GS Lê Xuân Khoa
… không cần phải nhắc lại những chính sách sai lầm về mặt
đối nội như tiêu diệt địa chủ và khủng bố trí thức trong những năm đầu thập niên 1950 (xem chương Ba), nhưng cần phải phân tích một sai lầm chủ yếu về đối
ngoại có ảnh hưởng tai hại cho Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là việc cầu viện
Trung Quốc qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Hành động cầu viện
và tiếp viện vẫn là chuyện bình thường giữa các nước đồng minh, nhưng đặc biệt
trong mối quan hệ Việt-Trung, hành động này có những hậu quả phức tạp. Đối với
Trung Quốc, Việt Nam đã mắc một món nợ quá lớn, lại có một thời kỳ bất hòa đưa
đến cuộc chiến tranh mùa Xuân năm 1979,25 khiến Việt Nam sẽ phải trả
bằng một giá rất cao trong một thời gian rất lâu nếu không có sự sụp đổ của
khối Sô-Viết và các nước cộng sản Đông Âu vào giữa thập niên 1980. Vì nguy cơ chung, Việt Nam và Trung Quốc lại hòa giải với nhau,
nhưng trong tiến trình này, Việt Nam lại đi theo Trung Quốc như một gương mẫu
về đối nội và đối ngoại và đã để cho Trung Quốc có cơ hội lũng đoạn và ngăn cản
sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Lê Xuân Khoa
------------------------
Cuộc chiến 1945-19541 đã làm
thương vong cho 172,708 người về phía Pháp trong số đó 31,716 là binh sĩ thuộc
ba nước Đông Dương, số thương vong về phía quân đội cộng sản không được biết
rõ, nhưng được phỏng định ít nhất là nửa triệu, số thường dân bị thiệt mạng
trong cuộc chiến vào khoảng 250,000 người. Phí tổn về phía Pháp tính đến 1950
chiếm từ 40 đến 45 phần trăm ngân sách quốc phòng và trên 10 phần trăm ngân
sách quốc gia. Trong những năm cuối cùng, viện trợ Mỹ gánh chịu đến 78 phần
trăm chi phí. về phía VNDCCH, phí tổn không rõ là bao nhiêu nhưng sự thiệt hại
về tài sản của nhân dân và về những nguồn lợi kinh tế của Việt Nam trong suốt
thời kỳ chiến tranh và cả những năm sau chiến tranh, cộng với sự thiệt hại về
nhân mạng, đã cho thấy cái giá của chiến thắng quả thật là quá đắt. Cái giá ấy
không đắt nếu chiến tranh là con đường duy nhất để dẫn đến độc lập, tự do và
hạnh phúc thực sự cho dân tộc. Nhưng cái giá ấy quá đắt vì chỉ trong vòng mấy
năm sau Thế Chiến II các xứ thuộc địa trên thế giới, trừ một số nước ở Nam Phi,
đều được trả lại độc lập mà không cần phải có chiến tranh. Anh và Hòa Lan là
những đế quốc sớm từ bỏ các thuộc địa ở Á châu. Ngay cả đế quốc thực dân ngoan
cố nhất là Pháp cũng trả độc lập cho hai xứ bảo hộ là Tunisie năm 1954, Maroc
1956 và các thuộc địa ở Nam Phi năm 1958. Chỉ có Algérie, thuộc địa của Pháp từ
1830 mãi tới 1954 mới noi gương VNDCCH thành lập Mặt trận Quốc gia Giải phóng
(Front de Libération Nationale — FLN) vừa đánh vừa đàm cho tới khi độc lập năm
1962, nhưng cũng không phải trả một giá quá cao như Việt Nam. Cái giá của chiến
thắng 1954 lại càng đắt hơn nữa vì kết quả là đất nước bị chia đôi, nhân dân
vẫn không được tự do, no ấm, nhất là phải chịu thêm một trận chiến khác lâu dài
và khốc liệt hơn nhiều.
Về phía Pháp: Người Pháp thường đổ lỗi cho Việt Minh đã tấn công trước
ở Hà Nội vào buổi tối 19.12.1946 và gây nên cuộc chiến kéo dài tám năm. Điều đó
chỉ đúng có một phần vì hành động tấn công ấy đáp lại tối hậu thư của Pháp hẹn
trong 24 giờ Việt Minh phải hủy bỏ mọi cuộc chuẩn bị chiến tranh, giải tán hàng
ngũ dân quân tự vệ và trao quyền cai quản an ninh thủ đô cho quân đội viễn
chinh. Đây là một mệnh lệnh đòi đầu hàng trước khi Pháp tấn công và sau khi mọi
cố gắng ngoại giao của Hồ Chí Minh đã thất bại. Ngay cả sau khi cuộc chiến toàn
quốc mới bùng nổ và liên tiếp trong ba tháng sau đó, Hồ Chí Minh đã tám lần gửi
thư cho Chính phủ, Quốc hội và Tổng thống Pháp, yêu cầu “lập lại ngay nền hòa
bình để tránh cho hai nước chúng ta khỏi bị hao người thiệt của, và để xây dựng
sự cộng tác và tình thân thiện giữa hai dân tộc”2, nhưng Pháp đã
không chịu trả lời. Cuộc tiếp xúc lần đầu và cũng là lần chót giữa đại diện hai
nước trước hội nghị Genève là cuộc gặp gỡ Hồ Chí Minh-Paul Mus ở Thái Nguyên
ngày 12.5.1947 khi giáo sư đại học Paul Mus, thay mặt Cao Uỷ Bollaert, chuyển
cho Hồ Chí Minh những điều kiện hoà đàm không thể chấp nhận được như bộ đội
Việt Minh phải hạ khí giới, quân đội Pháp được tự do đi lại trong khi quân Việt
Minh phải tập trung ở những nơi do Pháp chỉ định.3
Sai lầm chủ yếu của Pháp là đầu óc thực dân
lỗi thời của những nhà lãnh đạo chính trị và quân sự trước xu thế chung của
toàn cầu sau Thế chiến II là phong trào đòi độc lập của các cựu thuộc địa và sự
cần thiết phải đáp ứng thuận lợi những đòi hỏi đó, có thể bằng một thời kỳ
chuyển tiếp. Vì lòng tham lam mù quáng và luyến tiếc quá khứ, họ không hiểu và
không chịu chấp nhận xu thế ấy như một điều kiện tất yếu để xây dựng hòa bình,
hợp tác và phát triển giữa các quốc gia, nhất là để ngăn chặn sự bành trướng
của chủ nghĩa cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo mà đại diện ở Á châu là
Trung Quốc đang trở thành mối đe dọa lớn đối với các quốc gia trong vùng. Đầu
óc thực dân ngoan cố và thiển cận không phải chỉ thấy ở những chính trị gia bảo
thủ như de Gaulle, d’ Argenlieu hay Bidault mà, như đã nói đến ở chương Hai,
ngay cả những lãnh tụ phái tả như Marius Moutet hay Maurice Thorez cũng vẫn đặt
“quyền lợi quốc gia” lên trên lý tưởng xã hội hay cộng sản. Cũng do đầu óc thực
dân lỗi thời này, giới lãnh đạo chính trị Pháp còn mang nặng mặc cảm tự tôn và
tin tưởng chủ quan ở sứ mệnh khai hoá văn minh của “mẫu quốc” mà các dân tộc
thuộc địa phải mang ơn.
Với một tinh thần tự tôn như thế, các nhà
lãnh đạo chính trị và quân sự Pháp không coi những người dân bản xứ là có khả
năng ở cấp bậc chỉ huy mà chỉ có thể là những binh sĩ thừa hành, và họ cũng
không muốn cho người bản xứ có cơ hội thăng tiến. Mãi tới 1950, hơn một năm sau
khi hiệp định Elysée thừa nhận Việt Nam độc lập, mới bắt đầu có trường đào tạo
sĩ quan chuyên nghiệp và năm 1951 mới đào tạo sĩ quan trừ bị, tốt nghiệp với
cấp bậc chuẩn úy. Năm 1953, do nhu cầu thực tế và nhờ viện trợ Mỹ, tướng
Navarre mới bắt đầu chương trình tổ chức quân đội Việt Nam bên cạnh quân đội
Pháp, nhưng khi đó thì đã quá muộn để có thể cứu vãn tình hình.
Vì chủ quan khinh địch nên Pháp đã bỏ lỡ
nhiều cơ hội, trước và sau khi chiến tranh bùng nổ, để có thể ký kết với Việt
Minh hoặc thi hành những hiệp ước đã ký, theo đó Pháp vẫn được hưởng nhiều
quyền lợi, chẳng hạn như hiệp định sơ bộ Hồ – Sainteny 6.3.1946, tạm ước Hồ-Moutet
14.9.1946, cuộc gặp gỡ Hồ Chí Minh- Paul Mus tháng Năm 1947, và nhất là giải
pháp Hồ Chí Minh-Bảo Đại cùng kế hoạch ngưng chiến mà Bollaert dự tính đưa ra
ngày 15 tháng Tám năm đó (trùng với ngày Anh trả độc lập cho Ấn độ và
Pa-kis-tan) nhưng đã bị tướng Valluy thuyết phục Quốc hội Pháp bác bỏ. Nói đến
những cơ hội bỏ lỡ này không có nghĩa rằng đấy là những cơ hội có thể đảm bảo
vĩnh viễn quyền lợi của Pháp, nhưng chắc chắn đó là những cơ hội ký hiệp ước
vào những thời điểm mà cán cân lực lượng còn nghiêng về phía Pháp cả về chính
trị lẫn quân sự. Kết quả là Pháp vừa tránh được hoặc chấm dứt được chiến tranh
vừa duy trì được một số quyền lợi lâu dài bằng một hiệp định có lợi hơn là hiệp
định Genève sau trận Điện Biên Phủ.
Lỗi lầm quan trọng nhất của Pháp là thái độ
đối với những người Việt Nam chân chính yêu nước, không theo Pháp hay đã chống
Pháp nhưng sẵn sàng liên kết với Pháp trong mục tiêu chống cộng sản và có thể
trở thành một đồng minh lâu dài của Pháp nếu Việt Nam được trả lại độc lập thực
sự. Đó là ngọn cờ chính nghĩa mà phe quốc gia có thể giương cao và nhờ đó củng
cố được lực lượng trong vùng tự do và lôi cuốn được đa số trí thức và dân chúng
trong khu vực Việt Minh kiểm soát. Nhưng Pháp đã không thành thật đối với những
người Việt Nam quốc gia, ngay cả với những người có khuynh hướng thân Pháp, vì
mục tiêu chính vẫn là bảo vệ quyền lợi của Pháp ở Đông Dương. Pháp chỉ hứa hẹn
mà không thi hành, kể cả những thỏa ước công nhận Việt Nam độc lập trong khối
Liên Hiệp Pháp. Hồ Chí Minh, trong lá thư gửi cho thủ tướng Ramadier năm 1947,
cũng chỉ mong đòi được như Pháp đã thỏa thuận với Bảo Đại (xem chương Hai).
Giải pháp Bảo Đại trở nên sáng giá nhất và có cơ hội lấy lại được chính nghĩa
dân tộc cũng là vào năm 1947 khi đại diện các đảng phái và tôn giáo quốc gia ở
trong và ngoài nước thành lập MTQGLH ủng hộ Bảo Đại “mở cuộc đàm phán với Pháp
để đem lại hòa bình và độc lập cho Việt Nam”. Nhưng khi thấy Bảo Đại không “dễ
bảo” như mong đợi, Pháp đã tìm mọi cách trì hoãn thực hiện những lời hứa hẹn,
rốt cuộc phá hoại hoàn toàn uy tín của phe quốc gia cho tới khi hội nghị Genève
nhóm họp năm 1954. Gần một tháng sau ngày hội nghị khai mạc, Pháp mới ký thêm
một hiệp ước với chính phủ Bửu Lộc công nhận Việt Nam “hoàn toàn độc lập”. Việc
chính phủ Ngô Đình Diệm tham dự hội nghị vào những tuần lễ cuối cùng chỉ là để
chứng kiến và phản kháng những thỏa thuận đã được Pháp, Anh, Liên Xô và Trung
Quốc sắp đặt từ trước.
Cơ hội lớn nhất của Pháp là có nhừng người
quốc gia yêu nước chấp nhận hợp tác với Pháp để chống lại cộng sản Việt Nam.
Nếu Pháp có một tầm nhìn sáng suốt về vấn đề Việt Nam và vai trò của mình trong
khung cảnh Chiến tranh Lạnh, nhất trí với Roosevelt trong một sách lược ngăn
chặn Cộng sản ở Đông Nam Á, sớm hợp tác thành thật với Bảo Đại và những người quốc
gia ngay từ năm 1945 và thực sự trao trả độc lập dần dần cho một nước Việt Nam
không cộng sản (Hồ Chí Minh cũng chỉ mong đòi được độc lập dần dần), thì Pháp
đã giúp được cho phe quốc gia giành được chính nghĩa chống lại Việt Minh trong
khi vẫn giữ được những quyền lợi chính đáng và quan hệ lâu dài với Việt Nam.
Trong trường hợp này, cả Pháp lẫn Quốc Gia Việt Nam đều sẽ được Hoa Kỳ nhiệt
tình viện trợ về mọi mặt và lịch sử cận đại Việt Nam chắc chắn đã có những biến
chuyển khác.
Về phía Hoa Kỳ: Động cơ chính khiến Hoa Kỳ ủng hộ Pháp trong cuộc chiến
1946-1954 là cần sự tham gia của Pháp vào Cộng đồng Phòng thủ Châu Âu trước
hiểm họa bành trướng của Nga Sô ở Châu Âu sau Thế Chiến II. Vì vậy, mặc dù chia
sẻ quan niệm của Roosevelt về nhu cầu giải phóng các cựu thuộc địa ở Á và Phi
châu trước mối đe dọa của cộng sản quốc tế, chính quyền Truman đã xếp bản Hiến
Chương Đại Tây Dương vào hồ sơ lịch sử4 để ưu tiên chú trọng đến
tình hình châu Âu mà Pháp là một đồng minh quan trọng. Ngoài ra, Hoa Kỳ tin
tưởng rằng nếu được viện trợ quân sự Pháp sẽ thắng được Việt Minh và ngăn chặn
được sự xâm nhập của cộng sản ở vùng Đông Nam Á.
Cho đến năm 1949, khi Mao Trạch Đông đánh
bại Tưởng Giới Thạch và thống nhất Trung Quốc dưới chế độ cộng sản, Hoa Kỳ lại
càng thấy cần phải hỗ trợ cho vai trò ủy nhiệm của Pháp trong khu vực Thái Bình
Dương. Ngày 8 tháng Năm 1950, ngoại trưởng Dean Acheson chính thức loan báo chương
trình viện trợ cho Pháp và các quốc gia Đông Dương mặc dù trước đó, Acheson đã
không thuyết phục được ngoại trưởng Pháp Robert Schuman cam kết trả lại độc lập
hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương để được hưởng một số quyền lợi lâu dài như
trường hợp Hoa Kỳ đối với Phi-líp-pin. Ý kiến của Hoa Kỳ về việc viện trợ trực
tiếp cho chính phủ QGVN (đã được Pháp nhìn nhận độc lập do hiệp định Élysée
1949) cũng bị Pháp cực lực bác bỏ. Từ đó, Hoa Kỳ bị mắc kẹt với Pháp cho đến
khi Pháp quyết định tìm lối thoát qua hội nghị Genève trước thái độ bất mãn của
Hoa Kỳ. Vì chỉ tin tưởng ở giải pháp quân sự trong công cuộc ngăn chặn ảnh
hưởng cộng sản ở Đông Dương, khi Điện Biên Phủ bị lâm nguy, Hoa Kỳ cố gắng
thành lập một liên minh quân sự để cứu Pháp. Khi những nỗ lực này thất bại, Hoa
Kỳ chuẩn bị thay thế cho vai trò của Pháp bằng một kế hoạch hậu Genève: xây
dựng một chính thể dân chủ ở miền Nam Việt Nam để đương đầu với chính thể cộng
sản ở miền Bắc.
