… Khối lượng hàng hoá năm 1964 chi viện vào Nam tăng gấp 4 lần so với năm 1963.17

Tổng số lực lượng thống nhất Quân Giải Phóng Miền Nam (thường được gọi chung là Việt Cộng) vào cuối năm 1961 là 20,000, chỉ một năm sau đã lên tới 123,000 gồm 23,000 bộ đội chủ lực và khoảng 100,000 bộ đội địa phương và dân quân tự vệ.18 Về phần VNCH, quân số tăng từ 15,000 năm 1960 lên 250,000 năm 1964. Lực lượng hỗ trợ của Mỹ cũng gia tăng từ khoảng 500 cố vấn năm 1960 lên tới trên 23,000 năm 1964.19 Con số này gồm cả những toán bác sĩ, kỹ sư, huấn luyện viên và nhiều chuyên viên kỹ thuật khác, nhưng cũng có một số được dùng vào những nhiệm vụ đặc biệt và bí mật, như huấn luyện điệp viên và biệt kích VNCH để thả xuống lãnh thổ miền Bắc trong những năm 1960-1961.

Trong khi đó, tình hình chính trị miền Nam không những không cải thiện mà còn có thêm nhiều mặt tiêu cực mới: giữa Hoa Kỳ và VNCH có những bất đồng về đường lối viện trợ và cách sử dụng viện trợ; giữa cố vấn Mỹ và các nhà chỉ huy quân sự VNCH cũng thường không đồng ý với nhau; chính quyền Ngô Đình Diệm kiểm soát chặt chẽ hơn nữa về chính trị sau cuộc đảo chánh hụt tháng 11-1960; quan niệm sai lầm về ấp chiến lược và tệ nạn tham nhũng khi áp dụng. Vì những lẽ đó, cuộc chiến chống du kích đã bị thất bại, nhất là sau trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) đầu tháng Giêng 1963.20 Cuộc đảo chính tháng Mười Một với cuộc thảm sát hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu và vụ ám sát Tổng thống Kennedy ba tuần sau đó càng làm cho miền Nam bị suy yếu về chính trị và quân sự. Các tướng cầm đầu đảo chánh chỉ lo tranh giành lãnh đạo và củng cố vây cánh hơn là chiến đấu chống cộng. Đảng Lao Động và MTGPMN đã khai thác tối đa tất cả những nhược điểm ấy của VNCH và thu được kết quả thuận lợi. Đầu năm 1964, khoảng một nửa dân số và đất đai vùng quê miền Nam đã nằm dưới sự kiểm soát của MTGPMN ở những mức độ khác nhau.21 Sau chuyến đi Việt Nam giữa tháng 12, 1963, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara báo cáo với Tổng thông Johnson: “Tình hình thật đáng lo ngại…. Cái đà này, nếu không đảo ngược được trong vài ba tháng thì sẽ đưa tới khá lắm là tình trạng trung lập hay, nhiều phần chắc hơn nữa, một quốc gia do Cộng sản kiểm soát.”22

Trước tình thế bất lợi đó, Tổng Thống Lyndon Johnson, người kế nhiệm Kennedy, phải thiết lập một chiến lược mới để đối phó, chuẩn bị cho giai đoạn tham chiến trực tiếp của Hoa Kỳ. Tháng Hai 1964, Johnson chấp thuận một kế hoạch hành động bí mật mang tên là OPLAN 34A do McNamara và ban tham mưu quốc phòng đề nghị với mục đích “thuyết phục Bắc Việt hãy vì quyền lợi của chính họ mà từ bỏ ý định xâm lược miền Nam.”23 Khác với các hoạt động do CIA điều khiển mấy năm trước, OPLAN 34A là một chương trình mười hai tháng do giới chỉ huy quân sự Mỹ phụ trách sồm ba giai đoạn. Theo Hồ sơ Ngũ giác đài, giai đoạn 1 (đầu tháng Hai đến cuối tháng Năm) thâu thập tin tức do máy bay thám thính U-2 và các hoạt động tình báo và tâm lý chiến như thả truyền đơn, máy thu thanh, chương trình phát thanh. Ngoài ra còn dự liệu khoảng 20 hoạt động phá hoại trong khả năng của VNCH vừa gây thiệt hại vật chất vừa khủng bố tinh thần đối phương. Giai đoạn hai và ba cũng gồm những loại hoạt động này nhưng nhiều và mạnh hơn, và các đối tượng phá hoại được mở rộng tới những mục tiêu thiết yếu của đời sống kinh tế và kỹ nghệ ở miền Bắc.

Mặc dù kết quả của bốn tháng thí nghiệm OPLAN 34A (giai đoạn 1) bị coi là “bước đầu chậm chạp” (slow beginning), Johnson cho phép tiến hành kế hoạch này thêm bốn tháng nữa. Trong mọi trường hợp, mọi hoạt động đều do VNCH thực hiện, Hoa Kỳ chỉ cố vấn kỹ thuật và cung cấp phương tiện mà thôi. Tuy nhiên chính sách này thay đổi hẳn khi biến cố Maddox24 xảy ra vào đầu tháng Tám đã đưa tới Nghị quyết Vịnh Bắc Việt của Quốc Hội Hoa Kỳ “chấp thuận và ủng hộ quyết định của Tổng thống sử dụng mọi biện pháp cần thiết để đẩy lui bất cứ một cuộc tấn công vũ trang nào chống lại các lực lượng của Hoa Kỳ và để ngăn ngừa sự gây hân hơn nữa.” Đoạn 2 của Nghị quyết còn nói rõ là Tổng thống có quyền “sử dụng mọi phương tiện, kể cả quân lực, để giúp đỡ bất cứ một quốc gia hội viên hay ở trong vòng bảo vệ của Minh Ước Liên Phòng Đông Nam Á, nếu Hoa Kỳ được yêu cầu giúp đỡ bảo vệ tự do cho nước đó.” Nghị quyết này, được thông qua tối đa ở cả Hạ viện (416-0) lẫn Thượng viện (88-2), chính thức cho phép quân lực Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến và mở đầu cho một thời kỳ khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam (1965-1973) dưới hai đời Tổng thống Johnson và Nixon.

Chiến lược Johnson được thiết lập trên căn bản “cây gậy và củ cà-rốt”, một mặt dùng áp lực quân sự và một mặt đề nghị thương thuyết hòa bình. OPLAN 34A được các Tham mưu trưởng Liên Quân điều chỉnh lại, gồm ba loại hành động tùy cơ đối phó với Bắc Việt:

1. Hành động kiểm soát biên giới, tấn công các hoạt động xâm nhập của Bắc Việt trên đường mòn Hồ Chí Minh, kể cả truy lùng vào lãnh thổ Lào và Cam-bốt;
2. Hành động trả đũa, ném bom trên lãnh thổ Bắc Việt mỗi khi lực lượng VNCH hay Hoa Kỳ bị tấn công;
3. Áp lực quân sự leo thang công khai, phá hoại những mục tiêu quân sự và cơ sở kỹ nghệ, nhằm “thuyết phục” Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị.

Hai loại (1) và (2) trước đây vẫn do quân lực VNCH thực hiện, nay tất cả ba loại hành động đều sẽ do quân lực Hoa Kỳ chủ động. Song song với hoạt động quân sự, Johnson bắt đầu mở những cuộc thăm dò ngoại giao với Hà Nội. Ngày 17 tháng Sáu, J. Blair Seaborn, trưởng đoàn Canada trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát, chuyển giao một thông điệp của Tổng thống Johnson tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho biết rằng “Hoa Kỳ không có ý định tìm cách lật đổ chế độ cộng sản ở miền Bắc và cũng không có ý định duy trì các căn cứ quân sự ở miền Nam, mà chỉ muốn giới lãnh đạo Hà Nội giữ quân của họ trong lãnh thổ Bắc Việt và chấm dứt việc tiếp tế quân sự cho miền Nam theo tinh thần các hiệp định Genève 1954 và 1962. Nếu đề nghị này được chấp thuận, Hoa Kỳ sẽ viện trợ kinh tế cho tất cả các nước trong vùng, kể cả Bắc Việt. Nếu không, Bắc Việt sẽ phải chịu ‘một cuộc tàn phá rộng lớn nhất’ của Hoa Kỳ.”25 Hà Nội lúc này đang chịu ảnh hưởng của Bắc Kinh nên đã bác bỏ đề nghị của Johnson, đòi Mỹ phải rút hết quân khỏi miền Nam và thừa nhận một chính quyền “trung lập” như được hoạch định bởi MTGPMN.

Sau khi Quốc Hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Việt, ngày 13 tháng Tám, Johnson còn nhờ Seaborn gặp Phạm Văn Đồng một lần nữa để nhắc lại đề nghị của Mỹ hồi tháng Sáu về việc “nhận viện trợ hay bị tàn phá.” Phạm Văn Đồng nổi giận, cảnh cáo rằng các cuộc tấn công kéo dài của Mỹ sẽ trải rộng chiến tranh “tới toàn vùng Đông Nam Á.” Theo Stanley Karnow, sau đó Phạm Văn Đồng đổi thái độ, nhẹ nhàng khuyến cáo Seaborn lần sau trở lại với những đề nghị mới của Mỹ, có lẽ trên căn bản Hiệp định Genève 1954. Ngay sau Seaborn còn có hai trung gian có uy tín khác là Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant và Thủ tướng Liên Xô Nikita Khruschev. Những những nỗ lực này vừa bị ban tham mưu của Tổng Thống Mỹ cản trở vừa gặp phải chuyện không may. Vào tháng Chín, khi U Thant nhận được tin của Hà Nội đồng ý hòa đàm và chuyển cho Washington thì tin này không được trình lên Tổng Thống. Hà Nội cũng nghe theo lời khuyên của Khruschev mặc dù đã đi với Bắc Kinh chống “chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô, vì chỉ Liên Xô mới có thể cung cấp hỏa tiễn địa-không và cơ giới nặng. Tuy nhiên, mọi việc thu xếp cho hòa đàm lần này cũng bị tiêu tan khi Khruschev bị nhóm Brezhnev và Kosygin lật đổ vào tháng Mười.

Ở đây cũng nên nhắc đến thái độ của Bắc Kinh nhất quyết chống lại mọi nỗ lực giải quyết chiến tranh Việt Nam bằng thương thuyết và luôn luôn khuyến cáo Hà Nội không nên rơi vào bẫy của đế quốc Mỹ và bè lũ xét lại Liên Xô.26 Không riêng gì những nỗ lực của các nước Tây phương hay của Nga Sô, ngay cả mọi đề nghị từ phía những nhẩn vật trung lập có uy tín như Tổng thống Radhakrishnan của Ấn độ hay Tổng thống Nkrumah của Ghana cũng bị Trung Quốc gạt bỏ. Bắc Kinh thường xuyên nhắc nhở các lãnh tụ ở Hà Nội chiến đấu tới chiến thắng cuối cùng. Theo một tài liệu bắt được của Bắc Việt năm 1967, “Trung Quốc quyết tâm giúp chúng ta chiến đấu đến đời con đời cháu của chúng ta.”27

Dù những nỗ lực ngoại giao không đem lại kết quả, Tổng Thống Johnson vẫn dè dặt trong việc để cho phi công Hoa Kỳ tham chiến. Vì vậy, sau khi phi trường Biên Hoà bị Cộng sản pháo kích ngày 1 tháng 11, hai ngày trước cuộc bầu cử Tổng Thống, phá hủy một số máy bay vừa đưa từ Phi-líp-pin qua và gây thương vong cho một số quân nhân Mỹ và VNCH, Johnson vẫn không hạ lệnh trả đũa trên lãnh thổ Bắc Việt. Ông chỉ đồng ý cho các phi cơ từ các hàng không mẫu hạm oanh tạc những đường xâm nhập của cộng sản ở Nam Lào. Ngay cả sau khi đã thắng cử, ông vẫn kìm hãm hành động trừng phạt miền Bắc khi cư xá Brinks của các sĩ quan cố vấn Mỹ ở Sài-gòn bị đặt bom làm cho 2 người chết và 58 bị thương, đúng một ngày trước Lễ Giáng Sinh. Lý do chính là vì ông lo ngại những cuộc tranh giành quyền lực giữa các tướng lãnh VNCH sẽ làm cho tình hình quân sự trở nên nguy hiểm hơn nếu cộng sản trả đũa những phi vụ oanh tạc trên miền Bắc. Đại sứ Maxwell Taylor báo cáo tuyệt vọng về lãnh đạo chính trị ở miền Nam.28 Tướng William Westmoreland (Westy) đã bi quan nhận định rằng “trừ phi thấy có triển vọng về sự ra đời rất sớm của một chính phủ có hiệu lực, hành động tấn công của Mỹ dù lớn đến đâu, ở trong hay ở ngoài miền Nam Việt Nam, cũng không thể hi vọng tự một mình nó đảo ngược được tình trạng tan rã đang diễn ra.”29

Tinh hình đó, thêm vào vụ tấn công qui mô của cộng sản ở Bình Giã (Bà Rịa) hồi đầu tháng Giêng 1965, gây thiệt hại nặng cho quân đội VNCH, đã khiến cho McGeorge Bundy, Phụ tá đặc biệt của Tổng Thống về An ninh, cùng với Bộ trưởng Quốc phòng McNamara “kết luận một cách đau buồn và miễn cưỡng rằng đã đến lúc phải thay đổi phương sách hành động.”30 Trong thư nội bộ (memorandum) gửi cho Tổng thống Johnson ngày 27 tháng Giêng, hai ông đã nhấn mạnh vào điểm đó và đề nghị hai sự lựa chọn cho Tổng thống quyết định:
…cả hai chúng tôi đều tin chắc rằng chính sách hiện thời của chúng ta chỉ có thể đưa tới thảm bại. Điều chúng ta hiện đang làm cốt yếu là chờ đợi và hi vọng có một chính phủ vững vàng. Những chỉ thị trong tháng Mười Hai của chúng ta cho biết rất rõ là các hoạt động chống cộng sản không được mở rộng hơn trừ khi chúng ta có được một chính phủ như vậy. Trong sáu tuần qua, nỗ lực đó đã không thành công và Bob (McNamara) cũng như tôi đều tin rằng không thật sự có hi vọng thành công trừ khi và cho đến khi chính sách và những ưu tiên của chính chúng ta được thay đổi.

…không ai còn hi vọng rằng sẽ có một chính phủ vững vàng trong lúc chúng ta cứ ngồi yên. Kềt quả là chúng ta bị kẹt cứng trong một chính sách cứu trợ ban đầu cho những chính trị gia ưa cãi lộn và trong cách phản ứng thụ động trước những biến cố mà chúng ta không muốn kiểm soát. Hay có vẻ như vậy.

Chúng tôi thấy có hai sự lựa chọn. Thứ nhất là sử dụng sức mạnh quân sự của chúng ta ở Viễn Đông và ép buộc cộng sản phải thay đổi chính sách. Thứ nhì là vận dụng mọi nguồn lực của chúng ta vào con đường đàm phán, nhằm cứu vãn chút gì còn giữ được mà không làm gia tăng những nguy cơ quân sự hiện thời. Bob và tôi nghiêng về lựa chọn thứ nhất, nhưng chúng tôi tin rằng cả hai đều cần được nghiên cứu cẩn thận và những chương trình thay thế khác đều phải được thảo luận kỹ càng trước sự hiện diện của Tổng Thông.31

Ngày 7 tháng Hai, cộng sản tấn công vào phi trường Pleiku phá hủy mười máy bay, làm chết 8 quân nhân Mỹ và trên 100 người khác bị thương. Cuộc tấn công này xảy ra giữa lúc McGeorge Bundy đang ở Sài-gòn quan sát tình hình và Kosygin đang ở Hà Nội thảo luận vấn đề viện trợ quân sự đồng thời khuyến cáo giới lãnh đạo Bắc Việt chấp thuận giải pháp điều đình. Kết quả là Johnson quyết định leo thang chiến tranh và Kosygin không có lựa chọn nào khác hơn là gửi phi đạn địa-không cho Hà Nội. Stanley Kamow cho rằng Hà Nội, vốn chống lại khuynh hướng chủ hoà của Kosygin, đã sắp xếp vụ tấn công Pleiku để buộc Hoa Kỳ phải trả đũa và đẩy Liên Xô vào thế chẳng đặng đừng. Sau này, Kamow kể lại chuyện đã được một nhân viên Sô-viết tham dự các phiên họp mô tả phái đoàn Bắc Việt là “một lũ khốn kiếp cứng đầu” (a bunch of obstinate bastards).32

Ngay sau khi phi trường Pleiku bị pháo kích, máy bay của chiến dịch “Phi Tiêu Lửa” (Flaming Dart) từ Đệ thất Hạm đội oanh tạc một số cơ sở quân sự cộng sản ở Đồng Hới. Tiếp theo là chiến dịch “Sấm Rền” (Rolling Thunder) bắt đầu từ 2.3.1965 với trên 100 phi cơ của không lực Hoa Kỳ và VNCH đánh phá các kho đạn Bắc Việt. Chiến dịch này kéo dài tới 31.10.1968, có thể chia làm năm giai đoạn với các mục tiêu đánh phá khác nhau. Giai đoạn một tháng Ba-tháng Sáu 1965) nhắm vào các kho đạn dược, đài ra-đa và doanh trại. Giai đoạn hai (tháng Bảy 1965-tháng Sáu 1966) nhắm vào các cầu, đường và các phương tiện chuyển vận đường bộ và đường thủy. Giai đoạn ba (tháng Bảy-tháng Chín 1966) chú trọng vào các kho dự trữ xăng, dầu. Giai đoạn bốn (tháng Mười 1966-tháng Giêng 1968) đánh vào các mục tiêu kỹ nghệ và điện lực trong khi vẫn tiếp tục các mục tiêu khác. Giai đoạn năm từ sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân (tháng Hai 1968) giới hạn các cuộc oanh tạc vào phía dưới vĩ tuyến 19, đến 31 tháng Mười 1968 thì chiến dịch “Sấm Rền” chấm dứt.

Quyết định của Tổng Thống Johnson dùng không lực Mỹ oanh lac miền Bắc kéo theo việc đưa các binh chủng khác vào tham chiến ở Việt Nam. Ngày 8 tháng Ba 1965, hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ. được đưa vào Đà Nắng để bảo vệ phi trường. Đến cuối năm số quân Mỹ ở Việt Nam tăng lên 175,000 và tiếp tục lên đến cao nhất là 536,000 trong năm 1968. Chi phí cho chiến tranh Việt Nam năm 1965 là 2.9 phần trăm trên tổng số ngân sách liên bang, năm 1968 tăng lên tới 13.49 phần trăm,33 ảnh hưởng tai hại tới chương trình Xã Hội Vĩ Đại (Great Society) của Johnson. Năm 1967, ông phải cắt 6 tỉ dành cho các chi phí khác để đưa sang chi phí quốc phòng và năm 1968 tăng thêm thuế lên 10 phần trăm. Trong khi đó, tình hình chiến sự không khả quan hơn. Những chiến dịch càn quét quân cộng sản chỉ đem lại tình trạng an ninh tạm thời, đời sống dân chúng trong vùng chưa kịp trở lại bình thường thì địch quân đã lại gây xáo trộn và phá hoại.

Ngày 29.9.1967, Johnson đọc diễn văn ở San Antonio hứa ngưng mọi cuộc oanh tạc miền Bắc nếu VNDCCH đồng ý mau chóng thương thuyết và không lợi dụng việc ngưng oanh tạc để đưa thêm quân và vũ khí vào miền Nam. Hà Nội bác bỏ đề nghị có điều kiện này. Westmoreland và các chỉ huy trưởng liên quân yêu cầu tăng thêm quân số và đánh mạnh hơn nữa. McNamara duy trì chủ trương ngưng oanh tạc đơn phương để mở đường cho thương thuyết, nhấn mạnh rằng “chúng ta vẫn có thể ném bom lại bất cứ lúc nào nếu Bắc Việt không thảo luận với thiện chí.” Sau phiên họp tham khảo với nhóm cố vấn đặc biệt34 ngày 2.11, Tổng thống Johnson giữ vững quan điểm tiến hành áp lực quân sự để ngăn chặn sự can thiệp của Bắc Việt vào miền Nam Việt Nam. Cuối tháng 11, Tổng thống Johnson loan tin Bộ trưởng McNamara sẽ từ giã chính quyền để nhận chức vụ Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới từ 1 tháng Ba, 1968. Cố vấn Clark Clifford được bổ nhiệm làm tân Bộ trưởng Quốc phòng. Sau trận Tết Mậu Thân, nhóm cố vấn đặc biệt lại được triệu tập ngày 25.3, nhưng lần này thì đa số đồng ý phải giải quyết cuộc chiến bằng thương thuyết vì không thể chặn được đường xâm nhập của Bắc Việt vào miền Nam và địch quân dù thiệt hại nặng vẫn có thể chiến đấu lâu dài. Ngày 31.3, Johnson lên đài truyền hình loan báo quyết định ngưng các cuộc tấn công trên lãnh thổ Bắc Việt trừ khu vực phía dưới vĩ tuyến 20 và muốn mở cuộc hòa đàm với VNDCCH. Cuối bài diễn văn, Johnson loan báo thêm một tin bất ngờ là ông sẽ không ứng cử và cũng không chấp nhận Đảng Dân chủ đề cử ông tái tranh cử Tổng thống vào tháng Mười Một. Ba ngày sau, VNDCCH cho biết sẵn sàng nói chuyện với Hoa Kỳ. Hai bên đồng ý gặp nhau tại Paris và cuộc hoà đàm chính thức bắt đầu ngày 13 tháng Năm giữa hai phái đoàn Averell Harriman và Xuân Thủy.