Từ 1945, Hoa Kỳ đã lúng túng trong việc
hoạch định chính sách đối với Đông Dương, đặc biệt đối với Việt Nam. Sự lúng
túng ấy đã đưa Hoa kỳ đến một lựa chọn nghịch lý và bất đắc dĩ là ủng hộ Pháp
trở lại Đông Dương dù biết rằng Pháp không chịu từ bỏ tham vọng đế quốc ở vùng
này. Trong khi đó, Pháp vẫn nghi kỵ Mỹ là muốn có vai trò và quyền lợi ở Đông
Dương nhất là từ khi Tổng thống Truman bị đảng Cộng Hòa chỉ trích là đã “làm
mất Trung Hoa”. Năm 1950, khi Hoa Kỳ thiết lập Nhóm cố vấn và Viện Trợ Quân sự
(Military Assistánce and Advisory Group – MAAG) ở Việt Nam5 để duyệt
xét các yêu cầu viện trợ và góp ý về chiến lược thì các giới chỉ huy quân sự
Pháp cảm thấy bị xúc phạm nặng nề và thường bác bỏ đề nghị của các “cố vấn” Mỹ
kể cả những đề nghị có ích lợi thực sự.
Vào thập kỷ 1940, ngoại trừ một số ít
chuyên viên về Á châu trong bộ Ngoại giao, giới lãnh đạo Hoa Kỳ hiểu biết rất
ít về Cam- bốt, Lào và Việt Nam mà chỉ có một khái niệm sơ sài về Đông Dương là
thuộc địa của Pháp. Ngay cả Tổng thông Roosevelt cũng nghĩ rằng các dân tộc
Đông Dương còn là những đám dân lạc hậu cần phải được đặt dưới quyền ủy trị
(tmsteeship) và hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc về độc lập và dân chủ trong vài ba
chục năm. Tin tức về Việt Nam, đặc biệt về Việt Minh, trong những năm đầu là do
OSS cung cấp, nhưng những báo cáo và đề nghị của OSS sau này bị Washington gạt
bỏ vì coi là thân Việt Minh. Vì không quan tâm đến khu vực Đông Dương nên Hoa
Kỳ đã không chịu nghiên cứu kỹ lưỡng để có sự hiểu biết đầy đủ và chính xác về
tình hình chính trị Việt Nam hơn. Nếu hiểu biết thêm, Hoa Kỳ đã có thể đính
chính một định kiến sai lầm về Bảo Đại như một bù nhìn của Nhật hay của Pháp,
do đó giúp cho các lực lượng quốc gia có cơ hội lấy lại được chính nghĩa và uy
tín đốì với quần chúng trong công cuộc tranh đấu giành độc lập, dân chủ và tự
do thực sự cho đất nước. Hoa Kỳ cũng chỉ biết Hồ Chí Minh như một lãnh tụ cộng
sản mà không hiểu, để có thể khai thác, tinh thần dân tộc của ông trong các
quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô, nhất là những nỗ lực của ông tiếp cận và cầu
viện Hoa Kỳ trước và sau khi Thế Chiến II chấm dứt.
Chương Một và Chương Hai đã chứng tỏ Bảo
Đại và chính phủ Trần Trọng Kim không hề hợp tác với Nhật để chống lại Đồng
Minh mà chỉ lợi dụng cơ hội Nhật đảo chánh Pháp để xây dựng độc lập cho Việt
Nam. Sau khi được tin Nhật đầu hàng, Trần Trọng Kim đã thành lập Ủy ban Cứu
quốc và kêu gọi mọi giới đoàn kết để cùng nhau kiện toàn độc lập và thống nhất,
ở chương Hai, chúng ta thấy trong lá thư gửi Tổng thống Traman, Bảo Đại đã nhấn
mạnh rằng “chúng tôi sẽ vận dụng toàn lực để chống lại việc tái lập chủ quyền
của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam dưới bất cứ hình thức nào.” Trong lá thư kêu
gọi de Gaulle và nhân dân nước Pháp, Bảo Đại dùng lời lẽ tình cảm hơn nhưng
cũng biểu lộ rất dứt khoát tinh thần độc lập của dân tộc:
Tôi xin gửi lời đến nhân dân nước Pháp, đến
xứ sở của tôi trong thời niên thiếu. Tôi cũng xin gửi lời đến vị lãnh đạo và là
người đã giải phóng nước Pháp, và tôi muốn nói chuyện với tư cách một người bạn
hơn là một Nguyên thủ Quốc gia.
Các bạn đã đau khổ quá nhiều trong bốn năm
trời tang tóc để có thể hiểu được rằng dân tộc Việt Nam, với hai mươi thế kỷ
lịch sử và một quá khứ nhiều phen vinh quang, không còn muốn, không còn có thể
chịu đựng một sự thống trị hay một chính quyền ngoại lai nào.
Các bạn sẽ hiểu rõ hơn nữa nếu các bạn có
thể thấy được những gì đang diễn ra ở đây, nếu các bạn có thể cảm thấy được ý
chí độc lập ấp ủ trong đáy lòng của mỗi người mà không có một quyền lực nào có
thể khuất phục được. Dù cho các bạn có thể tái lập được một chính quyền Pháp ở
đây, chính quyền đó sẽ không còn được tuân phục, mỗi làng xã sẽ là một tổ kháng
chiến, mỗi người trước kia hợp tác nay sẽ là một kẻ thù, và những viên chức và
ngay cả những nhà thực dân của các bạn cũng sẽ đòi được ra khỏi bầu không khí
nghẹt thở này.
Tôi xin các bạn hiểu cho rằng phương cách
duy nhất có thể bảo vệ quyền lợi và ảnh hưởng tinh thần của nước Pháp tại Đông
Dương là thẳng thắn nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam và từ bỏ mọi ý tưởng tái
lập chủ quyền hay một nền hành chánh của Pháp dưới bất cứ hình thức nào.
Chúng ta sẽ có thể dễ dàng hoà thuận và trở
thành bạn với nhau nếu các bạn không còn ý định trở lại thành chủ nhân của
chúng tôi.
Qua lời kêu gọi chủ nghĩa lý tưởng nổi
tiếng của dân tộc Pháp và sự sáng suốt rộng lớn của vị lãnh đạo Pháp, chúng tôi
hi vọng rằng hòa bình và hạnh phúc đã đến với mọi dân tộc trên thế giới cũng sẽ
được đảm bảo cho mọi người dân bản xứ cũng như người ngoại quốc ở Đông Dương.6
Như vậy, thật rõ ràng là bất công nếu cứ
nhất định chụp cho Bảo Đại cái mũ “bù nhìn” hay “tay sai” của Pháp. Bảo Đại
không phải là một nhà cách mạng vì ông đã chỉ được đào tạo và phục vụ trong
những điều kiện vương giả. Công bằng mà nói, Bảo Đại là một ông hoàng có lòng
yêu nước, tốt bụng, không giết hại ai, nhưng cũng là một ông hoàng ham chơi và
nhu nhược. Bảo Đại có thể trở thành một quốc trưởng được mọi người quý mến nếu
có một chính phủ gồm những người thật lòng vì dân vì nước. Từ 1945, Bảo Đại
luôn luôn tin cậy ở Hoa Kỳ và mong đợi được Hoa Kỳ giúp đỡ. Sau này, vào lúc
châm dứt hội nghị Genève, Bảo Đại đã có một nhận định sáng suốt về triển vọng
tương lai của Việt Nam: “Chúng ta không còn trông cậy vào Pháp được nữa. Tại
Genève, người Mỹ là đồng minh duy nhất của chúng ta. Trước biến chuyển của tình
hình, họ muốn thiết lập một hệ thống phòng thủ mới trong vùng Đông Nam Á. Họ có
thể giúp chúng ta tiếp tục chiến đấu chống cộng sản.
Giả thử Truman và những nhà làm chính sách
của Hoa Kỳ quan tâm đến lời kêu gọi của Bảo Đại và hỗ trợ cho Ủy ban Cứu quốc
của chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 —khi Việt Minh còn quá yếu và Pháp chưa
thể trở lại Việt Nam— thì chắc chắn tình hình Việt Nam đã đổi khác. Dù sao
chăng nữa, các biến chuyển trong tháng Tám 1945 xảy ra quá nhanh và Tổng thống
Truman trước đó cũng đã quyết định để cho Pháp trở lại Đông Dương,8
vì thế cả hai nhà lãnh đạo Mỹ và Pháp đều làm ngơ trước lời kêu gọi của Bảo
Đại. Nhưng trong nhiều dịp thuận lợi khác, nhất là sau khi Anh và Hòa-Lan đã
trả lại độc lập cho Ấn-Độ và Nam-Dương, và trước khi “mất” Trung Quốc, Hoa Kỳ
đã có thể áp lực Pháp thật tâm ủng hộ một chính phủ quốc gia và trao trả độc
lập hoàn toàn cho Việt Nam theo một lịch trình cụ thể. Cũng như Pháp, chính phủ
Mỹ đã để lỡ những cơ hội như vậy.
Hoa Kỳ thường chê trách Bảo Đại là ham ăn
chơi không tha thiết đến việc nước. Tháng Mười 1960, Ngoại trưởng Dean Acheson
gửi điện cho Đại sứ ở Sài-gòn yêu cầu khuyến cáo Bảo Đại phải làm gương cho
chính phủ của ông làm việc có hiệu quả… Nhiều người, gồm số đông người Mỹ,
không hiểu tại sao Hoàng đế cứ kéo dài thời gian nghỉ ở vùng Riviera (Côte
d’Azur) và cho rằng điều đó chứng tỏ ông không có lòng tha thiết với đất nước
trong cương vị Quốc trưởng. Ít nhất thì Bộ (Ngoại giao) cũng thấy rằng việc ông
vắng mặt không làm cho chính phủ của ông ở trong nước có thêm uy tín và quyền
lực….
Bảo Đại phải cho nhân dân thấy là ông có
quyết tâm lãnh đạo đất nước chống lại sự đe dọa của cộng sản. Cụ thể là ông
phải đi khắp mọi nơi trong nước, đọc nhiều diễn văn và xuất hiện trước công
chúng….9
Hoa Kỳ đã có những quan tâm và khuyến cáo
rất đúng về vai trò của Bảo Đại, nhưng trước hết cần phải hiểu rằng bản chất
của Bảo Đại là một ông hoàng chứ không phải là một lãnh tụ chính trị sẵn sàng
sống chết với lý tưởng của mình. Do cuộc sống vương giả kiểu Tây phương từ hồi
còn nhỏ, ông chỉ có thể bày tỏ lòng yêu nước thương dân trong những điều kiện
bình thường không đòi hỏi cá nhân ông phải tranh đấu và chịu đựng gian khổ.
Thậm chí, ông đã biện minh cho việc ông dành nhiều thì giờ cho cuộc sống ở Côte
d’Azur hay Đà-lạt bằng một cách giải thích ngụy biện quan niệm trị nước của một
vị Hoàng đế ở Á đông:
Hoàng đế không cần phải có mặt để cho dân
chúng biết là họ đang được cai trị. Lâu lâu —thường là rất hiếm— nhà vua mới
cần xuất hiện công khai nhân những dịp tiếp kiến để chứng tỏ là mình còn tại
vị… Ông hoàng là nhịp cầu giữa Trời và thần dân của ông… Trước hết ông phải tạo
ở nơi ông sự an bình và hài hoà nếu ông muốn đem lại thái bình và hòa hợp trong
dân chúng. Bởi thế ông cần phải giữ yên lặng, để vừa có thể nghe được tiếng nói
của dân nhiều hơn vừa nắm bắt được các biến chuyển một cách thuận lợi hơn….10
Do quan niệm trị nước như vậy, Bảo Đại có
tinh thần ỷ lại, nhu nhược và thích dung hòa. Bởi thế, ông chỉ phát biểu khi
cần thiết còn hành động là công việc của chính phủ và những người ủng hộ ông.
Bảo Đại đòi Pháp phải trả độc lập cho Việt Nam nhưng ông không sẵn sàng cắt đứt
mọi liên hệ của ông với Pháp, hi vọng Hoa Kỳ sẽ làm áp lực đế quốc thực dân này
giúp cho ông. Ông chống Việt Minh và Cộng sản quốc tế nhưng ông đã từng có
thiện cảm với Hồ Chí Minh khi ông làm cố vấn Tối cao của chính phủ Việt Minh.
Bảo Đại cho rằng Hồ Chí Minh “hết lòng tha thiết đến nền độc lập của xứ sở.
Những điều ông ta nói hoàn toàn phù hợp với quan điểm của tôi. Không cần quan
tâm tới quá khứ và phương pháp hành động của ông ta, tôi ủng hộ ông với tất cả
lòng chân thành.”11 Đầu tháng Tư 1946, khi tướng Marshall gặp ông ở
Trùng Khánh để hỏi thăm về chuyện Việt Minh lên nắm chính quyền, Bảo Đại nhấn
mạnh đến “ý chí của ông (Hồ) là thực hiện độc lập và thống nhất, hai nguyện
vọng chung của dân tộc Việt Nam.”12 Ngay cả sau khi bị Hồ Chí Minh bỏ
rơi ở Trùng Khánh và nhận xét ông Hồ là “một chiến sĩ mác-xít… đầy mưu mẹo…
giỏi đóng kịch, không khoan nhượng vào giờ phút quyết định… luôn luôn sẵn sàng
dang tay ôm để dễ bóp nghẹt hơn”13, Bảo Đại vẫn tuyên bố “tôi không
ủng hộ nhưng cũng không chống Việt Minh… Đề nghị của tôi là tôi chỉ đóng vai
trò trung gian giữa nước Pháp và tất cả các đảng phái ở Việt Nam.”14
Đáng tiếc là, sau chính phủ Trần Trọng Kim,
Bảo Đại không có một chính phủ nào có đủ khả năng, thiện chí và điều kiện để
lãnh đạo nhân dân, vận động sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và quốc tế trong công cuộc
tranh đấu thuyết phục Pháp trả lại độc lập và thống nhất thật sự cho Việt Nam.
Hầu hết những người thật lòng yêu nước đều đã phải lưu vong, hoặc đã đi theo
Việt Minh hay trở thành những “chính khách trùm chăn” chờ đợi những thời cơ
thuận tiện hơn. Chính sách mâu thuẫn và không dứt khoát của Hoa Kỳ đối với Pháp
và Đông Dương càng làm cho Bảo Đại bị cô đơn và mất dần uy tín trước dư luận
trong và ngoài nước.
Sau hết, cũng nên bàn thêm về hai quyết
định của Hoa Kỳ trước và sau chiến tranh 1946-1954. Quyết định thứ nhất đã gây
nên nhiều tranh cãi nhất nhưng vẫn cần được duyệt xét lại để rọi thêm ánh sáng
vào cuộc tranh luận với hy vọng tiến đến một phán xét khách quan và hợp lý hơn.
Nhiều người cho rằng Hoa Kỳ đã sai lầm và
bỏ lỡ cơ hội khi không chú ý đến những lời kêu gọi liên tiếp của Hồ Chí Minh
mong muốn được sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Người đầu tiên phải nhắc tới là
Archimèdes “AI” Patti. Dù bị OSS Trung Ương cảnh cáo là các bản phúc trình của
ông thiên về phía Việt Minh, Patti vẫn tiếp tục duy trì quan điểm cho rằng Hồ
Chí Minh yêu nước hơn chủ nghĩa cộng sản. Tháng Chín 1945, ông báo cáo với Đại
diện Hoa Kỳ ở Côn Minh rằng các lãnh tụ Việt Minh mong muốn Việt Nam được Hoa
Kỳ bảo hộ trước khi hoàn toàn độc lập như trường hợp Phi-líp-pin, nhưng biết
rằng không thể có chuyện như vậy nên đã đồng ý ở trong khối Liên Hiệp Pháp
trong mười năm dưới sự lãnh đạo của một Toàn quyền người Pháp, với điều kiện
phải có Liên Hiệp Quốc theo dõi việc này.15 Nhiều năm về sau, “Al”
Patti vẫn tin rằng Hoa Kỳ đã để lỡ một cơ hội bằng vàng vào thời điểm đó. Năm
1983, trong một hội nghị ở Đại Học Nam California, ông tuyên bố: “Những tài
liệu còn lưu trữ cho thấy một cách khá rõ rệt rằng thái độ chống đối hay thờ ơ
của Mỹ đã đẩy Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh phải lệ thuộc vào Bắc Kinh và
Mat-scơ-va. Không ai có thể nghi ngờ gì về điều đó. Tôi nói với tư cách một
người hiểu biết trực tiếp là chúng ta đã có sẵn ông ta trên một chiếc mâm bạc,
nhưng chúng ta đã từ chối.”
Tháng Chín 1946, khi còn ở Pháp vào những
ngày chót của Hội nghị Fontainebleau. Hồ Chí Minh đã gặp Đại sứ Mỹ Jefferson
Caffery để vận động Hoa Kỳ ủng hộ, nhấn mạnh rằng ông không phải là Cộng sản.
Ngày hôm sau ông Hồ lại gặp Đệ nhất Tham vụ George Abbott (sau này là Tổng Lãnh
sự ở Sài-gòn) để nhắc đến việc ông đã hợp tác với Hoa Kỳ chống Nhật và lòng
ngưỡng mộ của ông đối với Tổng thống Roosevelt. Ông cũng nói đến việc tổng
chống Pháp nắm độc quyền kinh tế ở Đông Dương và mong muốn các nhà kinh doanh
Hoa Kỳ tới làm ăn. Sau hết ông còn gợi ý về triển vọng hợp tác quân sự giữa hai
nước trong tương lai, kể cả việc để cho Mỹ sử dụng Vịnh Cam Ranh làm căn cứ hải
quân.16
Một số sự kiện hiển nhiên trong cuộc đời Hồ
Chí Minh cho thấy ông là một người yêu nước khi còn trẻ, chịu ảnh hưởng của
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, đã tham gia biểu tình của nông dân đòi giảm
thuế năm 1908 do đó bị đuổi khỏi trường Quốc Học Huế. Lý do chính khiến Hồ Chí
Minh trở thành Cộng sản là ông đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc trong khi
đọc cuốn “Luận về các Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa” của Lenin năm 1920, chín năm
sau khi ra khỏi nước. Mặc dầu chủ trương của Comintern là thực hiện chủ nghĩa
cộng sản quốc tế qua đấu tranh giai cấp, Hồ Chí Minh vẫn chú trọng vào mục tiêu
giải phóng dân tộc. Vì khuynh hướng thiếu “chính thống” này, ông đã bị cả hai
Tổng Bí thư ĐCSĐD Trần Phú và Hà Huy Tập chỉ trích và không được Stalin có cảm
tình. Vào những năm cuối của Thế Chiến II, Hồ Chí Minh rất chú ý đến khả năng
siêu cường và chủ trương chống đế quốc thực dân của Hoa Kỳ, nhất là quan điểm
của Tổng thông Roosevelt đối với đầu óc thuộc địa của Pháp. Sau khi được Trương
Phát Khuê thả ra và giao cho việc tổ chức lại VNCMĐMH, ông Hồ đã tìm cách hợp
tác với OSS và thường tới thư viện của Sở Thông Tin Chiến Tranh của Hoa Kỳ ở
Côn Minh để tìm hiểu thêm về lịch sử nước Mỹ và tình hình chính trị thế giới.
Rất có thể là chính tại thư viện này ông đã được đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của
Hoa Kỳ mà sau này ông đã trích dẫn trong lời mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập
của Việt Nam ngày 02 tháng Chín 1945.
Hồ Chí Minh đã cố gắng lập công với OSS
trong cuộc chiến chống Nhật và tìm đủ mọi cách để gấy được sự ủng hộ của Hoa Kỳ
trong việc ngăn chặn đế quốc Pháp trở lại Đông Dương. Ngoài những nỗ lực vận
động qua OSS và các viên chức ngoại giao Mỹ, trong khoảng từ tháng Mười 1945
đến tháng Hai 1946, Hồ Chí Minh đã gửi tám lá thư cho Tổng Thống và Bộ trưởng
Ngoại Giao Mỹ nhưng không lần nào được trả lời.
Đầu tháng Mười Hai 1946, Abbott Low
Moffatt, giám đốc vụ Đông Nam Á của Bộ Ngoại giao, được cử sang Đông Dương gặp
các giới chức Việt và Pháp để nhận định tình hình. Khi tiếp Moffatt ở Bắc Bộ
Phủ ngày 8 tháng Mười Hai 1946, Hồ Chí Minh lại xác nhận mục đích chính của ông
là nền độc lập của Việt Nam chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản. Nhân dịp này,
ông Hồ cũng nhắc lại ý muốn để cho Mỹ đặt căn cứ hải quân ở CamRanh.17
Sau cuộc tiếp xúc này, Moffat nhận định rằng “Hồ Chí Minh trước hết là một
người yêu nước, nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam, có thể được
coi như một Tito ở Á châu.”18 Tuy nhiên, Mofffat cũng tin rằng Hồ
Chí Minh là một người cộng sản, vì vậy phải chịu ảnh hưởng của Nga Sô và Trung
Quốc. Ông kết luận rằng tạm thời cần có sự hiện diện của Pháp ở Đông Dương dưới
một hình thức nào đó, không những nhằm hạn chế ảnh hưởng của Nga Sô mà còn bảo
vệ vùng này trước khả năng xâm lấn của Trung Quốc. Mặc dù kết luận của Moffatt
là một đề nghị có điều kiện, Bộ Ngoại Giao Mỹ đã gửi thông tư cho tất cả các
Đại sứ quán Mỹ trên thế giới về sự hiện diện cần thiết của Pháp ở Đông Dương,
“không những để loại trừ ảnh hưởng Sô-viết mà còn bảo vệ Việt Nam và Đông Nam Á
trước chủ nghĩa đế quốc của Trung Quốc trong tương lai.”19
Quyết định của Hoa Kỳ ủng hộ Pháp trở lại
Đông Dương để ngăn chặn ảnh hưởng của Cộng sản Nga Sô và Trung Quốc trong khu
vực Đông Nam Á đã được chứng minh là sai lầm, vì mục đích chính của Pháp là
chiếm lại những thuộc địa cũ còn vấn đề chống Cộng chỉ là mục đích xa xôi, thứ
yếu. Thật ra, Hoa Kỳ cũng biết rõ ý đồ của Pháp nhưng vẫn ủng hộ Pháp vì một
mặt cần có đồng minh trong Cộng đồng Phòng thủ châu Âu, một mặt tin rằng Pháp
có khả năng đánh bại lực lượng quân sự yếu kém của Việt Minh. Tuy nhiên, yếu tố
quan trọng không phải là cán cân quân sự mà là chính nghĩa chống Pháp giành độc
lập của dân tộc Việt Nam. Dù cho Pháp có bắt hay giết được các lãnh tụ Cộng sản
và dẹp tan được Việt Minh, dân tộc Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục đấu tranh chống sự
thống trị của ngoại bang cho đến khi nào lấy lại được chủ quyền. Tình hình
chính trị Việt Nam vào thời điểm 1945-1946 cho thấy Việt Minh dưới sự lãnh đạo
của Hồ Chí Minh đã giành được chính nghĩa chống Pháp và lôi cuốn được sự ủng hộ
của đông đảo quần chúng. Lẽ ra, Hoa Kỳ đã phải thuyết phục Pháp thi hành Hiệp
định Hồ-Sainteny 6 tháng Ba 1946 thay vì miễn cưỡng ủng hộ tham vọng của Pháp
để mang tiếng chống lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam. Dù cho
không tin tưởng ở Hồ Chí Minh, việc thi hành Hiệp định 6 tháng Ba ít nhất cũng
đem lại cho Mỹ và Pháp một thời gian vừa phải —một “decent interval”—để dò xét
khuynh hướng chính trị thực sự của Hồ Chí Minh, nhất là tìm cách khai thác
thích hợp tinh thần dân tộc của ông đối với đầu óc bá quyền lâu đời của Trung
Quốc. Với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh có thể trở thành một thứ Tito ở Á
châu, nếu không thì ít nhất Hoa Kỳ cũng kìm hãm được ảnh hưởng cộng sản, và
giúp cho các đảng phái quốc gia có cơ hội và thời giờ hồi phục và quy tụ những
người yêu nước không cộng sản.
Hồ Chí Minh muốn làm thân với Mỹ và sẵn
sàng chấp nhận chế độ Liên Hiệp Pháp trong một thời gian từ năm đến mười năm vì
muốn có thì giờ củng cố lực lượng và thăm dò chiều hướng quốc tế. Hồ Chí Minh
vốn là một nhân vật realpolitik, sẵn sàng thích ứng với hoàn cảnh thực tế và
vận dụng mọi phương tiện khả hữu để đạt tới mục tiêu trước mắt là một nước Việt
Nam độc lập và mục tiêu lâu dài là một xã hội Cộng sản. Chương Một trên đây đã
nhắc đến việc Hồ Chí Minh thuyết phục được Trương Phát Khuê rằng phải mất ít
nhất năm mươi năm mới thiết lập được một xã hội Cộng sản ở Việt Nam. Hồ Chí
Minh chỉ công kích Mỹ và quyết định chiến đấu chống Pháp đến cùng vào năm 1950
sau khi đã có “hậu phương lớn” là Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch
Đông.
Thật ra, dù các nhà lãnh đạo Mỹ có đánh giá
Hồ Chí Minh như một người yêu nước trước chủ nghĩa cộng sản, đã từng ca ngợi
nước Mỹ như “một nhà vô địch binh vực quyền lợi của các dân tộc nhược tiểu,”20
ưu tiên chọn lựa của Hoa Kỳ trong thời điểm ngay sau Thế chiến II vẫn là Âu
châu và nước Pháp. Chỉ đáng tiếc là Pháp đã không có một tầm nhìn sáng suốt về
vấn đề thuộc địa để giữ được vai trò thích hợp ở Đông Nam Á, và cũng đáng tiếc
là Hoa Kỳ đã không làm gì tích cực để thuyết phục hay áp lực Pháp nắm lấy cơ
hội giải quyết vấn đề Đông Dương sớm hơn và thuận lợi hơn, trước khi Trung Quốc
mất vào tay Mao Trạch Đông.21 Cũng như Pháp, Hoa Kỳ đã không nhận ra
được mối quan tâm sâu sắc từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam là tìm mọi cách để
khỏi bị lệ thuộc vào Trung Quốc, một điều đã được Hồ Chí Minh phát biểu một
cách rất nôm na, như đã được dẫn ở chương Hai: “Thà ngửi cứt thằng Tây một thời
gian hơn là phải ăn cứt thằng Tàu suốt cả đời.”
Quyết định thứ hai rõ ràng sai lầm của Hoa
Kỳ là bất hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc tại Hội nghị Genève 1954. Mặc dù
vừa thua nặng ở Điện Biện Phủ và đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng về quân sự,
Pháp vẫn dựa được vào uy thế của Mỹ để mặc cả khiến cả hai đại cường cộng sản
đều chiều chuộng và bắt ép Việt Minh phải chấp nhận một bản hiệp định không
xứng đáng với những điều kiện của phe chiến thắng. Hoa Kỳ quá lo ngại về hiểm
họa bành trướng của Cộng sản mà không nhận ra rằng quyền lợi của Liên Xô lúc đó
không phải ở Viễn Đông còn Trung Quốc thì đang thay đổi chính sách đối ngoại,
muốn hòa hoãn với khối tư bản để đáp ứng nhu cầu quốc nội sau những hao tổn quá
lớn cho hai cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam (xem chương Bốn). Ngoài ra, cả
hai đại cường cộng sản, nhất là Trung Quốc, đều không muốn có một nước Việt Nam
cộng sản mạnh nhưng độc lập. Nếu Hoa Kỳ chính thức tham gia Hội nghị Genève và
có những cuộc thương thuyết riêng với Nga Sô và Trung Quốc thì có thể đã đạt được
một bản thỏa ước quốc tế về Đông Dương với một giải pháp chính trị có khả năng
ổn định lâu dài hơn, khác với bản hiệp định đình chiến giữa Pháp và Việt Minh.
Tóm lại, sai lầm căn bản của Hoa Kỳ trong
chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất là tin tưởng và giúp đỡ Pháp chiến đấu
chống cộng sản trong khi mục đích chính của Pháp là khôi phục lại chủ quyền của
họ ở Đông Dương. Đúng như các tác giả của “Hồ sơ Ngũ Giác Đài” đã nhận định về
chính sách ngây thơ của Hoa Kỳ đối với Pháp: “Oa-sinh-tơn muốn Pháp chiến đấu
chống cộng sản và thắng cuộc chiến này, với sự hướng dẫn và cố vấn của Hoa Kỳ;
và Oa-sinh-tơn mong đợi rằng, sau khi chiến thắng, Pháp sẽ rút ra khỏi Đông
Dương một cách hào hiệp.”22 Hoa Kỳ cũng đã bỏ lỡ những cơ hội có thể
xoay chuyển được tình thế và tránh được chiến tranh Đông Dương lần thứ Hai với
những hậu quả quá tai hại về nhân mạng, vật chất và tinh thần cho tất cả mọi
phe lâm chiến.
Về phía Quốc gia: Danh từ quốc gia ở đây dùng để chỉ những đảng phái chính
trị không cộng sản và chính quyền Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) là những thành
phần chống chủ nghĩa Cộng sản và Mặt trận Việt Minh, và có liên hệ đến chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất.
Như đã nói đến trong Chương Một, sau khi
khởi nghĩa Yên Bái 1930 bị thất bại và những cuộc đàn áp tàn bạo của Pháp tiếp
theo đó, hầu hết các lãnh tụ cách mạng Việt Nam đều phải bỏ trốn sang Trung Hoa
lánh nạn. Hàng ngũ quốc gia, kể cả Việt Nam Quốc Dân Đảng, về sau lại chia
thành nhiều nhóm không hợp tác được với nhau và cũng không trở về nước tái lập
cơ cở để hoạt động. Những nhóm chính trị quốc gia xuất hiện ở trong nước như
các hệ phái đảng Đại Việt (Bắc), đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu (Nam) hoặc
nhân sĩ độc lập như Huỳnh Thúc Kháng (Trung) đều thiếu cơ sở quần chúng và chỉ
có những hoạt động rất hạn hẹp. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là vừa có tổ chức
hoạt động bí mật ở trong nước, vừa phối hợp với những chi bộ trong mạng lưới
cộng sản quốc tế ở Nga Sô, Trung Quốc và Thái Lan. Sau khi thành lập Mặt trận
Việt Minh, Hồ Chí Minh lại lấy được sự tín nhiệm của Quốc Dân Đảng Trung Hoa và
liên hệ được với Cơ quan Tình báo OSS của Mỹ để tổ chức các hoạt động chống
Nhật tại Việt Nam, nhờ đó gây được thanh thế cho Việt Minh và dễ dàng giành
được chính quyền ngày 19.8.1945. Qua những hình thức hợp tác bất đắc dĩ cho đến
khi Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau (tháng Sáu-tháng Mười
1946), các đảng phái quốc gia bắt đầu bị Việt Minh mở chiến dịch thanh trừng,
kết quả là hầu như bị tận diệt chỉ trong vòng mấy tháng.