Trước khi nói về hoà đàm Paris (1968-1973), cũng cần phải nói đến chiến dịch “Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa” (TCK/TKN) Tết Mậu Thân. Đây là nguyên do chính khiến Tổng thống Johnson quyết định rút lui khỏi chính trường và, trước khi ra đi, muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường thương thuyết. Trận tổng công kích Tết Mậu Thân cũng đánh dấu một khúc ngoặt quyết định trong cuộc chiến Việt Nam, đem lại những điều kiện thuận lợi bất ngờ cho Bắc Việt.

Chiến dịch TCK/TKN được thực hiện vì cả hai lý do quân sự và chính trị:
Từ 1965 đến cuối 1967, Quân đội Giải phóng miền Nam (QGPMN) gồm cả bộ đội chủ lực từ miền Bắc đã không thể đương đầu với hoả lực và tính di động của quân đội Mỹ và có nguy cơ thất bại nếu kéo dài tình trạng cầm cự bằng chiến tranh tiêu hao. Vì vậy, Bộ Chính trị ở Hà Nội thấy cần phải sớm chấm dứt cuộc chiến bằng một trận đánh quyết định như trận Điện Biên Phủ năm 1954. Theo cựu Đại Tá Bùi Tín, “đến cuối năm 1967, quân đội Sài-gòn và quân Mỹ hoạt động mạnh, mở nhiều chiến dịch tiến công, quân Bắc Việt thường ở thế đối phó, giữ lực lượng, rút ra xa và mất nhiều khu vực đông dân. Vì thế, năm 1968 họ cần một đợt hoạt động mạnh để giành lại thế chủ động, cải tiến thế trận.”35 Sách lịch sử miền Bắc cho biết:

Trung ương Đảng ta, tại Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 12-1967) và Hội nghị toàn thể ban Chấp hành lần thứ 14 (tháng 1-1968), thông báo quyết định lịch sử: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kì mới —thời kì giành thắng lợi quyết định.” Nghị quyết của Đảng còn chỉ rõ: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích-tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.”36

Quyết định quân sự này lại được tăng cường bởi hai lợi điểm do tình hình chính trị nội bộ của Hoa Kỳ mà các nhà lãnh đạo Bắc Việt không thể không khai thác: Thứ nhất là phong trào phản chiến đang lan tràn mạnh mẽ ở Hoa Kỳ, nhất là sau khi Mục sư Martin Luther King Jr., người vẫn ủng hộ chương trình “Xã hội Vĩ đại” của Johnson, quyết định lên tiếng vào đầu năm 1967. chống lại việc Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến ở Việt Nam. Thứ hai là khuynh hướng muốn chấm dứt chiến tranh đang gia tăng trong Quốc Hội và ngay cả trong nội bộ Đảng Dân Chủ, đúng vào thời điểm vận động tranh cử Tổng thống năm 1968. Khuynh hướng này sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới triển vọng tái đắc cử của Tổng thống Johnson.

Nói tóm lại, dưới góc nhìn chiến lược của Hà Nội, một thắng lợi quân sự lớn của quân đội Bắc Việt và Việt Cộng trong năm 1968 chắc chắn sẽ khiến Johnson phải tìm giải pháp hòa bình và rút quân về nước, nếu ông muốn tái đắc cử trong cuộc bỏ phiếu tháng Mười Một.

Chiến dịch TCK/TKN Tết Mậu Thân được diễn ra qua ba đợt: 30.1 đến 25.2, 5.5 đến 15.6, Và 17.8 đến 30.9. Chiến dịch này đã được nhiều tác giả mô tả đầy đủ, ở đây chỉ cần nhắc lại một cách vắn tắt cuộc Tổng công kích lớn nhất trong đợt đầu và chú trọng nhiều hơn vào việc phân tích kết quả của chiến dịch.

Sau những trận đánh ở biên giới từ giữa đến cuối năm 1967 như trận Khe Sanh, Lộc Ninh, Cồn Thiện và Dak To để dụ Hoa Kỳ và VNCH rút bớt quân phòng thủ các đô thị ra các địa điểm gần biên giới Cam-bốt và khu phi quân sự ở vĩ tuyến 17, đầu năm 1968, Tướng Võ Nguyên Giáp quay trở lại mặt trận Khe Sanh với số quân từ 20,000 đến 30,000 để lôi cuốn thêm lực lượng của Mỹ vào vòng chiến. Quả thật trận Khe Sanh đã được Hoa Kỳ đặc biệt chú trọng, thậm chí Tổng thống Johnson đã cho thiết lập một mô hình trận địa Khe Sanh tại “Phòng Tình Hình’’ (Situation Room) trong toà Bạch Ốc để tiện theo dõi trận đánh. Trong khi đó, các đơn vị Quân đội Giải phóng miền Nam, lợi dụng tình trạng giao thông tấp nập và kiểm soát lỏng lẻo trong thời gian dân chúng chuẩn bị ăn Tết, đã len lỏi và vận chuyển được nhiều vũ khí vào các đô thị và tỉnh thành ở miền Nam.

Tình báo quân sự Mỹ được tin tức về những vụ chuyển quân của cộng sản và dự đoán sẽ có những cuộc tấn công trước hay sau Tết nhưng không lượng định được rằng đây là trận đánh quyết định ở mức độ toàn diện. Ngày 10 tháng Giêng, tướng Frederick C. Weyand, tư lệnh Lực lượng Chiến trường vùng II, được sự chấp thuận của Tổng tư lệnh Westmoreland, bắt đầu chuyển quân chiến đấu về vòng đai Sài-gòn, tăng cường lực lượng bảo vệ thủ đô từ 14 lên 27 tiểu đoàn. Theo đề nghị của tướng Westmoreland, Tổng thống Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên giảm thời gian hưu chiến ngày Tết từ 48 xuống 36 tiếng đồng hồ và duy trì 50 phần trăm quân đội trong tình trạng báo động.
Theo kế hoạch đã định, chiến dịch TCK/TKN được phát động vào nửa đêm ngày 31.1.1968 tức vào giờ Giao thừa mồng Một Tết Mậu Thân, nhưng do việc Hà Nội thay đổi âm lịch sớm hơn một ngày từ tháng Tám 1967 nên cuộc tấn công diễn ra không đồng loạt ở nhiều nơi. Tại Đà Nẵng, Hội An, Qui Nhơn, Nha Trang, Kontum, Pleiku và Ban-mê-thuột, cuộc tấn công bắt đầu vào 00:15 ngày 30.1, do đó VNCH lập tức bãi bỏ lệnh hưu chiến, binh sĩ được gọi gấp về đơn vị và các lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ cũng được chuyển đến những vị trí chiến lược. Hai mươi bốn giờ sau, Sài-gòn, Huế và các thành phố, tỉnh và thị trấn khác trên toàn lãnh thổ miền Nam mới bị tấn công. Thủ đô Sài-gòn và cố đô Huế là hai địa điểm chính cần được chiếm đóng mau chóng để làm cơ sở cho cuộc “tổng nổi dậy” của dân chúng phá đổ “ngụy quyền” và đón mừng đoàn quân giải phóng. Tuy nhiên, trừ Huế và Chợ Lớn, mọi cuộc tấn công vào Sài-gòn và các nơi khác đều bị đẩy lui chỉ sau vài ngày tác chiến.

Trận công kích Sài-gòn bị thất bại mau chóng vì giới lãnh đạo Bắc Việt quá chủ quan, tin tưởng quân giải phóng sẽ chiếm giữ hay phá hủy được những cơ sở trọng yếu về hành chánh và quân sự của VNCH và Hoa Kỳ, nhất là chiếm được Dinh Độc Lập và toà Đại sứ Mỹ để gây tiếng vang quốc tế, trong khi dân chúng thủ đô sẽ ồ ạt xuống đường biểu tình ủng hộ cuộc cách mạng giải phóng chống ngụy quyền và đế quốc Mỹ. Tất cả những mục tiêu của cuộc tấn công đều không đạt được, trừ việc đốt phá một phần kho đạn ở Long Bình, cách Sài-gòn khoảng 20 dặm. Quân giải phóng không lọt được vào Dinh Độc lập, toán tấn công Đại Sứ quán Mỹ thì bị tiêu diệt khi mới lọt vào sân trước. Trung đoàn 101 chiếm được kho dự trữ Gò Vấp, nhưng các chiến xa ở đây đã được chuyển đi nơi khác. Mười hai cỗ súng đại bác 105 ly để lại thì không sử dụng được vì bộ phận khai hỏa đã bị quân VNCH tháo ra đem đi mất. Những toán quân đã lọt vào thành phố không liên lạc được với nhau và bị tiêu diệt hay phải rút lui vào Chợ Lớn. Một trung đội C- 10 chiếm được Đài Phát thanh có chuyên viên đem theo cuộn băng thâu sẵn của Bộ Chỉ huy chiến dịch TCK/TKN nhưng không phát thanh được vì tuyến truyền thanh đã bị chuyên viên kỹ thuật của đài vô hiệu hóa bằng tín hiệu từ xa. Tại Chợ Lớn, quân cộng sản chiếm được truờng đua ngựa Phú Thọ làm trung tâm chỉ huy các cuộc chiến đấu với các lực lượng phòng vệ thủ đô, nhưng đến ngày 7 tháng Ba cũng phải bỏ chạy.

Mặt trận ở Huế diễn ra ác liệt nhất. Chỉ trong vài ngày đầu tiên, cố đô đã bị quân cộng sản chiếm gần hết. Quân đội VNCH và Hoa Kỳ phải chiến đấu rất khó khăn để giành lại từng căn nhà, từng góc phố như hình ảnh chiến tranh trong các thành phố ở châu Âu thời đệ nhị Thế chiến. Ngày 25 tháng Hai, sau khi quân cộng sản hoàn toàn rút khỏi Huế, thành phố đã bị phá hủy gần một nửa, 116,000 người trong tổng số trên 140,000 dân không có nơi trú ngụ. Tài liệu của Mỹ về thiệt hại nhân sự cho thấy có trên 5,000 quân cộng sản bị giết, 89 bị bắt, còn con số bị thương rất lớn nhưng không biết rõ. Phía VNCH có 384 chết và 1,830 bị thương, Mỹ có 216 chết và 1,354 bị thương. Đáng nói hơn hết là những nạn nhân dân sự bị giết gồm công chức, trí thức, lãnh tụ tôn giáo, chính trị và các “phần tử phản động”, tổng số tìm thấy trong các mồ chôn tập thể là 2,810 người, không kể hàng ngàn người khác bị mất tích. Theo Douglas Pike, một chuyên gia về Việt Nam, số nạn nhân bị giết có thể lên tới 5,700 người.37 Một số giáo sư ngoại quốc hợp tác với Viện Đại Học Huế cũng bị tàn sát trong trận này.

Sau trận tổng công kích trên toàn thể miền Nam, lực lượng quân địa phương của MTGPMN bị tiêu diệt gần hết và việc tuyển quân để bù đắp rất khó khăn. Từ nay cho đến khi chiến tranh chấm dứt Quân đội Nhân dân miền Bắc là thành phần chủ lực trong tất cả các trận đánh. Tính đến cuối tháng Ba, tổng số binh sĩ tử trận: phía QGPMN 58,000 người; phía VNCH 4,954; Hoa Kỳ 3,895 và các nước Đồng Minh 214. Tổng số thường dân miền Nam bị chết là 14.300 người.38

Chiến dịch TCK/TKN là một thất bại lớn của Đảng Lao động và MTGPMN cả về quân sự lẫn chính trị đối nội vì, trái với niềm tin toàn thắng của các chiến lược gia cộng sản, Tổng công kích thì bị đẩy lui mà Tổng khỏi nghĩa thì nhân dân không nổi dậy theo “cách mạng.” Sách giáo khoa Sử của Hà Nội cũng nhìn nhận sự thất bại này và giải thích:
Cuộc tập kích chiến lược Tết Mậu Thân — mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy — là đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu quân Mỹ, gần 1 triệu quân ngụy), cơ sở của chúng ở thành thị mạnh nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng và phản công quân ta ở cả thành thị lẫn nông thôn. Vì vậy trong đợt 2 và 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, lực lượng ta gặp không ít khó khăn và tổn thất. Quân cách mạng vào chiếm giữ trong đợt 1 bị đẩy khỏi thành phố. Những người dân có cảm tình với cách mạng, ủng hộ quân giải phóng trước đó bị bắt. Nhiều vùng nông thôn giải phóng của ta trước đây bị địch chiếm. Mục tiêu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy không đạt được đầy đủ. Lực lượng của ta bị tổn thất nhiều…. 111,306 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và chính trị ở miền Nam đã hi sinh và bị thương.”39

Qua những tài liệu bắt được, những bài hiệu triệu truyền thanh và những cuộc thẩm vấn tù binh, người ta thấy ban lãnh đạo chiến dịch tin tưởng trận đánh quyết định này sẽ “giải phóng cho 14 triệu đồng bào miền Nam” và “hoàn tất nhiệm vụ cách mạng”, tin tưởng binh sĩ VNCH sẽ đào ngũ và dân chúng sẽ nổi dậy hoan nghênh đoàn quân giải phóng, do đó thúc đẩy các lực lượng tấn công phải “đạt được chiến thắng cuối cùng bằng mọi giá”. Khác với những trận đánh lớn trước, kế hoạch tổng công kích Tết Mậu Thân có mục đích chiếm-và-giữ chứ không phải đánh-và-chạy, vì vậy không có những chỉ thị cho trường hợp cần phải rút lui.40 Yếu tố chủ quan này được coi là nguyên nhân chính gây nên sự thất bại của toàn thể chiến dịch:

Có hạn chế là do ta chủ quan trong việc đánh giá cao lực lượng mình, đánh giá thấp lực lượng địch và do tư tưởng nóng vội muôn giành thắng lợi lớn, kết thúc nhanh chiến tranh; chỉ đạo lại thiếu chủ động, không kịp thời điều chỉnh kế hoạch rút khỏi thành phố sau đợt 1 về giữ vùng nông thôn của ta để bảo toàn và củng cố lực lượng.41
Thất bại lớn nhất đối với các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự miền Bắc và MTGPMN là phản ứng của dân chúng đối với cuộc Tổng công kích, không những không nổi dậy để hưởng ứng quân “giải phóng” mà trái lại rất oán hận giới lãnh đạo cộng sản đã cố ý tấn công đúng vào ngày Tết, vừa vi phạm trắng trợn lời hứa hưu chiến trong ngày lễ truyền thống thiêng liêng nhất của dân tộc, vừa thi hành biện pháp tắm máu như vụ tàn sát tập thể mấy ngàn người trong ba tuần chiếm giữ Huế. Trong lịch sử Việt Nam thời trước đã một lần có cuộc tổng tấn công vào dịp Tết Nguyên Đán là chiến dịch đại phá quân Thanh của vua Quang Trung năm Kỷ Dậu (1789),42 nhưng đây là một cuộc hành quân chống giặc ngoại xâm và không có lời giao ước hưu chiến giữa đôi bên. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã giết hại chính đồng bào của mình khiến cho dân chúng sợ hãi và xa lánh cộng sản. Cảnh tượng dân chúng lũ lượt bỏ chạy các tỉnh miền Cao nguyên về Nha Trang và từ Quảng Trị vào Đà Nẵng trong những đợt tấn công của bộ đội miền Bắc hồi tháng Ba 1975 đã phản ánh rõ rệt tâm lý khiếp sợ và chối bỏ cộng sản của người dân miền Nam. Trên 100,000 người đã thiệt mạng trong những cuộc tháo chạy này, hoặc do đạn pháo kích của quân tân công hoặc do dày xéo lên nhau.

Tuy nhiên, trận Tết Mậu Thân đã đem lại cho Hà Nội một thắng lợi chính trị rất lớn ở Hoa Kỳ. Hình ảnh tòa Đại sứ Mỹ bị tấn công cùng những cảnh tượng xung đột và xác chết nạn nhân được phơi bày trên màn ảnh truyền hình và báo chí mỗi ngày, kèm theo những lời bình luận chỉ trích chính quyền đã khiến cho uy tín của Johnson bị suy giảm trầm trọng. Thêm vào đó, sự bế tắc trong các nỗ lực chấm dứt chiến tranh bằng thương thuyết do thái độ cứng rắn của Hà Nội, đồng thời với những khó khăn trầm trọng về nội bộ đã khiến Johnson phải quyết định rời bỏ chính trường. Tâm trạng của Johnson được biểu lộ rõ khi ông than phiền với Doris Goodwin, người viết tiểu sử của ông:
Ngay từ đầu tôi đã biết rằng dù hành động cách nào tôi cũng vẫn sẽ bị chỉ trích. Nếu tôi bỏ người yêu thật sự của tôi—tức chương trình “Xã hội Vĩ đại”—để dan díu với con điếm chiến tranh ở bên kia bán cầu thì tôi sẽ mất hết mọi thứ ở trong nước… Nhưng nếu tôi từ bỏ cuộc chiến đó và để cho Cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam thì tôi sẽ bị coi là một kẻ hèn nhát và nước Mỹ là kẻ nhượng bộ, và chúng ta sẽ không còn có thể làm được chuyện gì cho bất cứ ai ở bất cứ nơi nào trên toàn thế giới.43

Khi quyết định từ bỏ chính trường và tìm giải pháp hòa bình cho cuộc chiến, Tổng thống Johnson cũng muốn tạo điều kiện thắng lợi cho Phó Tổng thống Humphrey trong cuộc chạy đua vào Toà Bạch Ốc. Tuy nhiên, những cố gắng cuối cùng của chính quyền Johnson nhằm thuyết phục Hà Nội và Sài-gòn đáp ứng các đề nghị hòa đàm đều thất bại. Một yếu tố quan trọng đã khiến cho “ứng cử viên hòa bình” Humphrey bị thua đối thủ Richard Nixon sát nút là việc Tổng thống Thiệu không chịu ký bản Thông cáo chung với Tổng thống Johnson ngày 31 tháng Mười, vì Hoa kỳ không thể đoan chắc về sự đáp ứng của Hà Nội đối với quyết định ngưng oanh tạc toàn diện Bắc Việt. Ngoài ra, VNCH không chấp nhận MTGPMN tham dự hòa đàm với tư cách một phái đoàn độc lập ngang hàng với VNCH.44 Ngày hôm sau, 31 tháng Mười, Johnson tuyên bố ngưng oanh tạc toàn diện miền Bắc nhưng đã quá trễ để có thể giúp cho ứng cử viên chủ hoà Hubert Humphrey trong cuộc bầu cử năm ngày sau đó. Humphrey chỉ thua Nixon 0.6 phần trăm số phiếu cử tri (42,7% so với 43.3%) nhưng thua đậm về số cử tri đoàn (191 so với 302).45 Cũng nên biết thêm là trong cuộc tranh cử với Humphrey, Nixon tuyên bố ông có “kế hoạch bí mật” để chấm dứt chiến tranh —một kế hoạch mà sau này Nixon đã nhìn nhận trong một cuộc phỏng vấn là không bao giờ có. Rốt cuộc, ngày 25 tháng Giêng 1969, chỉ năm ngày sau khi Nixon bắt đầu nhiệm kỳ Tổng thống, VNCH vẫn phải tham dự hòa đàm Paris cùng với phái đoàn MTGPMN theo công thức của chính quyền Johnson đề nghị với Hà Nội là “phe các anh, phe chúng tôi” để tiến đến thỏa thuận là “hai bên, bốn phái đoàn.”46 Trước đó, VNCH chỉ có một phái bộ liên lạc bên cạnh phái đoàn Mỹ tại hội nghị.

Việc VNCH tham gia hội nghị Paris là một quá trình phức tạp có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ trong quan hệ Việt-Mỹ. Như trên đã nói, ngày 3 tháng Tư 1968, ba ngày sau khi Tổng thống Johnson tuyên bố quyết định không tái ứng cử và ngưng ném bom giới hạn Bắc Việt để “sẵn sàng thương thuyết tức thời,” VNDCCH đồng ý tiếp xúc với Hoa Kỳ để thảo luận về các điều kiện hoà đàm. Ngay hôm sau, các Đại sứ của sáu quốc gia đồng minh (Hoa Kỳ, Đại Hàn, Thái Lan, Phi-líp-pin, Úc và Tân Tây-Lan) được mời đến họp tại Dinh Độc lập đồng ý với VNCH đưa ra Bản Thông cáo Chung “nhấn mạnh rằng những cuộc thương thuyết song phương giữa Washington và Hà Nội, không có sự tham dự của VNCH, sẽ chỉ có tính cách thăm dò. Vì vậy, một mặt, Hoa Kỳ không thể có một quyết định nào trong cuộc điều đình với Hà Nội mà không có sự thỏa thuận trước của chính phủ VNCH, và mặt khác, những vấn đề chính trị ở Nam Việt-Nam, vì thuộc phạm vi chủ quyền của VNCH, sẽ không thể được nêu lên trong những cuộc thảo luận song phương giữa Washington và Hà Nội.”47 Phải mất một tháng trời, hai bên mới thoả thuận việc lựa chọn Paris làm địa điểm hội nghị. Cuộc thương thuyết chính thức bắt đầu ngày 10 tháng Năm với Averell Harriman làm trưởng phái đoàn Mỹ và Xuân Thủy là trưởng phái đoàn Bắc Việt.