Nguyên nhân thất bại của các đảng phái chính
trị quốc gia là thiếu đoàn kết, thiếu chuẩn bị trước thời cơ, thiếu tổ chức và
kỷ luật, thiếu đường lối và kế hoạch hoạt động quần chúng, quá lệ thuộc vào
những tướng lãnh tham nhũng Trung Hoa, thiếu những cuộc vận động ngoại giao với
Hoa Kỳ và Anh quốc. Đối với Pháp, các lãnh tụ quốc gia lại tỏ thái độ cực đoan
và đòi hỏi hơn cả Hồ Chí Minh, làm mất cơ hội có thể lấy được được sự ủng hộ
không những của Pháp mà còn của Hoa Kỳ và Anh nữa. Sainteny đã tiếp xúc với
Nguyễn Tường Tam từ khi còn ở Trung Hoa và năm 1945 đã hai lần đến gặp Nguyễn
Hải Thần ở Hà Nội để bàn việc hợp tác nhưng lần nào cũng thất bại. Trong khi
đó, Hồ Chí Minh đã áp dụng chiến thuật “lùi một bước để tiến hai bước” để
nhượng bộ Pháp và ký Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba. Chẳng trách gì Pháp đã tiếp
tay cho Việt Minh trong chiến dịch truy lùng các đảng phái quốc gia sau đó.
Không ai có thể phủ nhận lòng yêu nước nhiệt thành và lòng dũng cảm của những
nhà cách mạng không cộng sản, nhưng tinh thần ái quốc cực đoan và nhất là sự lo
ngại bị kết tội “nhượng bộ Pháp” đã khiến cho các lãnh tụ quốc gia không tính
được những mưu lược dài hạn, không biết sử dụng thời cơ như những phương tiện
để đạt tới cứu cánh.
Nhiều nhà trí thức sang Pháp du học, nhận
thấy rõ chính sách bóc lột và đối xử bất công của Pháp ở Việt Nam, khi về nước
đã trở thành những nhà chính trị tranh đấu hăng say cho độc lập và tự do của
dân tộc. Họ đã sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do biểu tình
trong một xã hội dân chủ để đòi hỏi nước Pháp phải tôn trọng độc lập và nhân
quyền của dân Việt. Mọi hoạt động đều hướng về cùng một mục đích nhưng có nhiều
chủ trương khác nhau, không kết hợp và cũng không phối hợp được với nhau. Nhiều
người bị mật thám Pháp theo dõi, bắt bớ, nhiều tờ báo bị đóng cửa. Ưu điểm của
tư tưởng và sinh hoạt dân chủ đa nguyên đã trở thành nhược điểm khi phải đối
phó với những biện pháp đàn áp của guồng máy thống trị thực dân, và những trí
thức yêu nước này đã hoàn toàn bất lực khi phải cạnh tranh với đảng Cộng sản
vốn có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, nhất trí trong tư tưởng và hành động. Nhiều
người đã bị đảng cộng sản thủ tiêu vì bất đồng chính kiến.
Quốc Gia Việt Nam, trong hơn bảy năm dưới
quyền lãnh đạo của Bảo Đại (5.6.1948 – 26.10.1955) đã thay đổi chính phủ tới
mười lần (ba lần với Trần Văn Hữu, hai lần với Nguyễn Văn Tâm).23
Ngoại trừ một vài cá nhân, không có một chính phủ nào có thể so sánh về tinh
thần yêu nước và làm việc hết lòng, mặc dù thiếu kinh nghiệm chính trị, như
chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945. Thành tích của các chính phủ trong thời gian
bảy năm này chỉ là một chuỗi những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái
chính trị, tôn giáo phức tạp, không có hậu thuẫn của nhân dân, do đó không đủ
trọng lượng đòi hỏi Pháp phải tôn trọng lời hứa và thực hiện những điều đã ký
kết. Phần lớn những người chủ chốt lại là những người thân Pháp, không phải là
những người quyết tâm tranh đấu cho độc lập và tự do của dân tộc. Chẳng có gì
đáng ngạc nhiên khi chính nghĩa chống Pháp đã được dồn hết sang phía chính phủ
kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Cũng phải nói thêm là Bảo Đại và những
chính trị gia hợp tác với ông, kể cả một số người thật lòng yêu nước, đều thiếu
kinh nghiệm hoạt động ngoại giao, nhất là vận động sự ủng hộ của quốc tế. Ngay
cả đối với Hoa Kỳ, Bảo Đại đã có nhiều cơ hội gặp gỡ các Đại sứ và những nhân
vật quan trọng của Mỹ ở Pháp cũng như ở Việt Nam nhưng chẳng bao giờ thảo luận
và làm sáng tỏ lập trường của mình để thuyết phục Hoa Kỳ mà chỉ chờ đợi được
Hoa Kỳ ủng hộ. Ông cũng không có những chính khách hay những nhà ngoại giao chuyên
nghiệp làm công việc vận động cho ông. Thậm chí, QGVN thành lập từ 1948 mà tới
1950, sau khi Trung Quốc và Nga Sô công nhận VNDCCH, Hoa Kỳ và Anh mới vội vã
công nhận QGVN. Rồi cũng phải nhờ sự vận động gần như cưỡng bách của Mỹ, QGVN
mới được sự thừa nhận của Thái Lan. Lý do chính cũng vì, theo thỏa ước Élysée,
các hoạt động ngoại giao của QGVN vẫn còn phải qua trung gian của Pháp, về điểm
này, Phó Ngoại trưởng Ấn-độ B. V. Keskar có thuật lại cho Giám đốc Vụ Đông Nam
Á Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ một nhận xét khá chí lý của một số nhân vật QGVN: “Bảo
Đại không phải là bù nhìn mà là tù nhân của Pháp’.24
Về phía Việt Minh: Ở đây không cần phải nhắc lại những chính sách sai lầm
về mặt đối nội như tiêu diệt địa chủ và khủng bố trí thức trong những năm đầu
thập kỷ 1950 (xem chương Ba), nhưng cần phải phân tích một sai lầm chủ yếu về
đối ngoại có ảnh hưởng tai hại cho Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là việc cầu
viện Trung Quốc qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Hành động cầu
viện và tiếp viện vẫn là chuyện bình thường giữa các nước đồng minh, nhưng đặc
biệt trong mối quan hệ Việt-Trung, hành động này có những hậu quả phức tạp. Đối
với Trung Quốc, Việt Nam đã mắc một món nợ quá lớn, lại có một thời kỳ bất hòa
đưa đến cuộc chiến tranh mùa Xuân năm 1979,25 khiến Việt Nam sẽ phải
trả bằng một giá rất cao trong một thời gian rất lâu nếu không có sự sụp đổ của
khối Sô-Viết và các nước cộng sản Đông Âu vào giữa thập kỷ 1980. Vì nguy cơ
chung, Việt Nam và Trung Quốc lại hòa giải với nhau, nhưng trong tiến trình này,
Việt Nam lại đi theo Trung Quốc như một gương mẫu về đối nội và đối ngoại và đã
để cho Trung Quốc có cơ hội lũng đoạn và ngăn cản sự phát triển kinh tế của
Việt Nam.
Hãy trở lại lý do Việt Minh cầu viện Trung
Quốc năm 1950, sau khi Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch và thống nhất
toàn lục địa. Hồ Chí Minh chủ trương cần phải dựa vào Trung Quốc như một hậu
phương lớn để hoàn tất thắng lợi cuộc chiến tranh chống Pháp và xây dựng chế độ
cộng sản ở Việt Nam. Nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam tin rằng, vì chủ nghĩa cộng
sản quốc tế, quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ là quan hệ bền vững của
những nước anh em cùng tranh đấu cho một lý tưởng chung, do đó Trung Quốc của
thời đại cộng sản không còn là một mối đe dọa cho Việt Nam như những triều đại
phong kiến khi xưa. Dù sao chăng nữa, trong tình thế khó khăn của Việt Nam năm
1950, giả thử Hồ Chí Minh vẫn còn giữ mối lo ngại ngàn đời của dân tộc đối với
đầu óc bá quyền của Trung Quốc, ông cũng chẳng có một sự lựa chọn nào khác nếu
muốn tiếp tục cuộc chiến chống Pháp.
Lý do khiến VNDCCH cần phải dựa vào sự tiếp
viện của Trung Quốc để tiếp tục cuộc chiến chống Pháp đã rõ ràng. Nhưng lý do
khiến Trung Quốc nhiệt tình chi viện cho VNDCCH thì không chỉ đơn giản vì hai
nước cùng chia sẻ lý tưởng cộng sản. Nhờ được tham khảo những tài liệu trong
các văn khố và thư viện ở Bắc Kinh, giáo sư sử học Qians Zhai của Đại học
Aubum, Alabama, nhận thấy có ba động cơ đã thúc đẩy Mao Trạch Đông quyết tâm
giúp cho Hồ Chí Minh tiếp tục chiến đâu chống Pháp đến thắng lợi.
Thứ nhất là yếu tố địa lý chính trị. Đối
với Mao, Đông Dương là một trong ba tiền tuyến bị đe dọa xâm lược bởi đế quốc
tư bản do Mỹ cầm đầu. Hai tiền tuyến kia là Triều Tiên và Đài Loan. Phải giúp
cho Bắc Việt thì Trung Quốc mới có khả năng quét sạch những đạo quân của Tưởng
Giới Thạch đang còn hoạt động chống cộng sản trong vùng Quảng Tây và biên giới
Việt-Trung. Mao rất lo ngại tình trạng này nhất là sau khi chiến tranh Triều
Tiên bùng nổ thì quân Quốc Dân Đảng từ Việt Nam và miền núi ở Quảng Tây quấy
nhiễu dữ dội. Như vậy, nếu VNDCCH thắng được Pháp thì Trung Quốc mới có thể yên
tâm về biên giới phía Nam.
Lý do thứ hai là ý thức hệ. Đây là động cơ
quan trọng nhất. Mục tiêu của Mao Trạch Đông không phải chỉ làm cách mạng cộng
sản ở Trung Quốc mà thay đổi cả thế giới, về điểm này, Qiana Zhai đồng ý với
quan điểm của Michael Hunt cho rằng, theo Mao, hệ thống chính trị quốc tế cũ đã
làm cho Trung Quốc bị suy đồi nên cần phải có một hệ thống mới (tức cộng sản)
để phục hồi sức mạnh của Trung Quốc. Vì mối liên hệ chặt chẽ đó, một cuộc cách
mạng thế giới sẽ giúp củng cố và đem lại sự chính đáng cho cuộc cách mạng Trung
Quốc.26 Trong bản chỉ thị nội bộ đảng ngày 14.3.1950, Phó Chủ tịch
Lưu Thiếu Kỳ viết: “Sau khi cách mạng của ta thành công, việc giúp đỡ cho các
đảng Cộng sản và dân tộc của tất cả những nước bị áp bức được giải phóng là một
nghĩa vụ quốc tế mà đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc không thể né tránh. Đó
cũng là một trong những phương cách kiện toàn thắng lợi của cách mạng Trung
Quốc trên trường quốc tế.27 Vào thời điểm này, Stalin phân công cho
Mao phụ trách thực hiện cách mạng cộng sản ở Á châu. Riêng đối với miền Bắc
Việt Nam, Mao Trạch Đông còn muốn đền ơn Hồ Chí Minh trong việc giúp đỡ Hồng
quân ở biên giới Việt-Trung trong những ngày nguy khốn năm 1946 do hoạt động
truy kích của quân đội Tưởng Giới Thạch ở miền Nam Trung Quốc.
Lý do thứ ba là quan hệ truyền thống giữa
Trung Quốc và các nước lân bang. Zhai xác nhận trong lịch sử, Trung Quốc vẫn tự
coi mình là trung tâm của thế giới, coi mọi nước khác là thấp kém. Đây là đầu
óc bá quyền (hegemony) mà các nho sĩ Việt Nam thời trước gọi là mối quan hệ
giữa “thiên tử” và các nước “chư hầu”. Trong lịch sử đã có nhiều phen các hoàng
đế Trung Quốc phái quân sang Việt Nam dẹp loạn để bảo vệ triều đình của một nhà
vua Việt Nam đã được “thiên triều” thừa nhận và phong vương hiệu. Nhiều khi
Trung Quốc cũng nhân dịp đi cứu viện mà toan tính việc lấn chiếm lãnh thổ. Thí
dụ gần nhất là năm 1882, khi quân Pháp tấn công Hà Nội, vua Tự Đức vội sai sứ
sang cầu cứu Thanh triều. Khi đó Tổng đốc Lưỡng Quảng trình mật sớ lên vua
Thanh tâu rằng “…thế lực nước Nam thật là suy hèn không có thể tự chủ được nữa,
vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ các tỉnh ở Thượng du. Đợi khi
có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở phía Bắc sông Hồng Hà.28 Dù đã
là cộng sân, Mao Trạch Đông cũng vẫn còn giữ truyền thống bá quyền đó trong
dòng máu, dù cho hình thức bảo hộ có thay đổi.
Việt Nam thời trước, vì lý do sinh tồn, có
một tục lệ ngoại giao là thần phục các hoàng đế phương Bắc, hàng năm phải triều
cống để tránh nạn binh đao và giữ được độc lập. Tục lệ này được bãi bỏ sau khi
Pháp sang chiếm Đông Dương, nhưng người Việt Nam vẫn chưa bỏ được thói quen bắt
chước các mẫu hình Trung Quốc, hoặc giữ nguyên hoặc sửa đổi các mẫu hình ấy cho
thích hợp với tinh thần dân tộc. Vì chủ nghĩa cộng sản quốc tế, vì thắng lợi to
lớn của cách mạng Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận Mao Trạch Đông là một
lãnh tụ vĩ đại của thế giới cộng sản và tin tưởng rằng sự giúp đỡ của Trung
Quốc là do lý tưởng chung chứ không phải vì đầu óc bá quyền truyền thống.