Hòa đàm Paris vấp ngay phải trở ngại đầu tiên là vấn đề VNDCCH đòi hỏi Hoa Kỳ phải ngưng mọi cuộc oanh tạc trên toàn thể Bắc Việt trước khi tiến hành cuộc thương thuyết. Trở ngại này kéo dài năm tháng trời khiến cho Hoa Kỳ bị yếu thế vì dư luận chống chiến tranh ở trong nước gia tăng trong khi Hà Nội lợi dụng thời gian Mỹ ngưng oanh tạc (dù giới hạn) để củng cố lực lượng và chuyển thêm vũ khí vào Nam. Ngày 31 tháng Mười, Johnson tuyên bố ngưng oanh tạc toàn diện nhưng không chịu nói là vô điều kiện mặc dù trong cuộc họp báo ở Paris ngày 2.11, Xuân Thủy khẳng định rằng việc Hoa Kỳ ngưng oanh tạc là vô điều kiện. Trở ngại thứ nhì là VNDCCH không chịu nói chuyện với VNCH trong khi VNCH chống lại sự hiện diện của MTGPMN. Phải mất thêm hai tháng rưỡi nữa mới đi đến thỏa thuận, trước hết là về công thức “Hai bên, Bốn phái đoàn,” sau đó là về hình thể bàn hội nghị và chỗ ngồi của mỗi phái đoàn. Phiên họp chính thức đầu tiên diễn ra ngày 25.1.1969.

Sau khi nhậm chức ngày 20.1.1969, Tổng thống Nixon cử Henry Cabot Lodge làm truởng đoàn Hoa Kỳ thay thế cho Averell Harriman. Trưởng đoàn VNCH là Phạm Đăng Lâm. Trưởng đoàn VNDCCH là Xuân Thủy, và phái đoàn MTGPMN do Trần Bửu Kiếm cầm đầu, sau được thay thế bởi Nguyễn Thị Bình.48 Thời gian thương thuyết từ 25.1.1969 đến khi Hiệp định Paris được ký ngày 27.1.1973 là giai đoạn “đánh đánh đàm đàm”. Hộinghị chính thức ở Paris chỉ là diễn đàn cho hai bên tố cáo lẫn nhau và đưa ra quan điểm của mình, thỉnh thoảng lại bị bế tắc để đo lường phản ứng của mỗi bên. Cuộc điều đình thật sự đưa tới kết quả là những cuộc “mật đàm” từ tháng Hai 1970 giữa Kissinger, Cố vấn về An ninh Quốc gia của Tổng thống Nixon, và Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Lao động và “Cố vấn đặc biệt” của phái đoàn VNDCCH ở hội nghị Paris. Trong những cuộc mật đàm này, Hoa Kỳ đã có những nhượng bộ rất quan trọng đem lại cho Bắc Việt những lợi điểm rõ rệt về quân sự để có thể chinh phục miền Nam năm 1975.

Lập trường lúc đầu của Nixon và Kissinger như được xác định trong bài diễn văn của Nixon ngày 14.5.1969, là quân đội Mỹ và quân đội Bắc Việt đồng thời rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, và Hà Nội phải ngưng mọi cuộc tiếp viện người và vũ khí cho MTGPMN. Hoa Kỳ đã không đạt được cả hai điều kiện then chốt cho hòa bình này. Hiệp định Paris 27.1.1973 chỉ qui định rằng, nội trong 60 ngày, Hoa Kỳ và các đồng minh phải rút về nước tất cả mọi thành phần quân đội và vật liệu chiến tranh (điều 5), và tháo gỡ tất cả các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam (điều 6). Không có điều khoản nào nói đến việc VNDCCH phải rút quân về Bắc.

Vấn đề chấm dứt tiếp viện của Hà Nội cho MTGPMN chỉ được nói đến một cách gián tiếp và tổng quát là hai phe miền Nam (tức VNCH và MTGPMN) không được nhận quân đội, cố vấn và các chuyên gia kỹ thuật trong quân ngũ, khí giới, đạn dược và vật liệu chiến tranh vào miền Nam Việt Nam (điều 7).

Về vấn đề ngưng bắn, điều 2 trong hiệp định chỉ nói đến việc Hoa Kỳ phải “ngưng mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ của VNDCCH bởi các lực lượng hải, lục, không quân từ bất cứ căn cứ nào, và chấm dứt việc thả mìn trên các bến, cảng và các thủy lộ của VNDCCH. Hoa Kỳ sẽ tháo gỡ và phá hủy vĩnh viễn những trái mìn đã thả ở các bến, cảng và thủy lộ ở Bắc Việt ngay sau khi bản hiệp định này có hiệu lực.” Không có khoản nào ngăn cấm các hoạt động quân sự của Bắc Việt ở miền Nam. Điều 3 chỉ nói đến một cách vắn tắt và tổng quát rằng “các phe ở miền Nam Việt Nam phải ngưng tất cả những cuộc tấn công lẫn nhau,” cụ thể là bằng những lực lượng không, thủy, bộ cùng những hành động khủng bố và trả thù của mỗi bên.

Vào những ngày cuối tháng Mười năm 1972, trước cuộc bầu cử Tổng Thống ngày 7 tháng Mười Một mà Nixon là tái ứng cử viên, Kissinger cố hết sức thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu và các phụ tá của ông chấp thuận bản dự thảo hiệp định mà Kissinger đã hẹn sẽ mang ra Hà Nội để ký tắt ngay sau đó. Tổng thống Thiệu cương quyết chống lại những điều khoản nguy hại cho VNCH, đặc biệt giữ vững lập trường về việc Bắc Việt phải rút quân và không thể có hai chính phủ song song ở miền Nam,49 vì thế Kissinger đã không thể đi Nội được, về tới Washington, ông đã tuyên bố một câu vớt vát với báo chí: “Hoà bình đang ở trong tầm tay!” Sau khi Nixon tái đắc cử, Kissinger gặp lại Lê Đức Thọ hi vọng Thọ sẽ bằng lòng sửa đổi vài điểm trong bản dự thảo nhưng cũng không thành công. Ngày 13 tháng Mười Hai, Hà Nội quyết định ngưng mọi phiên họp. Ngày 18, Nixon cho ném bom Bắc Việt dữ dội, kể cả Hà Nội và Hải Phòng.50 Ngày 28, Hà Nội đồng ý trở lại bàn hội nghị. Ngày 29, Nixon hạ lệnh chấm dứt chiến dịch Linebacker II nhưng vẫn cho tiếp tục ném bom giới hạn phía dưới vĩ tuyến 20.

Sang tháng Giêng 1973, Nixon liên lạc với Thiệu bốn lần nữa để yêu cầu chấp thuận bản hiệp định với một vài sửa đổi nhỏ, cam đoan rằng “Hoa Kỳ sẽ phản ứng bằng tất cả sức mạnh cần thiết nếu có sự vi phạm của Bắc Việt” và “tôi sẽ giữ vững lời cam kết ủng hộ nền tự do và tiến bộ của VNCH và ý định kiên quyết của tôi là tiếp tục viện trợ đầy đủ về kinh tế và quân sự cho Nam Việt Nam.” Vì Thiệu vẫn không chịu thay đổi lập truờng, lần thứ ba Nixon đe dọa:

Văn bản hiệp định này không phải là lý tưởng nhưng không thể đòi được gì hơn trong hoàn cảnh hiện tại…. Việc Ngài bác bỏ hiệp ước này sẽ có hậu quả không thể cứu vãn được là hủy hoại khả năng của chúng tôi giúp đỡ xứ sở của Ngài. Quốc Hội và dư luận dân chúng sẽ bắt buộc chúng tôi như vậy.”

Lần này, sau khi họp với Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 20, Thiệu trả lời đồng ý với Nixon nhưng yêu cầu có điều khoản về việc cả hai miền Nam, Bắc đều giải ngũ quân sĩ trên căn bản đồng đều và những người đã giải ngũ sẽ phải trở về nguyên quán của mình. Ngày hôm sau, Nixon trả lời dứt khoát:

Chính phủ của tôi sẽ ký tắt bản Hiệp định với Hà Nội vào ngày 23. Tôi cần được biết xem Ngài có sẵn sàng đồng ý với chúng tôi hay không và chúng tôi cần được Ngài trả lời ngày 21 tháng Giêng, lúc 12:00 giờ, giờ Washington.
Nixon thêm rằng quá thời hạn này “khả năng viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH được Quốc Hội chấp thuận sẽ giảm sút nghiêm trọng,” Thiệu đành phải trả lời:

Để bảo toàn tình đoàn kết giữa hai chính phủ của chúng ta và căn cứ vào những điều cam kết vững chắc của Ngài về sự tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ của Hoa Kỳ, tôi chấp thuận lịch của Ngài về việc ký tắt bản Hiệp định ngày 23 tháng Giêng.51

Tiến trình thương thuyết của hội nghị Paris và những cuộc dàn xếp tay đôi giữa Kissinger-và Lê Đức Thọ cho thấy rằng VNCH bị đặt vào một vị thế thứ yếu. Mặc dù có những cuộc tham khảo của Tổng thống Hoa Kỳ với Tổng thống VNCH và những buổi làm việc giữa Kissinger và các nhà làm chính sách ở Sài-gòn, mọi ý kiến và yêu cầu quan trọng của VNCH đều chỉ được ghi nhận mà không được thực hiện. Trong cuộc tranh đấu kịch liệt chống lại những điều thỏa thuận tai hại cho VNCH trong bản dự thảo Hiệp định Paris, điểm thành công duy nhất của VNCH là đổi được cơ cấu “Chính phủ Hoà giải và Hòa hợp Dân tộc” thành “Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc.” Rốt cuộc Hội đồng này cũng chỉ là một sáng tạo hữu danh vô thực vì cuộc chiến giữa hai phe Việt Nam lại tiếp diễn ngay khi Hiệp định Paris còn chưa ráo mực.

Năm 1954, nước Pháp dù ở vào tình thế bất lợi của một kẻ chiến bại sau trận Điện Biên Phủ, đã đạt được gần hết những điều mong muốn trong bản Hiệp định Genève trong khi VNDCCH, do sức ép của Liên Xô và Trung Quốc, đã phải chịu chấp nhận những điều kiện không thỏa mãn trong Hiệp định này (xem chương 4). Khác với Hội nghị Genève 1954 có tính cách quốc tế, hội nghị Paris 1975 chỉ là những cuộc hội đàm song phương giữa Hoa Kỳ và VNDCCH. Mặc dù Hoa Kỳ đang có ưu thế trên chiến trường (sau khi Bắc Việt thất bại trong trận Tổng tiến công tháng Ba-tháng Sáu 1972 và nao núng sau vụ dội bom tháng Mười Hai 1972), Tổng thống Nixon đã vì những ưu tiên mới của quốc gia (quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô) và nhu cầu riêng của mình (tái đắc cử) nên chỉ muốn giải quyết cho xong chuyện Việt Nam. Do đó, ông đã nhượng bộ gần như hoàn toàn trước những đòi hỏi của Bắc Việt và đẩy VNCH vào tình trạng tuyệt vọng của một đồng minh bị bỏ rơi.

Thời gian từ tháng Hai 1973 đến tháng Tư 1975 là thời kỳ nguy kịch và suy tàn của VNCH. Theo đúng Hiệp định Paris, quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh rút hết khỏi miền Nam Việt Nam trong 60 ngày, chỉ còn để lại 50 quân nhân thuộc Sở Tuỳ Viên Quốc Phòng (Defense Attache Office – DAO) và một số lính có nhiệm vụ canh gác tòa Đại sứ Mỹ. Khoảng 4,000 người khác đều là nhân viên sứ quán, các cơ quan dân sự hay tư nhân. Tất cả những lời cam kết của Nixon tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự (dù chỉ để thay thế những vũ khí và vật liệu đã hư hại như hiệp định Paris cho phép) hay trừng phạt những vụ vi phạm của Bắc Việt đều bị Quốc Hội ngăn chặn hay hạn chế. Tháng Sáu 1973, Quốc Hội thông qua tu chính Fulbright-Aiken, cấm “tài trợ trực tiếp hay gián tiếp các hoạt động chiến đấu của quân lực Hoa Kỳ ở Bắc Việt, Nam Việt, Lào hay Cam-bốt.”

Đối với việc viện trợ cho quân lực Việt Nam, tài khóa 1974-75 bị cắt xuống còn 700 triệu đô-la so với 1.47 tỉ trong tài khóa 1973- 74. Năm đó, vì Tổ chức của Những Nước Xuất cảng Dầu Lửa (Or­ganization of Petroleum Exporting Countries – OPEC) gây ra vụ khủng hoảng dầu lửa, giá xăng tăng lên 400%. Hậu quả là 35% xe tăng và 55% quân xa không sử dụng được. Hơn 200 máy bay không còn được sử dụng và các hoạt động của không quân bị giảm 70%. Hải quân phải hủy 600 tàu, xuồng và cắt bớt 72% các chuyến tuần tiễu trên sông. Binh sĩ phải tiết kiệm đạn không còn được phép bắn để phòng ngừa. Lính đi tuần chỉ được phát một trái lựu đạn thay vì 10 trái như hồi trước. Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên cho biết quân lực VNCH chỉ đủ xăng dùng tới giữa tháng Năm và sẽ hết đạn vào tháng Sáu.52 Từ 1973 đến 1975, đồng bạc Việt Nam bị giảm giá 8 lần, mức lạm phát tăng 65% năm 1973 và trên 100% vào năm sau.53 Một cuộc điều tra của sứ quán Mỹ ở Sài- Gòn vào mùa Hè năm 1974 cho thấy trên 90% binh sĩ không được trả lương và phụ cấp đầy đủ khiến cho đời sống gia đình rất thiếuthốn.54

Việc Hoa Kỳ cắt viện trợ cho VNCH sau Hiệp định Paris là nguyên nhân chính khiến cho miền Nam sụp đổ. Đại sứ Ellsworth Bunker giải thích rất gọn gàng nhưng đầy đủ tình trạng bi đát ấy:

Tôi đích thân trao cho ông Thiệu ba lá thư của Tổng Thông Nixon cam kết rằng chúng ta sẽ giúp họ khi phía bên kia vi phạm hiệp định Paris. Thế rồi phía bên kia vi phạm hiệp định hầu như ngay trong ngày đầu tiên họ ký các thoả ước… nhưng chúng ta chẳng bao giờ giúp cho VNCH, vì Quốc Hội không chịu cấp ngân khoản. Kết quả là, cứ mỗi ngày trôi qua, quân đội miền Nam càng có ít súng, ít máy bay, ít xe tăng hơn, thiếu đạn dược để chiến đấu, trong khi miền Bắc được Liên Xô và Trung Quốc chi viện đầy đủ. Kết quả không thể nào tránh khỏi.”55

Việc cả hai bên đều vi phạm hiệp định đã trở thành hiển nhiên và cũng chẳng có bên nào cần giấu giếm nữa. Chỉ khác ở chỗ là miền Bắc vi phạm trong vị thế tấn công với những điều kiện thuận lợi, trong khi miền Nam vi phạm trong hoàn cảnh tự vệ với những phương tiện càng ngày càng giới hạn. Ngoài 160,000 quân chủ lực miền Bắc ở lại miền Nam sau hiệp định Genève, VNDCCH xúc tiến ngay việc tăng gia lực lượng vào Nam.

Trong một tập hồi ký, Tổng thống Nixon cho biết:
Ngay từ đầu tháng Hai 1973 —hiệp ước đình chiến ký ngày 27 tháng Giêng— các phi cơ thám sát của chúng ta nhận ra một đoàn 175 quân xa Bắc Việt vượt qua vùng phi quân sự và 223 xe tăng trên đường mòn Hồ Chí Minh tiến về phía NamViệt Nam. Chẳng bao lâu, những chuyến đưa quân sĩ và vật liệu chiến tranh từ Bắc vào Nam được diễn ra với một nhịp độ chưa từng thấy, vượt quá cả mức xâm nhập trước cuộc tổng tấn công năm 1972.56

Sử liệu quân đội Bắc Việt cũng ghi nhận:
Từ tháng Giêng đến tháng Chín 1973, số vật liệu tiếp viện từ Bắc vào Nam lên đến 140,000 tấn, gấp bốn lần trong năm 1972… Ngoài ra còn có 10,000 tấn vũ khí trữ ở các nhà kho dọc theo đường Trường Sơn.57 Trên 100,000 binh sĩ và cán bộ gồm hai sư đoàn bộ binh, hai trung đoàn pháo binh, một sư đoàn pháo phòng không, một trung đoàn thiết giáp, một trung đoàn công binh và nhiều đơn vị tăng cường khác tiến từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.58

Trong năm đầu, Bắc Việt chú trọng vào việc củng cố lực lượng ở miền Nam đồng thời giúp đỡ MTGPMN đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị nhằm chuẩn bị kỹ lưỡng một cuộc “tổng công kích – tổng nổi dậy” được trù liệu vào năm 1976. Bởi vậy, “quân giải phóng” được lệnh tập trung ở những địa điểm chiến lược và chỉ có những trận đụng độ nhỏ với quân đội VNCH trong chiến dịch “chiếm đất giành dân” mà cả hai bên đều theo đuổi với mục đích tạo lợi thế trong trường hợp bầu cử sau này. Dù sao VNDCCH cũng không lo ngại vì đã thấy rõ VNCH càng ngày càng suy yếu vì không còn được Mỹ viện trợ. Khi Nixon phải từ chức Tổng thống ngày 9 tháng Tám do vụ Watergate thì Hà Nội thấy thời cơ đã đến. Cuối tháng Mười, Tướng Trần văn Trà, chủ tịch ủy ban Quân vụ, Trung ương Cục miền Nam, trở ra Bắc thuyết phục Bộ Chính trị cho lệnh tổng tấn công sớm hơn dự định. Rút kinh nghiệm thất bại của những trận tổng tấn công khi trước, Hà Nội lấy một quyết định thận trọng là bắt đầu bằng những cuộc tấn công vừa phải để thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ, nếu không thấy gì đáng ngại thì tiến thêm bước nữa cho đến khi hoàn tất cuộc chinh phục toàn thể miền Nam.

Trận thăm dò đầu tiên được thực hiện ngày 13.12 tại Phước Long, một tỉnh nhỏ phía Bắc Sài-gòn gần biên giới Cam-bốt. Cuộc tấn công của 8,000 quân Bắc Việt với sự yểm trợ của thiết giáp và hỏa lực mạnh mở đường đã hoàn tất thắng lợi khi thị xã Phước Bình bị thất thủ ngày 6 tháng Giêng 1975. Trước vụ vi phạm quan trọng này, Hoa Kỳ hoàn toàn im lặng. Đây là một dấu hiệu rất khích lệ đối với Hà Nội,59 do đó Bộ Chính trị quyết định giao cho Đại tướng Văn Tiến Dũng điều động kế hoạch tiến chiếm miền Nam. Ngày 10 tháng Ba, ba sư đoàn quân chủ lực Bắc Việt tấn công Ban Mê Thuột và sau một tuần chiến đấu ác liệt đã chiếm được toàn thị xã và phi trường Ban Mê Thuột. Ngày 14, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp hội đồng tướng lãnh ở Cam Ranh, ra lệnh bỏ Cao nguyên để rút quân về phòng thủ Sài-gòn và miền duyên hải. Quyết định bất ngờ này đem lại hậu quả tai hại là một cuộc tháo chạy hỗn loạn của 60,000 binh sĩ và 400,000 thường dân. Bộ đội cộng sản pháo kích vào những đường rút lui từ Kontum, Pleiku ra phía bờ biển Tuy Hòa, gây thiệt mạng cho 15,000 binh sĩ và 100,000 thường dân vô tội.60

Ngay sau trận Ban Mê Thuột, Văn Tiến Dũng lại mở các cuộc tấn công vào Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng. Chỉ trong vòng mười ngày, cả ba nơi này cùng các tỉnh khác thuộc Quân khu I đã lần lượt bị quân Bắc Việt chiếm giữ. Cộng với nửa phía Bắc của Quân khu II vừa mất trước đó, lãnh thổ miền Nam vào cuối tháng Ba 1975 chỉ còn lại một nửa từ Nha Trang trở xuống. Đoàn quân và dân tháo chạy từ Quảng Trị đến Đà Nẵng còn đông đảo và hỗn độn hơn cả cuộc triệt thoái Cao nguyên. Mọi người càng hoảng hốt khi nhớ đến những vụ tàn sát tập thể ở Huế trong trận Tết Mậu Thân. Trên một triệu người bị đọng lại khi đoạn đường từ Chu Lai đến Quảng Ngãi bị quân đội cộng sản pháo kích nặng nề. Khi Huế bị thất thủ ngày 25.3, trung tâm thành phố Đà Nẵng cũng bắt đầu bị pháo kích. Chỉ trong ba ngày, 35,000 quân chủ lực miền Bắc đã túc trực ở các cửa ngõ của thành phố, trong khi quân và dân miền Nam chen lấn nhau ở sân bay, bến tàu và bãi biển để tìm đường bỏ chạy. Nhiều tác giả đã mô tả chi tiết cảnh tượng bi thảm của Đà Nẩng, thành phố lớn thứ nhì ở miền Nam, trong những ngày cuối cùng. Có lẽ Stanley Karnow đã ghi được những nét nổi bật nhất trong đoạn văn ngắn gọn sau đây:

Hàng ngàn người lội xuống biển, có cả những bà mẹ ẵm con thơ; nhiều người chết đuối hay bị dày xéo cho đến chết trong lúc tranh nhau lên tàu và thuyền đánh cá; thỉnh thoảng lại có lính miền Nam bắn chết dân để giành chỗ cho mình. Ngày 29, Edward Daley, chủ tịch công ty hàng không World Airways, đáp một chiếc phi cơ khổng lồ xuống phi trường Đà Nẵng. Đám đông điên cuồng ùa ra phi đạo, trong vòng mười phút gần ba trăm người hầu hết là đàn ông leo được vào trong máy bay. Nhiều người khác bám vào thang phía sau của máy bay bị rơi xuống đất chết. Ngày hôm sau, Chúa nhật lễ Phục Sinh, quân cộng sản tiến vào Đà Nẵng.”61

Tổng cộng có khoảng 25,000 binh sĩ bị bắt cùng với khoảng hai triệu dân bị kẹt lại. Đáng chú ý thêm là trong khi vội vã tháo lui khỏi hai vùng chiến thuật, quân đội VNCH đã phải bỏ lại hơn một tỉ đô-la vũ khí và vật liệu chiến tranh. Quân đội miền Bắc vốn đã được trang bị đầy đủ nay lại càng tăng thêm sức mạnh trong khi lực lượng miền Nam đang bị cắt giảm viện trợ lại càng thiếu phương tiện hơn nữa. Đến lúc này, Hà Nội thấy không còn cần phải thăm dò gì thêm nên hạ lệnh cho Văn Tiến Dũng gấp rút “giải phóng” toàn thể miền Nam. Tướng Dũng dời bộ chỉ huy từ Ban Mê Thuột về Lộc Ninh cho gần Sài-gòn hơn. Địa điểm này đang được tướng Trần Văn Trà và ủy viên Bộ Chính trị Phạm Hùng dùng làm căn cứ chiến lược. Ngày 7 tháng Tư, Lê Đức Thọ từ Hà Nội cũng vào tới nơi để cùng điều động những trận đánh cuối cùng của “Chiến dịch Hồ Chí Minh.”

Từ Sài-gòn, Đại sứ Mỹ Graham Martin vội vã điện về Wash­ington xin tăng viện cho VNCH với hi vọng Hà Nội và MTGPMN, qua trung gian của Đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon, sẽ đồng ý thành lập một chính phủ liên hiệp và như vậy sẽ có thêm thì giờ cho Hoa Kỳ giải quyết được mọi việc trước khi rút hết người và vật liệu cần thiết ra khỏi Việt Nam. Trước đó vài ngày, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời tuyên bố sẵn sàng thảo luận việc thành lập chính phủ liên hiệp với điều kiện Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Sau khi thảo luận với các phụ tá và tướng Fred Weyand, Tham mưu trưởng quần đội vừa đi thị sát Việt Nam về, ngày 10 tháng Tư, Tổng thống Ford ra trước phiên họp lưỡng viện Quốc Hội yêu cầu chấp thuận ngân khoản 722 triệu viện trợ cho miền Nam. Trong khi Quốc Hội kéo dài thủ tục thảo luận, báo chí Hoa Kỳ kịch liệt chỉ trích Ford là muốn kéo dài chiến tranh.

Bạch Ốc vừa chuẩn bị kế hoạch di tản vừa tìm kiếm một giải pháp chính trị. Chính phủ Pháp cho biết sẵn sàng làm trung gian dàn xếp cho việc thành lập một chính phủ liên hiệp. Hoa Kỳ không mấy tin tưởng vào những nỗ lực của Pháp vì, theo Kissinger, đây chỉ là một “hoài niệm về ảnh hưởng đã mất từ thời thuộc địa hơn là một nhận định thực tế về phương cách kết thúc cho vở bi kịch Việt Nam.”62 Vì vậy, trong khi tiếp tục thảo luận với các đại diện của Pháp, Hoa Kỳ đã nghĩ đến việc trông cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Ngày 19, Ford thông báo cho Brezhnev ý định nhờ lãnh tụ đảng cộng sản Liên Xô can thiệp để có ngưng chiến ở Việt Nam và để thảo luận về một sự thay đổi tình hình chính trị ở Sài-gòn. Hoa Kỳ nhấn mạnh vào việc muốn “di tản các công dân Mỹ và những người Việt Nam mà chúng tôi có trách nhiệm đặc biệt và trực tiếp”. Các biến chuyển bắt đầu diễn ra mau chóng. Ngày 20, Đại sứ Martin gợi ý cho Tổng thống Thiệu từ chức. Thiệu lạnh lùng trả lời ông sẽ làm điều gì ông thấy có lợi cho Việt Nam. Tối hôm sau, Thiệu lên đài truyền hình loan tin từ chức và chỉ trích Hoa Kỳ đã ép ông phải ký hiệp định Paris với lời hứa tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam nhưng không bao giờ thực hiện. Thiệu nhường chức cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Bốn ngày sau, ông rời Sài-gòn đi Đài Loan trên một chiếc máy bay Air America do CIA sắp xếp. Gia đình ông đã xuất ngoại trước đó ít ngày. Đại sứ Martin có mặt ở phi trường để tiễn chân người bạn đồng minh bại trận. Từ 21.4, Hoa Kỳ chính thức nhưng lặng lẽ bắt đầu cuộc di tản ngưới Mỹ và người Việt.

Ngày 23, Tổng thống Ford đọc diễn văn ở Đại học Tulane, tiểu bang New Orleans, cho thấy rằng đối với ông chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt:
Ngày nay, nước Mỹ có thể lấy lại được niềm hãnh diện đã có trước (chiến tranh) Việt Nam. Điều đó không thể nào đạt được bằng cách trở lại một cuộc chiến đã chấm dứt đối với nước Mỹ. Theo tôi, đã đến lúc phải nhìn về phía trước vào một chương trình cho tương lai để đoàn kết, để hàn gắn những vết thương của Quốc gia, và để hồi phục lại sức khỏe và lòng tự tin lạc quan của xứ sở.63

Mặc dù sau buổi nói chuyện ở Tulane, Ford đã cho thông báo với giới truyền tin rằng ông vẫn giữ nguyên lời yêu cầu Quốc Hội chấp thuận ngân khoản viện trợ 722 triệu cho Việt Nam, điểm xác định này chỉ là một cố gắng ngăn chặn hậu quả tai hại của lời tuyên bố “chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt”. Nhưng vô ích, vì không ai không biết rằng dù có được Quốc Hội Mỹ chấp thuận, số tiền đó cũng chẳng còn kịp giúp được gì cho VNCH được nữa. Điểm xác định này càng không có hiệu lực gì đối với giới lãnh đạo ở Hà Nội. Qua lời tuyên bố của Ford, Hà Nội biết chắc được một điều là Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Từ nay, không còn có gì có thể trìhoãn được thế “thừa thắng xốc tới” của chiến dịch Hồ Chí Minh.

Ngày 24, Đại sứ Nga Dobrynin ở Washington điện thoại cho Kissinger cho biết rằng Hoa Kỳ có thể yên tâm di tản người Mỹ vì Hà Nội “không có ý định làm hại uy tín của Hoa Kỳ.” Câu chuyện điện thoại cũng cho thấy Hà Nội sẽ tìm một giải pháp chính trị theo tinh thần Hiệp định Paris. Đây chỉ là một bức màn khói do Hà Nội tung ra để trấn an Hoa Kỳ đồng thời đem lại ảo tưởng về liên hiệp và hoà bình cho chính phủ Trần Văn Hương và Dương Văn Minh, ảo tưởng cho MTGPMN về thời cơ của Chính phủ Cách mạng Cộng hoà miền Nam Việt Nam (không còn “lâm thời” nữa), và ảo tưởng cho chính phủ Pháp trong những cố gắng thu xếp để đạt được một giải pháp chính trị. Để chứng tỏ thiện chí hợp tác giữa những người Việt Nam yêu nước với nhau, ngày 29, tân Tổng thống Dương Văn Minh đòi hỏi tất cả mọi người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Ngày hôm sau, 30 tháng Tư, quân “giải phóng” tiến vào Sài-gòn. Tổng thống Dương Văn Minh và các Bộ trưởng chờ đợi sẵn ở dinh Độc Lập để bàn giao cho chính quyền cách mạng. Thay vào đó, ông được “hộ tống” lên đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

Chuyện đáng cười ra nước mắt là ngày 1 tháng Năm, một ngày sau khi Sài-gòn thất thủ, Hạ Viện Mỹ bác bỏ lời Tổng thống Ford trước đó yêu cầu chấp thuận số tiền 327 triệu để chi phí cho công cuộc di tản người tị nạn Đông Dương, một việc làm đã được thực hiện khẩn cấp suốt ngày đêm bằng máy bay vận tải, trực thăng và chiến hạm Mỹ từ những ngày cuối tháng Tư.64