Sự tin tưởng của ông Hồ đã có phần được
chứng minh là đúng. Tháng Giêng năm 1950, trong khi phái viên Lý Bích Sơn và
Nguyễn Đức Thụy còn ở Trung Quốc, ông Hồ quyết định đích thân lên đường cầu
viện. Mao Trạch Đông khi đó đang ở Mát-scơ-va để hội họp với Stalin, đã cùng
với Chu Ân Lai gửi điện về chào mừng Hồ Chí Minh và chỉ thị cho Phó Chủ tịch
Lưu Thiếu Kỳ và Tổng tư lệnh quân đội Chu Đức tiếp đón chủ tịch VNDCCH thật
nồng hậu. Trong dịp này, Lưu Thiếu Kỳ cũng chứng tỏ cho Hồ Chí Minh thấy Trung
Quốc đặt tình hữu nghị Việt-Trung quan trọng hơn cả mối quan hệ ngoại giao với
Pháp. Quả thật Trung Quốc đã quyết định công nhận VNDCCH ngày 15 tháng Giêng dù
biết chắc rằng việc này sẽ làm cho Pháp tức giận và sẽ hoãn việc công nhận Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ngoài ra, Lưu Thiếu Kỳ còn thu xếp cho chủ tịch VNDCCH
qua Mát-scơ-va để có cơ hội gặp Stalin trong khi Mao còn ở đó. Hồ Chí Minh được
Stalin tiếp nhưng cuộc gặp không thành công vì, mặc dầu đã công nhận VNDCCH theo
lời yêu cầu của Mao, Stalin vẫn còn lạnh nhạt với ông Hồ và cho ông biết rằng
việc viện trợ cho Việt Nam là trách nhiệm của Trung Quốc. Hồ Chí Minh cũng gợi
ý với Stalin về việc Liên Xô ký một hiệp ước với VNDCCH như đã ký với Trung
Quốc, nhưng Stalin không chấp thuận.29 Cũng trong phiên họp này,
Stalin đã chất vấn ông Hồ tại sao giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương? Tại sao
chưa tiến hành cải cách ruộng đất?30
Hồ Chí Minh trở về Bắc Kinh cùng với Mao
Trạch Đông và Chu Ân Lai, và đã cùng các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thảo luận về các
nhu cầu viện trợ và thể thức thi hành. Từ tháng Tư đến tháng Chín 1950, Trung
Quốc gửi sang Việt nam 14,000 súng trường và súng lục, 1,700 súng liên thanh và
ba-dô-ka, một số lớn đạn dược, thuốc men, quần áo và 2,800 tấn thực phẩm.31
số lượng viện trợ này còn nhỏ nhưng rất đáng kể vì Trung Quốc vừa ra khỏi cuộc
nội chiến hơn hai mươi năm lại đang phải chuẩn bị tham chiến ở Triều Tiên. Bắc
Kinh cũng thành lập đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc do Vi Quốc Thanh cầm đầu và
mở trường đào tạo sĩ quan ở Vân Nam và trường huấn luyện binh sĩ ở Quảng Tây
cho Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN). Trước khi thi hành nhiệm vụ, các cố
vấn Trung Quốc phải tham dự một khóa hướng dẫn ở Bắc Kinh về địa hình, địa vật
và tình hình chiến sự ở Việt Nam do Hồng Thụy Võ Nguyên Bắc,32 một
sĩ quan cấp tướng trong quân đội Trung Quốc phụ trách. Lưu Thiếu Kỳ cũng chỉ
thị cho các cố vấn phải thận trọng trong việc giao thiệp với người Việt Nam,
“tránh bày tỏ thái độ ngạo mạn… tránh áp đặt quan điểm của mình và đừng có bực
tức nếu người Việt Nam không chịu nghe theo lời khuyến nghị.”33
Mặc dù quan hệ giữa hai nước vào thập kỷ
1970 trở nên tồi tệ đến độ xảy ra chiến tranh năm 1979, đó là những chuyện của
gần ba chục năm về sau. Trong thập kỷ 1950đối với các nhà lãnh đạo ở Hà Nội,
Trung Quốc là tấm gương sáng chói của cách mạng vô sản và Mao Trạch Đông là vị
lãnh tụ vĩ đại của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chính Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã công khai bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tin tưởng tuyệt đối ở hai nhà lãnh
đạo tối cao của cộng sản quốc tế, Stalin và Mao Trạch Đông, và nhắc nhở cán bộ
các cấp phải học tập kinh nghiệm của Trung Quốc một cách thành khẩn và nhiệt
tình.34 Vì lẽ đó mà Đảng Lao Động Việt Nam nhất loạt từ trên xuống
dưới đã chịu khó nghe lời các cố vấn Trung Quốc, mặc dù có nhiều lúc đã nhận
thấy những điều chỉ dẫn và mô hình cách mạng xã hội của họ không thích hợp với
hoàn cảnh Việt Nam, và cũng thường rất bất mãn trước thái độ đối xử phong kiến
mà họ đã không gột rửa được.
Vai trò của cố vấn Trung Quốc quan trọng
nhất là về mặt quân sự. Khi ở Bắc Kinh về, Hồ Chí Minh thấy cần phải giải phóng
Cao Bằng để khai thông một vùng biên giới quan trọng giữa hai nước. Đáp lời yêu
cầu của Hồ Chí Minh, tháng sáu 1950, Trung Quốc cử Đại tướng Trần Canh sang
Việt Nam làm cố vấn quân sự đặc biệt. Trần Canh được lệnh thiết lập một kế
hoạch viện trợ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các khía cạnh quân sự, kinh tế,
chính trị ở Việt Nam, các điều kiện hậu cần, khả năng giao thông vận chuyển qua
biên giới. Trên đường đi Việt Nam, Trần Canh ghé thăm các trại huấn luyện sĩ
quan QĐNDVN ở Vân Nam, quan sát và đánh giá khả năng quân sự Việt và Pháp ở
vùng biên giới. Trần Canh tới Thái Nguyên ngày 28 tháng Bảy, họp với Hồ Chí
Minh và Đại sứ Trung Quốc La Quí Ba và đưa ý kiến về kế hoạch tấn công Cao Bằng
mà trước đó ông đã đề nghị với Bắc Kinh và được Quân ủy Trung ương (QUTƯ) chấp
thuận trong điện văn ngày 26. Theo kế họach này, Trần Canh nhận định rằng
QĐNDVN chưa đủ sức chiếm giữ Cao Bằng ngay nên cần đánh những đồn lẻ ở chung
quanh trước bằng chiến thuật “đánh điểm, diệt viện”, tức là một mặt công hãm cứ
điểm một mặt phục kích các lực lượng tiếp cứu của địch. Trong chiến dịch này,
trước tiên hãy tấn công Đông Khê, một đồn nhỏ của Pháp nằm giữa Cao Bằng và
Lạng Sơn, để dụ quân Pháp từ hai nơi kéo đến tiếp cứu. Khi đã tiêu diệt được
các lực lượng tiếp cứu này thì việc tiến chiếm Cao Bằng sẽ dễ dàng.
Ngày 9 tháng Tám, Trần Canh tới Quảng Uyên
(tài liệu Trung Quốc ghi lầm là Quảng Nguyên) vào lúc đoàn cố vấn Quân sự của
Vi Quốc Thanh cũng vừa từ Trung Quốc sang. Trần Canh tham khảo ý kiến Vi Quốc
Thanh, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái về chiến dịch Cao Bằng. Tướng Giáp tán
thành kế hoạch và mời cố vấn họ Trần thuyết trình trong một phiên họp của các
tướng tá chỉ huy QĐNDVN từ cấp trung đoàn trở lên. Trần Canh nói luôn bốn tiếng
đồng hồ, chú trọng vào những “sở đoản” của QĐNDVN. Võ Nguyên Giáp nhiều lần ca
ngợi buổi thuyết giảng này “rất bổ ích”. Hồ Chí Minh cũng tới thăm trung tâm
chỉ huy và nhắc nhở binh sĩ các cấp nghe theo lời chỉ dẫn của cố vấn Trần Canh.
Ngày 16 tháng Chín, quân đội Việt Minh tấn
công Đông Khê và sau hai ngày thì chiếm được đồn. Đại tá Lepage kéo một đạo
quân từ Lạng Sơn lên tiếp cứu qua ngả Thất Khê. Từ Cao Bằng, Đại tá Charton
cũng kéo một đạo quân xuống để chiếm lại Đông Khê. Cả hai đạo quân đều bị Việt
Minh áp dụng chiến thuật “đánh điểm, diệt viện” phục kích và tiêu diệt gần hết,
bắt sống được cả Lepage và Charton. Sau đó, Việt Minh chiếm luôn Cao Bằng và
Thất Khê. Trước tình thế bất lợi, Pháp phải rút quân khỏi Lào Kay, Lạng Sơn và
Hòa Bình, bỏ lại 11,000 tấn đạn dược và để trống cả một vùng đồng bằng phía Bắc
và Đông Bắc sông Hồng. Sau chiến thắng này, Việt Minh khai thông được các đường
chuyển vận giữa Trung Quốc và Việt Nam, Do việc Pháp rút quân khỏi Hòa Bình,
Việt Minh cũng mở rộng vùng “giải phóng” giữa Việt Bắc và miền Trung. Trần Canh
họp với các cấp chỉ huy, đánh giá ưu khuyết điểm của chiến dịch Cao Bằng, sau
đó mở khóa huấn luyện bổ túc về kỹ thuật chiến tranh nhân dân, vận dụng khả
năng của lực lượng phụ nữ, khai thác tù binh và sử dụng tù binh vào công cuộc
tuyên truyền địch vận. Hồ Chí Minh đánh giá thắng lợi của chiến dịch Cao Bằng
lớn hơn mong đợi và tuyên bố đây là “một chiến thắng của chủ nghĩa quốc tế vô
sản”. Tướng Giáp cũng nhận định: “Chiến thắng này cho thấy tư tưởng quân sự Mao
Trạch Đông áp dụng rất thích hợp ở Việt Nam.” Ông Hồ yêu cầu Trần Canh ở lại để
tiếp tục giúp đỡ QĐNDVN nhưng họ Trần được lệnh phải về nước đầu tháng Mười Một
để chuẩn bị lãnh nhiệm vụ Phó Tư lệnh Chí nguyện quân Trung Quốc ở chiến trường
Triều Tiên.
Tháng Giêng 1951, Võ Nguyên Giáp phát động
chiến dịch Trần Hưng Đạo tấn công tỉnh Vĩnh Yên, cách Hà Nội khoảng hơn năm
mươi cây số về hướng Tây-Bắc. Tướng Giáp áp dụng chiến thuật “biển người” của
Trung Quốc ở chiến trường Triều Tiên, nhưng bị tướng Jean de Lattre de
Tassigny, tân Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương, dùng máy bay đổ thêm
quân xuống tăng cường lực lượng phòng thủ Vĩnh Yên và dội bom lửa (napalm)
xuống các đợt tấn công khiến Việt Minh phải rút lui, tổn thất ít nhất 6,000
binh sĩ.35 Đến tháng Ba, tướng Giáp lại tung chiến dịch Hoàng Hoa
Thám. Quân sử của Trung Quốc đã lầm tên chiến dịch Trần Hưng Đạo với tên của
chiến dịch sau là Hoàng Hoa Thám. Chiến dịch Trần Hưng Đạo (còn gọi là chiến
dịch “Trung du”) kéo dài 23 ngày (26.12.1950-17.1.1951) chia làm hai đợt. Tướng
Giáp không mô tả sự thất bại của chiến dịch, chỉ nói tấn công Mạo Khê ở phía
Bắc Hải Phòng nhưng vẫn thất bại.36 Hai cuộc tấn công liên tiếp vào
Phủ Lý và Ninh Bình hồi tháng Năm cũng cùng chung số phận.37
Ngay sau khi chiến dịch Trần Hưng Đạo bị
thất bại, Vi Quốc Thanh điện về Trung Quốc báo cáo kết quả và đề nghị tái tổ
chức và huấn luyện QĐNDVN. Mao Trạch Đông đồng ý về đề nghị này nhưng cũng
khuyến cáo Vi nên kiên nhẫn và đừng làm mích lòng người Việt. Theo Mao, “những
khuyết điểm hiện thời của họ cũng là những khuyết điểm của quân đội Trung Quốc
hồi còn trẻ. Chẳng có gì lạ về điều đó. Chỉ bằng cách thuyết phục chúng ta mới
có thể giúp cho họ dần dần tiến tới trong một thời gian tranh đấu lâu dài.”38
Được sự chấp thuận của Hồ Chí Minh, Đoàn cố vấn Trung Quốc giúp QĐNDVN đơn giản
hóa cơ cấu tổ chức, soạn thảo nội qui và tổ chức các lớp huấn luyện cho các sĩ
quan cấp dưới về kỹ thuật chiến đấu cũng như tinh thần trách nhiệm.
Cũng vào đầu năm 1951, Đoàn Cố vấn Chính
trị Trung Quốc được thành lập do Đại sứ La Quí Ba làm trưởng đoàn để giúp kiện
toàn bộ máy nhà nước VNDCCH. Đoàn có trên một trăm người chia làm nhiều ban
chuyên môn, soạn thảo luật lệ hành chánh, tài chánh, thuế khóa, quản lý thông
tin tuyên truyền, chính sách đối với các tổ chức không cộng sản, và các nhóm
sắc tộc thiểu số.
Đoàn đặc biệt cảnh giác nhà nước VNDCCH về
sự nguy hiểm của việc phát hành giấy bạc bừa bãi và chú trọng vào khả năng sản
xuất và mậu dịch. Đoàn cũng khám phá ra tệ nạn tham nhũng trong tầng lớp cán bộ
phụ trách vấn đề tài chánh hoặc lãng phí các vật liệu do Trung Quốc viện trợ.
Lưu Thiếu Kỳ đã phải mấy lần gửi điện yêu cầu Hồ Chí Minh có biện pháp trừng
trị những kẻ vi phạm nội qui bảo vệ đồ viện trợ. Trong năm 1951, đường xe lửa
nối liền Nam-Ninh với Nam Quan được thiết lập, rất thuận tiện cho công cuộc
tiếp tế vật liệu và chuyên chở QĐNDVN sang đào tạo ở Quảng Tây.
Đầu năm 1952, Đoàn Cố vấn quân sự đề nghị
mở chiến dịch giải phóng vùng biên giới Tây Bắc để tạo cứ điểm giải phóng
Thượng Lào trong tương lai. Khi đó, La Quí Ba phụ trách thảo kế hoạch thay cho
Vi Quốc Thanh về nước chữa bệnh. Quân Ủy Trung ương (QUTƯ) ở Trung Quốc chấp
thuận kế hoạch này và chỉ thị cho La phải nghiên cứu trận địa kỹ lưỡng và chuẩn
bị hậu cần trước khi tấn công, và nhất là phải bám chặt lấy nguyên tắc “tiến
chắc, thắng chắc” trong chiến dịch. Ngoài ra cũng phải chú ý tới việc chinh
phục các nhóm sắc tộc miền Tây Bắc đã được Pháp huấn luyện chống Việt Minh từ
1947. Sau khi được Võ Nguyên Giáp và đảng Lao Động Việt Nam tán thành chiến
dịch, La Quí Ba hoàn tất một kế hoạch chi tiết gửi về cho QUTƯ kèm theo lời
Việt Minh yêu cầu Trung Quốc đưa quân từ Vân Nam sang để phối hợp hành quân.
Bắc Kinh sửa đổi đôi chút trong kế hoạch và cho biết một nguyên tắc quan trọng
của Trung Quốc là không đưa quân chiến đấu vào Việt Nam nhưng có thể trải một
số đơn vị dọc theo biên giới để tỏ tinh thần hỗ trợ. Đoàn Cố vấn còn trao đổi
thêm với Trung ương về thời gian khởi sự chiến dịch, QUTƯ khuyến cáo nên chờ
đến gần cuối năm khi QĐNDVN đã được chuẩn bị vững vàng về chính trị, quân sự,
và hậu cần.
Tháng Chín, Chu Ân Lai sang Liên Xô xin
viện trợ kinh tế nhân tiện báo cáo với Stalin về việc giúp đỡ Việt Minh trong
chiến dịch Tây Bắc để cô lập Pháp ở đồng bằng sông Hồng. Stalin tán thành chiến
dịch nhưng cũng muốn Hồ Chí Minh, nếu thành công trong việc bao vây miền đồng
bằng, nên dùng lợi thế quân sự này để điều đình với Pháp. Điều này cho thấy
quan tâm ưu tiên của Stalin là Âu châu và Stalin vẫn nghĩ đến chuyện lấy lòng Pháp
vì không muốn Pháp gia nhập Cộng Đồng Phòng Thủ Châu Âu mà Hoa Kỳ đang cố gắng
xây dựng.
Cũng vào đầu tháng Chín, Hồ Chí Minh sang
Trung Quốc hợp với giới lãnh đạo Bắc Kinh và tiến tới kết luận là trong chiến
dịch Tây Bắc chỉ cần giải phóng Nghĩa Lộ trước để thiết lập căn cứ cách mạng
nhằm sau này tiến về phía Nam chiếm lấy đồng bằng. Hồ Chí Minh thông báo cho Võ
Nguyên Giáp biết quyết định này rồi cùng Lưu Thiếu Kỳ đi Mát-scơ-va dự Đại Hội
thứ 19 của đảng Cộng sản Liên Xô.
Ngày 14 tháng Mười, tám trung đoàn QĐNDVN
tấn công Nghĩa Lộ. Ngày 23.10, Pháp phải bỏ Nghĩa Lộ để rút quân về Nà Sản và
Lai Châu. Đầu tháng Mười Hai, QĐNDVN lại tấn công Nà sản nhưng Pháp đã có đủ
thì giờ củng cố phòng ngự bằng chiến thuật “con nhím”39 nên sau bốn
ngày với nhiều đợt xung phong bị hy sinh, Võ Nguyên Giáp và các cố vấn quân sự
Trung Quốc quyết định phải kết thúc chiến dịch. Dù sao, với việc chiếm đóng
Nghĩa Lộ, Đảng Lao Động Việt Nam cũng đã mở rộng địa bàn kiểm soát vùng Tây
Bắc, thuận lợi cho những cuộc hành quân tấn công vào Thượng Lào. Sau trận Nà
Sản, Võ Nguyên Giáp rút được kinh nghiệm sau này áp dụng vào chiến trường Điện
Biên Phủ là muốn chiếm một cứ điểm của địch có sân bay để nhận tiếp viện thì
trước hết phải hủy diệt các phi đạo.
Tháng Giêng 1953, Vi Quốc Thanh trở về Bắc
Kinh để báo cáo tình hình và tham khảo về việc giúp cho Pathet Lào thiết lập
một cứ điểm ở Thượng Lào nối liền với Tây Bắc Việt Nam. Ngày 5 tháng Ba, Vi trở
lại Việt Nam để giúp Võ Nguyên Giáp điều khiển chiến dịch Thượng Lào. Ngày 10
tháng Tư, QĐNDVN vượt qua sông Mã tấn công sầm Nứa. Pháp phải rút về Xiêng
Khoảng và Cánh Đồng Chum. Sau trận này, Việt Minh và Pathet Lào kiểm soát “toàn
bộ tỉnh sầm Nứa, một bộ phận tỉnh Xiêng Khoảng và Phông Xa Lỳ, chiếm một phần
năm diện tích Bắc Lào, và hàng chục vạn dân.”40 Theo tài liệu Trung
Quốc, tướng Giáp tấn công hai trận ở Thượng Lào, một nhắm vào kinh đô Luang
Prabang và một tiến về Cánh Đồng Chum, với mục đích đe dọa Cam-bốt và Nam Việt
Nam, nhưng bị Pháp chống trả mãnh liệt. “Tháng Năm, các sư đoàn Việt Minh phải
rút lui vì kiệt lực, thiếu tiếp tế và gặp phải mùa mưa. Họ để lại ở Lào những
đơn vị du kích và cán bộ chính trị để chuẩn bị tấn công về sau và tăng cường
lực lượng Cộng sản Lào.41 Tài liệu của Pháp cũng cho biết “Tháng Ba,
1953, vẫn do lời khuyên của Trung Quốc, QĐNDVN mở cuộc tấn công chinh phục Bắc
Lào, nhằm cải thiện các đường giao thông giữa ba miền ở Việt Nam đồng thời
thiết lập một cứ điểm tiến về Nam Lào và Cam-bốt. Chiến dịch phải ngưng giữa
tháng Năm vì quân Việt Minh ở quá xa các căn cứ, không thể vận chuyển pháo binh
cần thiết cho các cuộc công hãm qua các sườn núi ở nước Lào.”42
Điều hiển nhiên là từ 1950, VNDCCH đã có sự
hỗ trợ quan trọng của Trung Quốc về quân sự, nhờ đó, với quyết tâm chiến đấu
chống thực dân Pháp để giành lại độc lập cho đất nước, quân và dân Việt Nam đã
đạt được những thắng lợi đáng kể. Vấn đề có đồng minh hỗ trợ là chuyện bình
thường trong mọi cuộc chiến, cũng như Pháp đã phải nương tựa vào Hoa Kỳ. Yếu tố
then chốt để tiến đến thành công là tinh thần chiến đấu cho một lý tưởng, một
chính nghĩa mà Việt Minh khi đó đã giành được. Ngoài ra, phải kể đến khả năng
và kinh nghiệm của giới lãnh đạo chính trị và quân sự. Nhưng như ta sẽ thấy,
quan hệ Việt-Trung không đơn giản là như vậy.
Trong hơn ba năm đầu kháng chiến, trước khi
được Trung Quốc chính thức quân viện, Việt Minh chỉ áp dụng chiến thuật cầm cự
và tiêu hao quân địch. Sau chiến thắng Cao Bằng (tháng Mười, 1950) Việt Minh
mới bắt đầu có thế chủ động trên chiến trường. Một điều cần làm sáng tỏ trong
giai đoạn 1950-1954 là vai trò của các cố vấn quân sự Trung Quốc trong các
chiến dịch. Theo tài liệu của Trung Quốc, như Qiang Zhai đã thuật lại, thì các
chiến dịch lớn và thắng lợi đều do cố vấn đặc biệt Trần Canh, hoặc do các cố
vấn trưởng La Quí Ba hay Vi Quốc Thanh hoạch định và đề nghị với giới lãnh đạo
đảng Lao Động Việt Nam, thường là sau khi đã được Bắc Kinh xem xét và chấp
thuận. Trung Quốc không nói đến vai trò của họ trong các trận đánh thất bại như
chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, nhưng nhất định là các cố vấn Trung
Quốc cũng có trách nhiệm. Điều đáng chú ý là trong các cuốn hồi ức của tướng Võ
Nguyên Giáp, ông cho biết việc đề nghị và hoạch định các chiến dịch đều do Hồ
Chí Minh hoặc chính ông khởi xướng. Các cố vấn Trung Quốc chỉ góp ý kiến và tán
thành. Vấn đề này cần được làm cho sáng tỏ, nhất là đối với chiến thắng Điện
Biên Phủ, vì trái với sử liệu của VNDCCH và nhận định của các tác giả Tây
phương, Trung Quốc tự nhận có công khởi xướng và hoạch định chiến dịch, nhất là
đã thuyết phục được Hồ Chí Minh bác bỏ kế hoạch tấn công đồng bằng sông Hồng
của Võ Nguyên Giáp để lập trung vào vùng Tây Bắc và Thượng Lào.
Căn cứ vào các sử liệu của Trung Quốc,
Qiang Zhai cho thấy các cố vấn Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về kết quả tai
hại của chính sách cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, nhưng lại rất có
công trong các chiến dịch chống Pháp, đặc biệt là chiến trường Điện Biên Phủ.
Những đoạn dưới đây dựa vào các sự kiện do Qiang Zhai trình bày43 và
khi cần sẽ đối chiếu với những điểm khác biệt trong những cuốn Hồi ký của Võ
Nguyên Giáp.44
Về chiến thắng Cao Bằng, như đã thấy ở
trên, tài liệu Trung Quốc xác nhận rằng Hồ Chí Minh có ý định giải phóng vùng
biên giới Cao Bằng hồi tháng Sáu 1950. Khi Trần Canh tới Thái Nguyên vào cuối
tháng Bảy họp với Hồ Chí Minh và La Quí Ba, ông ta đã đưa đề nghị cụ thể về kế
hoạch đánh Cao Bằng. Kế hoạch này lại được Trần Canh đem ra bàn khi họp với các
tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái và Đoàn cố vấn Quân sự ở Quảng Uyên vào
tháng Tám, và được tướng Giáp tán thành. Tuy nhiên, theo cuốn hồi ức của Võ
Nguyên Giáp, chiến dịch đánh Cao Bằng đã được ông hoạch định từ trước, mở đầu
bằng việc đánh Đông Khê đồng thời tiêu diệt quân tiếp viện, và đã đem kế hoạch
này ra bàn với Vi Quốc Thanh vào giữa tháng Tám khi Đoàn cố vấn Trung Quốc vừa
sang tới nơi. “Anh Vi lắng nghe nhưng chưa phát biểu, và nói đang chờ đồng chí
Trần Canh sang… Tôi nghĩ thời gian này, đồng chí Vi dành quyền phát biểu cho
đồng chí Trần Canh.”45 Tháng Chín, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp gặp
Trần Canh vừa từ Vân Nam sang. Tướng Giáp cho biết: “Tôi mở bản đồ trình bày về
tình hình địch, những lực lượng của ta tham gia chiến dịch, rồi nói về phương
án tác chiến, những lý do mở đầu chiến dịch bằng đánh Đông Khê.” Trần Canh nhận
xét: “Tôi thấy Hồ Chủ tịch và Bộ Chỉ huy chiến dịch đã có quyết định đúng. Binh
lực Việt Nam trong chiến dịch không nhiều. Chọn Đông Khê làm điểm đột phá là
đúng. Đánh Đông Khê để kéo viện binh địch lên là chiến thuật “đánh điểm diệt
viện” Giải phóng quân Trung Quốc thường dùng trong chiến tranh chống quân
Tưởng. Việt Nam nên vận dụng nhiều chiến thuật này.”46
Về chiến dịch giải phóng Tây Bắc và Thượng
Lào năm 1952, sự khác biệt giữa hai nguồn tài liệu Trung Quốc và Việt Nam cũng
rất rõ. Theo tài liệu Trung Quốc, như đã ghi trong những trang trên đây, chính
Đoàn Cố vấn Trung Quốc đưa ra đề nghị này và La Quí Ba là người soạn thảo kế
hoạch, được Bắc Kinh chấp thuận, sửa đổi, và chỉ thị chi tiết. Ban tham mưu
QĐNDVN chỉ tán thành và thi thành kế hoạch. Tuy nhiên, theo Võ Nguyên Giáp thì
“Ngay từ tháng Ba năm 1952, Tổng Quân ủy đã quyết định sẽ mở một chiến dịch lớn
ở Tây Bắc, vùng rừng núi duy nhất địch còn kiểm soát được tại Bắc Bộ.” và nói
rõ thêm “Các cố vấn Trung Quốc… hoàn toàn tán thành chủ hướng tiến công về vùng
rừng núi với việc mở chiến dịch Tây Bắc.”47
Về chiến dịch Thượng Lào, tài liệu Trung
Quốc cũng nói là Cố vấn Vi Quốc Thanh trở về Bắc Kinh tham khảo ý kiến việc
giúp cho Pathet Lao lập một căn cứ ở Thượng Lào tiếp giáp với Việt Nam, sau đó
trở lại Việt Nam giúp Võ Nguyên Giáp điều khiển chiến dịch. Nhưng trong cuốn
hồi ức của ông, tướng Giáp lại ghi “Từ lâu, chúng ta đã nghĩ tới việc giúp bạn
mở rộng căn cứ du kích ở Thượng Lào thành một khu giải phóng, nơi dừng chân của
Chính phủ Kháng chiến Lào… Kết thúc chiến dịch Tây Bắc, tôi đã bàn vấn đề này
với anh Nguyễn Chí Thanh, rồi chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu khi về tới Việt Bắc
phải gấp rút nghiên cứu nắm tình hình địch và binh yếu địa chí Thượng Lào để
trình với Tổng Quân ủy.” Tướng Giáp còn nhấn mạnh rằng “Các cố vấn Trung Quốc
tán đồng chủ trương của ta mở chiến dịch ở Thượng Lào, nhưng không tham gia vì
hoạt động lần này nằm bên ngoài biên giới Việt Nam.”48
Như đã thấy, chiến dịch Tây Bắc và Thượng
Lào dù có thắng lợi vẫn chưa được hoàn tất. Khi chiến dịch phải ngưng vào tháng
Năm 1953 thì cũng là lúc tướng Henri Navarre sang thay thế tướng Raoul Salan
làm Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Navarre có một kế hoạch ba
giai đoạn: bảo toàn vùng chiến lược đồng bằng sông Hồng, bình định những vùng
do Cộng sản kiểm soát ở Trung và Nam phần Việt Nam, và tổng tấn công tiêu diệt
bộ đội chủ lực của QĐNDVN ở miền Bắc. Để thực hiện kế hoạch này, Navarre xin
chính phủ Pháp thêm quân viện và tăng cường lực lượng Quân Đội Quốc Gia (QĐQG)49
bằng viện trợ Mỹ.
Vẫn theo tài liệu Trung Quốc, ngày 13 tháng
Tám 1953, đảng Lao Động Việt Nam gửi điện văn yêu cầu đảng Cộng sản Trung Quốc
giúp “duyệt xét tình hình và ấn định chiều hướng tương lai của nỗ lực chiến
tranh.” Trong khi đó, QĐNDVN bãi bỏ kế hoạch nguyên thủy là tập trung vào khu
vực Tây Bắc và Lai Châu, và đề nghị tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng.
Khi đó, Vi Quốc Thanh về nước chữa bệnh, La Quí Ba tham dự phiên họp 22 tháng
Tám của Bộ Chính trị, nghe Võ Nguyên Giáp trình bày chiến dịch vùng đồng bằng,
không nói gì tới Lai Châu và coi nhẹ tầm quan trọng của chiến dịch Lào. Khi
được La báo cáo về kết quả buổi họp, Bắc Kinh gửi cho La hai điện văn ngày 27
và 29 tháng Tám, phân tích tình hình Việt Nam từ khi Navarre tới và nhấn mạnh
rằng QĐNDVN cần phải giữ nguyên kế hoạch nguyên thủy là tập trung vào miền Tây
Bắc và Lào. Điện văn ngày 29 nói rõ rằng “Nếu loại trừ được quân địch ở Lai
Châu, giải phóng những bộ phận ở Thượng và Trung Lào, rồi mở rộng chiến trường
xuống Nam Lào và Cam-bốt để đe dọa Sài-gòn,” đảng Lao Động Việt Nam sẽ “có thể
cắt giảm nguồn tiếp tế binh sĩ và tiền bạc cho quân đội bù nhìn, phân tán lực
lượng quân Pháp… tăng cường QĐNDVN, làm suy yếu địch và từng bước tiêu diệt
được những bộ phận riêng rẽ của địch quân.” Giới lãnh đạo ở Bắc Kinh cho rằng,
nếu chấp nhận phương án này, Việt Minh có thể chuẩn bị tấn công vùng đồng bằng
và tiến chiếm Hà Nội trong tương lai. Nói tóm lại, trong lúc này, chiến trường
Tây Bắc và Thượng Lào là chính, chiến trường đồng bằng sông Hồng chỉ là phụ.
Trong phiên họp tháng Chín của Bộ Chính
trị, Hồ Chí Minh đồng ý với nhận định của Trung Quốc và quyết định “không thay
đổi phương hướng chiến lược.” Ngày 27 tháng Mười, Vi Quốc Thanh trở lại Việt
Nam, trao cho Hồ Chí Minh một bản sao kế họach của Navarre mà tình báo Trung
Quốc đã lấy được. Sau khi xem xét kế hoạch này, “chủ tịch đảng Lao Động Việt
Nam xác nhận những đề nghị của lãnh đạo Trung Quốc là đúng, và nếu Việt Minh
nghe theo thì có thể đập tan kế hoạch Navarre.”
Trong cuốn hồi ức về chiến trường Điện Biên
Phủ của Võ Nguyên Giáp, không thấy ông nói đến việc ông chủ trương thay thế
chiến dịch Tây Bắc bằng chiến dịch đồng bằng sông Hồng trong phiên họp tháng
Tám. Tướng Giáp chỉ nói là trước đó ông và tướng Hoàng Văn Thái đã “cùng bàn
bạc với các đồng chí cố vấn xây dựng một kế hoạch đánh địch ở nhiều hướng buộc
địch phải phân tán đối phó, nhắm trước hết là phá thế tập trung binh lực của
địch ở đồng bằng.” Về phiên họp tháng Tám, tướng Giáp cho biết Bộ Tổng tham mưu
báo cáo một kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953- 1954 với bốn nhiệm vụ, chủ yếu
là đánh địch ở đồng bằng, đến nhiệm vụ thứ tư mới “Tăng cường hoạt động lên
hướng Tây Bắc (Lai Châu), Thượng Lào và các chiến trường khác để phân tán chủ
lực địch.”50 Như vậy, theo tướng Giáp, các cố vấn Trung Quốc đã đồng
tình với kế hoạch “đánh địch ở nhiều hướng”, cả đồng bằng lẫn cao nguyên Tây
Bắc và Lào. Trong cuốn hồi ức này cũng không thấy nói đến phiên họp tháng Chín
của Bộ Chính trị trong đó, theo tài liệu của Bắc Kinh, Hồ Chí Minh bác bỏ kế
hoạch Võ Nguyên Giáp và tán thành kế hoạch Trung Quốc.