______

Ghi chú:
[1] Bản tuyên bố của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn QGVN, sau phiên họp cuối cùng của hội nghị Genève ngày 21.7.1954
2 Cesari, 126.
3 Thành phần gồm 8 nước: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, úc, Tân Tầy Lan, Pa-kis-tan, Thái Lan và Phi-líp-pin.
4 Césari, 123.
5 Lê Mậu Hãn, 161.
6 Ibid.,160.
7 Césari, 133.
8 Robert S. McNamara, Argument Without End, 35.
9 Trương Như Tảng, A Viet Cong Memoir (New York: Vintage Books, 1986),70-71.
10The Pentagon Papers, ch. 1, 151.
11 nước tham dự gồm 5 nước lớn (Hoa Kỳ, Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc), 3 nước hội viên của Ủy hội Quốc tế Kiểm soát (Canada, Ấn Độ, Ba Lan), 4 nước Đông Dương (VNCH, VNDCCH, Cam-bốt, Lào) và 2 nước láng giềng của Lào (Thái Lan, Miến Điện).
12 Cuối năm 1960, Souvanna Phouma không được Mỹ giúp cho gạo và dầu lửa nhưng được cả Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ. Tháng Tư 1961, Phouma sang thăm Trung Quốc và ký với Chu Ân Lai hiệp ước thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi song phương về kinh tế và văn hóa.
13 Zhai, 104.
14 Bắt đầu từ 1962, miền Bắc đã có thể dùng xe vận tải trên nhiều đoạn. Đường mòn tiếp tục được mở rộng và đến 1965 thì đã có những đoàn công – voa dài từ 50 đến 75 dặm di chuyển vào ban đêm. Mỗi tháng có thể chuyển khoảng 8,000 quân và 10,000 tấn vật liệu. Cuối năm 1970, có 70,000 quân Bắc Việt bảo vệ con đường này chống những cuộc tân công của Mỹ và VNCH. Tất cả những cố gắng phá hủy đường mòn HCM đều vô hiệu. Mỹ chấm dứt oanh tạc ngày 31.3.1972, khi các cuộc hội đàm Kissinger-Lê Đức Thọ đang diễn ra ở Paris. Cuộc xâm nhập từ miền Bắc không còn bị cản trởnữa.
15 Cuộc đổ bộ này do các lực lượng của dân tị nạn Cuba thực hiện, được chuẩn bị từ thời Eisenhower với sự yểm trợ của CIA và được sự chấp thuận của Kennedy. Cuộc đổ bộ ngày 17.4.1961 hoàn toàn thất bại vì Fidel Castro đã biết trước và bắt giam hàng ngàn người có nhiệm vụ nội ứng cho âm mưunày.
16 Richard. Falk, ed., The Vietnam War and International Law: A Symposium sponsored by the American Society of International Law (New Jersey: Princeton University Press, 1969), vol. II, 1204.
17 Lê Mậu Hãn, 195-196.
18 Roger Hilsman, “The situation and short-term prospects in South Viet­nam”, Memorandum to Secretary of State Dean Rusk, Dec. 3, 1962.
19 Tucker, 176 và 268.
20 Sư đoàn 7 VNCH thua trận Ấp Bắc vì hoãn cuộc tấn công lại một ngày để cho các phi công Mỹ lái trực thăng được ăn Tết dương lịch. Do đó, khi quân VNCH tấn công ngày 2.1.1962 thì QGPMN đã biết được tin và bố trí sẵn cuộc phục kích. Năm trực thăng Mỹ chở quân VNCH bị bắn rơi. Sau trận này, quan hệ giữa cố vấn Mỹ và các sĩ quan chỉ huy VNCH còn căng thẳng hơn nữa.
21 Sau này, do sự tham chiến của Hoa Kỳ, vòng kiểm soát của VNCH lại mở rộng hơn. Sau hiệp định Paris, khi Bắc Việt và MTGPMN rút về củng cố lực lượng ở một số nơi để chuẩn bị tấn công, họ chỉ còn kiểm soát 20% đất đai và 12% dân chúng. (Cesari, 238.)
22 McNamara, In Retrospect: The tragedy and lessons of Vietnam (New York,Vintage Books, 1995), 105.
23 Ibid., 105.
24 Ngày 2.8.1964, tàu phóng ngư lôi của Hà Nội tấn công khu trục hạm Maddox ngoài khơi Vịnh Bắc Việt nhưng không gây thiệt hại gì. Ngày hôm sau, tàu Maddox cùng với khu trục hạm C . Turner Joy trở lại tuần tiễu ở một vị trí xa hơn. Màn ảnh ra-đa trên cả hai tàu đều ghi nhận tín hiệu là bị tàu Bắc Việt tấn công đêm hôm đó. Những tín hiệu này về sau bị coi là không chắc chắn. Ngày 5.8, Johnson cho máy bay ném bom phá hủy kho trữ dầu ở Vinh và một số tàu tuần ở bờ biển. Hai máy bay Mỹ bị bắn rơi. Ngày 7.8, Quốc Hội chấp thuận Nghị quyết Vịnh Bắc Việt.
25 Nguyễn Phú Đức, Vietnam: Pourquoi les Etats-Unis ont-ils perdu la guerre? (Paris: Godefroy de Bouillon, 1996), 121; Kamow, 363. Kamow cho biết thêm Hoa Kỳ hứa sẽ công nhận VNDCCH về ngoại giao nữa.
26 Zhai, 170.
27 Duiker, Sacred War: Nationalism and Revolution in a Divided Vietnam, (New York: McGraw-Hill, 1995), 193.
28 McNamara, In Retmspectr 154.
29Ibid.,159.
30 Ibid.,166.
31 Ibid.,167-168.
32 Karnow, 427.
33 Césari, 197.
34 Nhóm này được mệnh danh là “The Wise Men” (Những Người Sáng Suốt) gồm trên 10 nhân vật lưỡng đảng nhiều kinh nghiệm về chính sách quân sự và ngoại giao Hoa Kỳ. Thành phần tham dự hơi thay đổi trong mỗi lần triệu tập. Cũng như trong lần họp thứ nhất vào tháng Bảy 1965, nhóm cố vấn đặc biệt lần này chủ trương tiếp tục sử dụng biện pháp quân sự. Những người tham dự lần họp thứ nhì gồm có: Dean Acheson, George Ball, Omar Brad­ley, McGeorge Bundy, Clark Clifford, Arthur Dean, Douglas Dillon, Abe Fortas, Cabot Lodge, Robert Murphy và Maxwell Taylor.
35 Bùi Tín, Mây Mù Thế Kỷ (California: Đa Nguyên, 1998), tr. 101.
36 Lê Mậu Hãn, tập III, tr. 209. Chiến dịch TCK/TKN thực ra đã được Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tổng chỉ huy Trung ương Cục miền Nam, đề xuất từ tháng Giêng 1967 để thay thế chiến tranh tiêu hao của Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp. Tháng Tư, Bộ Chính Trị chấp thuận đề nghị của tướng Thanh. Khi tướng Thanh chết bất ngờ vào tháng Bảy, tướng Giáp lãnh trách nhiệm tiến hành kế hoạch TCK/TKN.
37 Tucker, 183. Theo MACV, trong đợt đầu, QGPMN chết 42,000, đợt hai 40,000 và đợt ba 26,000, tổng cộng 108,000. (Dẫn bởi Lewis Sorley, A Better War [Florida: Harcourt, Inc., 1999], 97.) Con số này gần với con số của Bắc Việt đưa ra (111,306) trong đoạn trích dẫn bên dưới.
38 Tucker, 396.
39 Lê Mậu Hãn, 212. Con số 111,306 cán bộ và chiến sĩ thương vong được tác giả miền Bắc ghi trong chú thích ở cuối trang. Con số này gồm cả ba đợt của chiến dịch, chấm dứt vào cuối tháng Chín 1968.
40 Douglas Pike, ed., The Bunker Papers (Berkeley: University of California, 1990), p.327.
41 Lê Mậu Hãn, 212.
42 Đáng chú ý là vua Quang Trung chuẩn bị chiến dịch này cũng trong một năm Mậu Thân (1788), cho quân ăn Tết trước vào cuối năm rồi đầu năm Kỷ Dậu mới đánh quân Thanh.
43 Dẫn bởi Kenneth R. Stevens. Xem Tucker, 196.
44 về chi tiết của những phiên họp gay go giữa Đại sứ Bunker, Phó Đại sứ Berger và Tổng thống Thiệu cùng các cộng sự viên của ông trong những ngày cuối tháng Mười, đặc biệt trong bốn phiên họp liên tiếp giữa tối 31.10 và sáng 1.11 (giờ Sài-gòn), xem Nguyễn Phú Đức, Vietnam: Pourquoi les États Unis ont-ils perdu la guerre?,sách đã dẫn, 208- 216.
45 Ứng cử viên độc lập George Wallace được 13.5% phiếu cử tri và 5 phiếu cử tri đoàn.
46 Đảng Dân chủ Mỹ cho rằng Đại sứ Bùi Diễm, sau khi tiếp xúc với ứng cử viên Nixon (qua sự dàn xếp của Anna Chennault), đã xúi dục Thiệu không ký bản Thông cáo chung với Johnson. Bùi Diễm đã tường thuật và giải thích chi tiết vụ này trong cuốn hồi ký của ông, Gọng Kìm Lịch Sử (Paris: Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000), 381-409.
47 Nguyễn Phú Đức, Vietnam: Pourquoi les États-Unis ont-ils perdu la guerre?, 160 ?
48 Trần Bửu Kiếm là một trong ba đảng viên cộng sản điều hành MTGPMN. Do tính tình bộc trực , Kiếm phản đối việc bị cán bộ chính trị Trần Hoài Nam hạn chế và kiểm soát mọi cuộc tiếp xúc với các giới ngoại giao và Việt kiều ở Pháp. Vì lý do này, Kiếm bị triệu hồi về nước.
49 Tháng Sáu 1969, để tránh bị mang tiếng là công cụ của miền Bắc và có danh nghĩa tham gia vào các cuộc thương thuyết ở Paris, MTGPMN thành lập “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam”.
50 Vụ ném bom này mang tên “Hành quân Linebacker II”, tổng cộng trên 1,700 lần xuất kích, trong đó 739 lần do máy bay chiến lược khổng lồ B-52. Dù đã đề phòng trước, Bắc Việt vẫn bị thiệt hại nặng. Trong 11 ngày, gần 16,000 tấn bom được trút xuống Hà Nội, Hải Phòng, Vinh và mấy nơi khác. Hà Nội có 1,318 người chết, Hải Phòng 300 người. 26 máy bay Mỹ bị hạ trong đó có 15 chiếc B-52.
51 Nguyễn Phú Đức, op. cit., 366-368.
52 Sorley, 368.
53 Nguyễn Phú Đức, op. cit., 379.
54 Kamow, 675.
55 Ellsworth Bunker, Oral History Interview, LBJ Library. Dẫn bởi Sorley, 373.
56 Richard Nixon, No More Vietnams (New York: Arbor House, 1985), 172- 173.
57 Tức đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào, dọc theo biên giới Lào -Việt.
58 Viện Lịch sử Quân đội Việt Nam, Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, II: 458.
59 Cựu Đại tá Bùi Tín kể lại rằng khi Nixon từ chức, các nhà lãnh đạo Bắc Việt biết rằng họ sẽ thắng và Phạm Văn Đồng nhận xét về Gerald Ford, “Đây là Tổng thống yếu nhất của Mỹ.” Đại tá Bùi Tín nói tiếp, “chúng tôi trắc nghiệm ý chí của Ford bằng việc tấn công Phước Long. Khi Ford giữ máy bay B-52 ở trong kho thì các lãnh tụ Hà Nội quyết định tổng tấn công miền Nam.” (Sorley, 374).Henry Kissinger, Years of Renewal, (New York: Simon & Schuster), 521; Cesari. 242.
61 Kamow, 680.
62 Kissinger, 532.
63 Ibid., 535
64 Máy bay vận tải và trực thăng Mỹ bốc được 6,763 người Mỹ và 45,125 người Việt và quốc tịch khác. Hơn 6,000 người chạy bằng tàu thuyền được chiến hạm Mỹ vớt ở ngoài khơi. Ngay sau khi Sài-gòn thất thủ, còn có hơn 65,000 người tiếp tục vượt thoát bằng đường biển, nâng tổng số người tị nạn đợt đầu tiên lên khoảng 120,000 người.

-----------------------------------

BON-PHUONG’S BLOG











NGOCLINHVUGIA’S BLOG














No comments:

Post a Comment

View My Stats