Về bản sao kế hoạch Navarre, cuốn hồi ức
của Võ Nguyên Giáp xác nhận: “Hạ tuần tháng Chín năm 1953, các đồng chí Trung
Quốc chuyển cho ta một bản kế hoạch Navarre với cả bản đồ, do cơ quan tình báo
của bạn thu thập được.” Sau đó tướng Giáp cho biết Vi Quốc Thanh về nước mới
sang cùng đi với ông lên Việt Bắc gặp Hồ Chí Minh bàn cách đối phó với kế hoạch
Navarre. “Tôi và đồng chí Vi Quốc Thanh nhất trí mở những cuộc tiến công nhắm
vào những chiến trường hiểm yếu mà địch yếu, hoặc tương đối yếu nhưng lại không
thể bỏ, là cách tốt nhất buộc địch phải phân tán lực lượng. Cũng nhất trí về
hướng Lai Châu, hướng Trung và Hạ Lào.”51
Về phiên họp tháng Mười, tướng Giáp ghi:
“Một buổi sáng đầu tháng 10 năm 1953, tôi từ cơ quan Bộ Tổng tư lệnh đi dự cuộc
họp bàn về kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 do Bộ Chính trị triệu tập.”
Cuộc họp diễn ra tại Tỉn Keo, một bản của người Dao trong rừng núi Cao Bằng.
Tại đây, tướng Giáp trình bày tình hình quân Pháp từ khi Navarre sang thay
Salan, đặc biệt là cuộc rút quân bất ngờ của Pháp ra khỏi Nà sản trong tháng
Tám và việc tập trung quân cơ động ở đồng bằng. Sau khi thảo luận, Hồ Chí Minh
và Bộ Chính trị xác định Tây Bắc là hướng chính, và hướng phối hợp là trung du
và đồng bằng Bắc Bộ.”52 Không thấy nói đến việc Vi Quốc Thanh tham
gia hội nghị này. Mãi đến cuối tháng Mười Một, khi QĐNDVN đang tiến về hướng
Lai Châu, mới thấy ghi: “Đoàn Cố vấn Trung Quốc rất tán đồng chủ trương và kế
hoạch tác chiến Đông Xuân của ta chọn Tây Bắc là hướng chính.”53
Về quyết định tấn công Điện Biên Phủ, sự
khác biệt giữa tài liệu của Trung Quốc và sách hồi ức của Võ Nguyên Giáp cũng
rất rõ rệt. Theo sự ghi chép của Đoàn cố vấn Trung Quốc, khi được tin Navarre
đổ quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, “Vi Quốc Thanh liền hội ý với các cố vấn
khác trong đoàn, sau đó đề nghị với đảng Lao Động Việt Nam một chiến dịch bao
vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ trong khi vẫn tiếp tục kế hoạch tấn
công Lai Châu.” Cố vấn Vi cũng gửi đề nghị này về Bắc Kinh xin ý kiến. Quân Ủy
Trung Ương chấp thuận đề nghị này, nhấn mạnh rằng chiến dịch Điện Biên Phủ
không những chỉ quan trọng về quân sự và chính trị mà còn có những thành quả
quốc tế nữa. Giới lãnh đạo Trung Quốc hứa cung cấp mọi vũ khí mà QĐNDVN yêu cầu
và chỉ thị cho Đoàn cố vấn giúp cho các lãnh tụ đảng Lao Động Việt Nam “lấy
quyết định” và giúp đỡ họ trong việc điều hành chiến dịch. “Bộ Tư lệnh QĐNDVN
tán thành đề nghị của Đoàn cố vấn và thiết lập kế hoạch hành quân Điện Biên
Phủ. Kế hoạch này được Bộ Chính trị chấp thuận ngày 6 tháng Mười Hai, Chiến dịch
do Võ Nguyên Giáp làm Tổng Tư lệnh và Vi Quốc Thanh là cố vấn trưởng.”54
Theo cuốn hồi ức của Võ nguyên Giáp, ngày
20 tháng Mười Một, khi được tin quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, một cuộc
hội ý Tổng Quân ủy lập tức được triệu tập. Sau khi hội nghị phân tích tình
hình, tướng Giáp nhận định rằng “khi kẻ thù chiếm thêm một vị trí chiến lược
quan trọng của ta thì chúng ta lại cho đây là cơ hội tốt đã đến.” Sau đó, ông
nhắn tin ngay cho các đơn vị hành quân ở Lai Châu: “Phải chặn ngay con đường từ
Lai Châu về Điện Biên Phủ. Có thể sẽ đánh Điện Biên Phủ.”
Ngày 6 tháng Mười Hai, Tổng Quân ủy gửi tờ
trình lên Bộ Chính trị: “Thời gian tác chiến ở Điện Biên Phủ ước độ 45 ngày.
Trận đánh có thể khởi đầu vào tháng Hai
1954. Đây sẽ là một trận tiến công lớn nhất từ trước đến nay, sẽ phải sử dụng
ba đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh, lực lượng phòng không… quân
số tổng quát của chiến dịch sẽ là 42,000 người.” Bộ Chính trị chấp thuận kế
hoạch này.
Đầu tháng Giêng 1954, Võ Nguyên Giáp lên
Khuổi Tát (Cao Bằng) xin ý kiến Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị trước khi lên đường
sang Tây Bắc. Chủ tịch Hồ nói: “Tổng Tư lệnh ra mặt trận, ‘Tướng quân tại
ngoại!’ Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong
Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau.” Cùng đi với
tướng Giáp có một bộ phận cơ quan chỉ huy nhẹ và “đồng chí Vi Quốc Thanh,
Trưởng đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc.”55
Về kế hoạch tác chiến, tài liệu Trung Quốc
cho biết là vào đầu tháng Giêng 1954, Đoàn cố vấn quyết định mở cuộc tấn công
chớp nhoáng vào cứ điểm Điện Biên Phủ trước khi quân Pháp hoàn tất củng cố các
vị trí phòng thủ.56 Do sự thúc dục của các cố vấn, tướng Giáp tung
một “biển người” vào cuộc tấn công quân Pháp nhưng QĐNDVN bị tổn thất nặng, một
phần vì Việt Minh chưa kịp đưa các cỗ pháo vào các vị trí bao vây Điện Biên Phủ
và một phần vì Pháp tăng viện mau chóng hơn sự tính toán của phe tấn công. Đây
là lần đầu tiên cố vấn Trung Quốc nhìn nhận sai lầm của mình. Sau trận tấn công
thất bại này, Bắc Kinh điện cho Vi Quốc Thanh ngày 24 và 27 tháng Giêng, chỉ
thị cho Vi không tấn công quân địch ở Điện Biên Phủ “từ mọi phía” cùng một lúc
mà phải “tách rời quân địch, bao vây và tiêu diệt chúng từng phần một”. Chỉ thị
còn nói rõ “Phải cố gắng mỗi lần diệt một tiểu đoàn địch. Khi bị mất bốn hay
năm tiểu đoàn, quân địch ở Điện Biên Phủ sẽ mất tinh thần tự tin. Chúng sẽ rút
về phía Nam hay chờ đợi quân tiếp viện. Trường hợp nào cũng sẽ có lợi cho ta.”
Đoàn cố vấn và QĐNDVN theo phương án này của Bắc Kinh, bỏ “đánh nhanh” sang
“tiến chắc” bằng cách lần lượt loại trừ các tiền đồn của Pháp làm cho chúng bị
tiêu hao và kiệt lực.57
Trong sách của Võ Nguyên Giáp, ông không
nhắc đến trận “biển người” bị thất bại hồi đầu tháng Giêng nhưng nói nhiều về
việc ông không đồng ý với phương án “đánh nhanh thắng nhanh” của các Cố vấn
Trung Quốc mà chính Ban Tham mưu của ông cũng hăng hái tán thành. Khi ông gặp
riêng Vi Quốc Thanh để cho biết những suy nghĩ của ông về “việc lựa chọn phương
án ‘đánh nhanh thắng nhanh’ là quá mạo hiểm”, Trưởng Đoàn cố vấn cân nhắc một
lát rồi trả lời: “Nếu không đánh sớm, nay mai địch tăng thêm quân và củng cố
công sự thì cuối cùng sẽ không còn điều kiện công kích quân địch.” Rốt cuộc,
tướng Giáp phải triệu tập hội nghị triển khai kế hoạch chiến đấu.
Công cuộc chuẩn bị được tiến hành như dự
định, và thời gian nổ súng được quyết định là 5 giờ chiều ngày 25 tháng Giêng
1954. Không may, gần ngày N, một chiến sĩ của đại đoàn 312 bị bắt và ngày giờ
tấn công bị lộ. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoãn thời gian nổ súng 24
tiếng. Nhân dịp này, Võ Nguyên Giáp tìm cách thuyết phục các cố vấn và ban tham
mưu của ông thay đổi phương án từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến
chắc”. Sau một đêm dài suy nghĩ, sáng hôm sau ông đi gặp riêng Vi Quốc Thanh
trước khi dự phiên họp của Đảng ủy Mặt trận. Sau hơn nửa tiếng đồng hồ nghe
tướng Giáp phân tích, Trưởng đoàn cố vấn nói: “Tôi đồng ý với Võ Tổng. Tôi sẽ
làm công tác tư tưởng với các đồng chí trong đoàn cố vấn.” Khi quay về sở chỉ
huy họp với Đảng ủy, Võ Nguyên Giáp đã phải phấn đấu chật vật với các nhân vật
chỉ huy như Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Đặng Kim Giang mới thuyết phục được họ
đồng ý quyết định hoãn cuộc tiến công, ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui
về địa điểm tập kết. Mười năm sau. trong dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ,
các đại đoàn trưởng trên chiến trường đều nhìn nhận rằng: “Nếu không có quyết
định chuyển phương châm ngày đó thì phần lớn chúng tôi sẽ không có mặt trong
kháng chiến chống Mỹ.”58
Như vậy, theo sự trình bày của Võ Nguyên
Giáp, quyết định thay đổi phương án “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc
tiến chắc” hoàn toàn do chính ông khởi xướng và mất nhiều công thuyết phục
Trưởng Đoàn cố vấn cũng như Ban tham mưu QĐNDVN. Ngày phát động trận đánh Điện
Biên Phủ trước được ấn định vào ngày 25 tháng Giêng 1954 nay hoãn lại tới 13
tháng Ba mới chính thức bắt đầu. Quyết định thay đổi này hiển nhiên là của Võ
Nguyên Giáp không những vì có nhiều nhân chứng mà tài liệu Trung Quốc cũng
không hề nói đến việc dời ngày tấn công là do họ đề nghị. Georges Boudarel,
hiện diện trong hàng ngũ Việt Minh hồi đó, ghi nhận một chi tiết trong quyết
định thay đổi căn bản này của Võ Nguyên Giáp là bãi bỏ đề nghị của cố vấn Trung
Quốc về việc chuyển vận đại bác bằng dân công trên một đường mòn hàng chục cây
số để yểm trợ “biển người” tấn công Điện Biên Phủ. Thay vào đó, trong gần hai
tháng hoãn chiến dịch, Võ Nguyên Giáp đã thiết lập được sáu chục cây số đường
để chuyển vận đại bác 105 ly bằng quân xa. Boudarel xác nhận phương án “đánh
chắc, tiến chắc” của họ Võ đã đem lại chiến thắng Điện Biên Phủ.59
Về công cuộc chuẩn bị lại chiến dịch, tài
liệu Trung Quốc cho biết bốn trung đoàn Việt Minh được huấn luyện về phòng
không ở Trung Quốc được đưa về Điện Biên Phủ cùng với các dàn súng cao xạ 37
ly. Trung Quốc cũng dạy cho QĐNDVN cách bắn xẻ để làm gián đoạn các cuộc hành
quân của Pháp và làm mất tinh thần quân địch. Các kỹ sư công binh Trung Quốc có
kinh nghiệm ở Triều Tiên cũng được gửi sang để chỉ dẫn cho binh sĩ Việt Minh
đào hào, kết quả là hàng trăm cây số đường hào đã giúp cho các đơn vị Việt Minh
tiến đến gần các vị trí vòng đai phòng thủ mà ít bị hỏa lực ngăn chặn của địch.
Trung Quốc cũng cung cấp rất nhiều đạn dược cho QĐNDVN để dùng trong các cuộc
tấn công. Những sự kiện này không có gì mâu thuẫn với tài liệu của Việt Nam. Võ
Nguyên Giáp còn đặc biệt ghi nhận kinh nghiệm đào hào của các kỹ sư Trung Quốc
trong chiến trận Triều Tiên là một đóng góp quan trọng cho chiến thắng Điện
Biên Phủ.
Mao Trạch Đông theo dõi sát tình hình chiến
dịch và muốn giúp Việt Minh thắng trận để gây lợi thế tại Hội nghị Genève sắp
sửa bắt đầu vào tháng Năm. Mao muốn huấn luyện và trang bị thêm cho QĐNDVN hai
sư đoàn pháo binh và hai trung đoàn công binh, và chuyển thêm súng đại bác của
quân đội Trung Quốc cho pháo binh Việt Nam. Các huấn luyện viên và cố vấn đều
phải là những người có kinh nghiệm chiến đấu ở Triều Tiên. Mao chỉ thị cho Bành
Đức Hoài, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương và Ban tham mưu “lập tức chuẩn bị đầy
đủ đạn dược và quân cụ” (nhấn mạnh trong nguyên văn) cho hai sư đoàn mới và gia
tăng số lượng súng phòng không cho Việt Minh. Mao nhấn mạnh rằng “nhất định
phải chiếm được” cứ điểm Điện Biên Phủ, và khi các điều kiện đã sẵn sàng, Việt
Minh phải tấn công càng sớm càng tốt. Mao còn thêm nhiều chỉ thị khác về phương
pháp bù đắp số quân bị tổn thất, về việc cho quân nghỉ ngơi sau chiến thắng
Điện Biên Phủ rồi tiến sang Lào chiếm Luông Pra-bang, và cuối cùng là giải
phóng Hà Nội, trễ nhất vào đầu năm tới là hoàn tất chiến dịch.60
Tóm lại, điểm dị biệt chính giữa hai nguồn
tài liệu Trung Quốc và Việt Nam xoay quanh vấn đề ai khởi xướng và hoạch định
các chiến dịch chống Pháp từ 1950 đến 1954, đặc biệt là những chiến thắng Cao
Bằng (1950), Nghĩa Lộ (1952), Sầm Nứa (1953) và nhất là Điện Biên Phủ (1954).
Đây là một vấn nạn lịch sử quan trọng cần phải được giải đáp thỏa đáng. Căn cứ
vào sử liệu của Trung Quốc như đã thấy trên đây thì cuộc kháng chiến chống Pháp
của Việt Minh đạt được thắng lợi là nhờ ở công lao của Trung Quốc, không những
về viện trợ vũ khí mà còn về chiến lược và chiến thuật nữa. Trong khi chờ đợi
những cuộc nghiên cứu đầy đủ tài liệu của đôi bên, các nhà lãnh đạo chính trị
và quân sự ở miền Bắc cần lên tiếng đính chính hay xác nhận những ý kiến và sự
kiện khác biệt được ghi chép trong các tài liệu của Trung Quốc.
Dù sao chăng nữa, sự thật hiển nhiên không
thể phủ nhận là công cuộc chiến đấu kiên cường đến thắng lợi cuối cùng hoàn
toàn là công lao của quân đội và nhân dân Việt Nam. Riêng trong chiến dịch Điện
Biên Phủ, việc Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp phải khó khăn lắm mới thuyết phục
được các tướng lãnh trong Bộ chỉ huy hành quân đồng ý thay đổi được chiến thuật
“đánh nhanh thắng nhanh”‘ sang “đánh chắc tiến chắc” cho thấy đây là một quyết
định then chốt đưa đến thắng lợi. Một cách khách quan, chiến thắng Điện Biên Phủ
có thể qui vào ba yếu tố chính:
1. viện trợ quân sự của Trung Quốc và Nga
Sô;61
2. lãnh đạo giỏi của Đảng cộng sản Việt Nam
với sự cố vấn của Trung Quốc; và
3. tinh thần chiến đấu dũng cảm cùng với
sức chịu đựng phi thường của quân đội và dân công Việt Nam.
Mặc dù yếu tố thứ ba có tính chất quyết
định, VNDCCH không thể thắng nếu thiếu một trong hai yếu tố kia mà Trung Quốc
đã nhận lấy phần công lao lớn nhất. Dù có duy trì được thanh danh về vai trò
chủ động trong cuộc chiến, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải mang một món nợ lớn
đối với đảng Cộng sản Trung Quốc, do đó vô hình trung đã tự đặt mình và cả dân
tộc vào quĩ đạo của Bắc Kinh. Món nợ đối với Trung Quốc còn to lớn hơn nữa
trong cuộc chiến 1955-1975. Quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh trở nên phức tạp và
khó khăn khi đảng Cộng sản Việt Nam bị mắc kẹt giữa cuộc tranh chấp Liên
Xô-Trung Quốc vào những năm cuối 1960 và đầu 1970. Bắc Kinh đã ngăn chặn những
cơ hội hòa đàm giữa Hà Nội và Washington và bác bỏ việc triệu tập Hội nghị quốc
tế do Liên Xô đề nghị năm 1967. Hà Nội đã nghe theo Bắc Kinh và Liên Xô vẫn
phải tiếp tục cung cấp vũ khí nặng và hỏa tiễn SAM cho Hà Nội. Nhưng đến năm
1971 thì Bắc Kinh lại xoay chiều đi đêm với Mỹ. Khi Mao Trạch Đông chính thức
đón chào Tổng thống Mỹ Nixon năm 1972 thì quan hệ Việt-Trung bắt đầu rạn nứt
trầm trọng và tan vỡ năm 1975. Vấn đề biên giới và lãnh hải lại trở nên gay go
và cuộc thương thuyết song phương được tái diễn năm 1977 kéo dài một năm không
đạt được thỏa thuận và bị bãi bỏ. Những người Hoa vô tội ở Việt Nam bắt đầu bị
ngược đãi khiến 170,000 người phải chạy sang Trung Quốc và nhiều người khác
phải vượt biển lánh nạn ở Hồng Kông và các nước Đông Nam Á. Bắc Kinh cắt hết
mọi viện trợ, rút chuyên viên về nước và “dạy một bài học” cho Việt Nam bằng
cuộc tấn công quân sự đầu năm 1979.
Đã đoạn tuyệt với Trung Quốc, lại thêm gánh
nặng chiến tranh ở Kam-pu-chia, Việt Nam phải lệ thuộc gần như hoàn toàn vào
viện trợ của Liên Xô. Tháng Mười Một 1979, hai bên ký hiệp ước hợp tác theo đó
Liên Xô được sử dụng các căn cứ không quân và hải quân ở Việt Nam, đặc biệt là
căn cứ Cam Ranh do Hoa Kỳ bỏ lại. Sau khi Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu
sụp đổ, mọi cuộc viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam cũng chấm dứt. Vì nhu cầu
cùng tồn tại trước mối đe dọa chung, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Quốc đã trở lại hòa giải với nhau, và Việt Nam đã đi theo
Trung Quốc một cách lúng túng trong những bước hội nhập với cộng đồng thế giới,
đổi mới kinh tế nhưng vẫn giữ độc quyền chính trị. Với tư cách một nước lớn có
hơn một tỉ dân và khả năng kinh doanh sẵn có, Trung Quốc có nhiều điều kiện
thuận lợi để trở thành giàu mạnh mau chóng hơn Việt Nam. Trong các quan hệ kinh
tế và chính trị song phương, Việt Nam đã bắt đầu thể nghiệm những hành động
chèn ép, lấn át, của nhà láng giềng khổng lồ ở phương Bắc. Sau Chiến tranh
Lạnh, quan hệ của Trung Quốc với Hoa Kỳ và các nước Tây phương đã thay đổi hẳn,
từ đối đầu sang hợp tác. Đối với Việt Nam, đầu óc bá quyền muôn đời của Trung
Quốc cũng xuất hiện dưới những dạng thức mới mẻ hòa bình hơn nhưng bản chất và
mục tiêu thì chắc chắn vẫn y nguyên như cũ.
_____
Ghi chú:
[1] Chiến tranh chính
thức xảy ra trên toàn quốc ngày 19.12.1946, nhưng đã thực sự bắt đầu ở
miền Nam ngày 23.9.1945 khi Pháp nổ súng chiếm đóng các cơ sở hành chánh ỡ
Sài-gòn và tiến chiếm các tỉnh ở Nam bộ và phía Nam Trung bộ. ủy ban
Kháng chiến Nam bộ lập tức được thành lập do Trần văn Giàu làm chủ tịch, phát
động chiến tranh du kích chống Pháp.
2 Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 5, 27.
3 Tài liệu của Hà Nội do
Lãnh sự Mỹ James L. O’Sullivan gửi về Bộ Ngoại Giao ngày 20.6.1947. Dẫn bởi
Gareth Porter trong A History of Documents (New York: New American Library,
1981).
4 Tháng Tám 1941,
Roosevelt và Churchill ký Hiến Chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter), hứa
rằng Đồng minh sẽ “tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc lựa chọn hình thức
chính phủ mà họ muốn”. (U.S. Department of State, FRUS: Diplomatic papers, vol.
1, Washington D.C., 1958, 367.
5 khi bị bắt buộc phải
tổ chức quân đội QGVN năm 1953, Pháp vẫn không chịu cho MAAG tham gia huấn
luyện và trợ giúp kỹ thuật cho tới sau khi thất trận Điện Biện Phủ. Tới giữa
1955, khi Pháp đã rút hết quân về nước, MAAG mới chính thức huấn luyện quân đội
QGVN và cố vấn về các vấn đề chiến thuật và chiến lược. Năm 1962, MAAG đổi tên
thành MACV (Mili- tary Assistance Command, Vietnam).
6 Bao Dai, 114-115.
7 Ibid., 328.
8 Trước khi mất, Tổng
thống Roosevelt cũng đã có ý giao cho Pháp quyền ủy trị các dân tộc Đông Dương
với một lộ trình dẫn đến độc lập. Từ tháng 5, 1945, Truman đã dứt khoát để cho
Pháp trở lại Đông Dương. Tháng Tám, Hoa Kỳ cho 12 chiếc tàu chở quân Pháp theo
quân đội Anh vào Sài-gòn.
9 The pentagon papers,
vol. 1
10 Bảo Đại, 72-73.
11 Bảo Đại, 139.
12 Ibid., 155.
13 Ibid., 157.
14 Ibid., 179.
15 Điện văn của Sprouse gửi
Ngoại trưởng, 27. 09.45. Dan bởi Duiker, 340
17 Duiker, 390.
18 Tucker, 422; Hess,
182.
19Thông tư Bộ Ngoại giao
ngày 17.12.1946. Dẫn bởi Duiker, 392.
20 Báo cáo của USS, dẫn
bởi Schulzinger., 20.
21 Năm 1946, Moffatt đề
nghị chính phủ Mỹ khuyến cáo Pháp tôn trọng hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba, nhưng
Hoa Kỳ đã không can thiệp. Năm 1947, ngoại trưởng Acheson cho Đại sứ Pháp biết
môi quan tâm của Mỹ về chiến cuộc ở Việt Nam và tỏ ý sẵn sàng giúp Pháp giải
quyết trước khi vấn đề được đem
22 The Pentagon Papers,
Gravel Edition, vol. 1,54.
23 Mười chính phủ cầm đầu
bởi: Nguyễn Văn Xuân, 1.6.1948; Bảo Đại, Quốc trưởng kiêm Thủ tướng, 1.7.1949;
Nguyễn Phan Long, 21.1.1950; Trần Văn Hữu (ba lần): 27.4.1950, 18.2.1951,
8.3.1952; Nguyễn Văn Tầm (hai lần): 2.6.1962, 8.1.1953; Bửu Lộc, 17.4.1954; Ngô
Đinh Diệm, 16.6.1954. Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm lật đổ ngày 23.10.1955 qua một
cuộc trưng cầu dân ý.
24 FRUS, 1950, VI: 911.
25 Trung Quốc tấn công
dọc theo biên giới từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu) dài hơn
1,000 cây số. Lực lượng gồm 32 sư đoàn (khoảng 600,000 quân), 550 xe tăng, 480
khẩu pháo, 1,260 súng cối… Trận chiến bắt đầu ngày 17.2. 1979 và diễn ra trong
16 ngày. Trung Quốc rút quân từ 5.3 đến 18.3 thì hết. (Lê Mậu Hãn, tập III,
307). Lực lượng biên giới của VNDCCH là 70,000 sau được hai sư đoàn từ vùng
đồng bằng lên tiếp viện, chống quân xâm lược bằng phục kích. Trung Quốc tiến
vào lãnh thổ Việt Nam khoảng 30 cây số trước khi rút lui và đốt phá hết những
nơi đi qua.
26 Michael H. Hunt, The
Genesis of Chinese Communist Foreign Policy (New York: Columbia University
Press, 1996), 213.
27 Zhai, 2.
28 Trần Trọng Kim, Việt
Nam Sử Lược. Sống Mới tái bản ở Hoa Kỳ, 1978, quyền II, 299.
29 Zhai, 17. Về vấn đề
viện trợ, theo Võ Nguyên Giáp, Stalin nói: “…Liên Xô hiện đang phải lo nhiều
cho các nước Đông Âu. Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam những thứ đang cần. Những thứ
gì Trung Quốc chưa có thì hãy lấy trong số hàng Liên Xô đã viện trợ cho Trung
Quốc chuyển cho Việt Nam và sẽ được Liên Xô hoàn trả. Stalin nói vui:Trung Quốc
sẽ không thiệt vì trao cho Việt Nam những thứ đã dùng rồi, sẽ nhận lại ở Liên
Xô những thứ mới’.” (Võ Nguyên Giáp, Đường Tới Điện Biên Phủ, Hà Nội: Nhà Xuất
bản Quân đội Nhân dân, 1999, 15).
30 Thành Tín, Mặt Thật,
67.
31 Theo Võ Nguyên Giáp,
“Cho tới hết năm 1950, ta đã tiếp nhận của Trung Quốc 1,020 tấn vũ khí đạn
dược, 180 tấn quân trang quân dụng, 2,634 tấn gạo, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân
y, 800 tấn hàng quân giới, 30 ô-tô, 120 tấn xăng dầu và phụ tùng ô-tô. (Đường
tới Điện Biên Phủ, 109).
32 Zhai, 19. Trong sách
viết bằng tiếng Anh của Zhai, tên Việt Nam không có dấu nên không biết đích xác
tên của viên tướng họ Võ này đánh dấu như thế nào. Võ Nguyên Bắc chắc không
phải là bà con của Võ Nguyên Giáp, vì không thấy phía Việt Nam nhắc đến nhân vật
này bao giờ.
33 Ibid, 25
34 Đại tá Bùi Tín kể lại
rằng trong buổi nói chuyện tại Đại hội ĐCS lần thứ II tháng 1/1951, khi nhắc
đến Stalin và Mao, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Bác bảo đảm với các cô các chú rằng
hai vị này không bao giờ phạm sai lầm.” (Bùi Tín, về Nhân vật Hồ Chí Minh, “Bài
viết nhân đọc sách của Pierre Brocheux và William J. Duiker về Hồ Chí Minh,
cũng là nhân 19/5/2003, 113 năm sinh của ông Hồ, tượng đá cao hơn 10 mét được
dựng giữa thành phố Vinh, các quan chức Phật giáo theo lệnh của đảng Cộng sản
phong ông là Bồ Tát.” Tài liệu phổ biến trên mạng internet, 30.12.2003).
35 Zhai, 33 “…nhưng khi
vào chiến dịch ta mới thấy chưa lường trước hết mọi khó khăn” và “…thấy cuộc
tiến công gặp nhiều khó khăn, Bộ chỉ huy chiến dịch hạ lệnh thu quân.” về số
thương vong trong đợt I, theo tướng Giáp, “bằng hai phần ba của địch: 218 người
hi sinh, 630 người bị thương”, đợt II không thấy nói số tổn thất của QĐNDVN,
chỉ nói “Ta loại khỏi vòng chiến khoảng 5,000 quân địch, trong có hơn 2,000 tên
bị bắt sống…”(Đường tới Điện Biên Phủ, 146, 152, 166).
36 Chiến dịch Hoàng Hoa
Thám kéo dài hai tuần (23.3-5.4.1951). Võ Nguyên Giáp cho biết số thương vong
gồm 500 bị chết và hơn 1,500 bị thương. Ông giải thích lý do thất bại “chỉ vì
địch đã đựng lên một hàng rào lửa bằng đại bác quanh cứ điểm ngăn cản những đợt
xung phong của ta.” (Ibid183).
37 Đây là chiến dịch
Quang Trung (27.5-20.6.1951) gồm ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Về tổn
thất, tướng Giáp chỉ ghi “Tỉ lệ thiệt hại giữa ta và địch là: ta: 1, địch:
1.2”. (ibid215).
38 Điện văn của Mao trả
lời Vi ngày 29.1.1951, trong Mao Văn Cảo, 2:90. Dẫn bởi Zhai, 34.
39 Chiến thuật của tướng
Salan, thu gọn lực lượng phòng thủ trong cứ điểm với một hàng rào hỏa lực dày
đặc và thật mạnh để đẩy lui mọi cuộc tấn công của địch.
40Võ Nguyên Giáp, Đường
tới Điện Biên Phủ, 423.
41 Zhai, 43.
42 Césari, 83.
43 Zhai, 43-49. Nguồn tài
liệu chính được Zhai sử dụng để viết phần này là Zhonguo junshi guwentuan
yuanYue kangFa doucheng shishi do Ban Biên tập Trung quốc Quân sự Cố vấn đoàn (Bắc
kinh, 1990) và Dangdai Zhongguo Zundui de junshi gongtuo do Han Huaizhi và Tan
Jingqiao chủ biên (Bắc Kinh, 1989). Xem “Thư mục” trong Zhai, 224 và 269.
44 Võ Nguyên Giáp có bốn
cuốn “Hồi ức”, ba cuốn về kháng chiến chống Pháp do Hữu Mai thể hiện, và một
cuốn về chiến tranh chống Mỹ, do Phạm Chí Nhân thể hiện. Xem thêm mục “Tài liệu
tham khảo” ở cuối sách này.
45 Võ Nguyên Giáp, Đường
tới Điện Biên Phủ, 36.
46 Ibid., 43.
47 Ibid., 333, 335.
48 Ibid., 405,411.
49 Zhai, 44. Zhai lầm tên
QĐQG khi viết là Quân đội Việt Nam Cộng Hoà. VNCH chỉ có từ 1955.
50 Võ Nguyên Giáp, Điện
Biên Phủ: Điểm Hẹn Lịch Sử (Hà Nội: NXB Quân Đội Nhân Dân, 2000), 23.
51 Ibid., 17-18.
52 Ibid., 24, 29, 30.
53 Ibid., 47.
54 Zhai, 45-46,
55 Võ Nguyên Giáp, Điện
Biên Phủ: Điểm hẹn Lịch sử, 44-45, 50, 66.
56 Võ Nguyên Giáp cho
biết đây là chiến thuật “oa tâm tạng” (thọc vào tim) trong chủ trương “đánh
nhanh thắng nhanh” của Trung Quốc (ibid.,109).
57 Zhai, 46-47.
58 Võ Nguyên Giáp, Điện
Biên Phủ: Điểm hẹn Lịch sử, 96, 104 ,107-113.
59George Boudarel, Cent
Fleurs Écloses dans la Nuit du Vietnam (Paris: Jacques Bertoin, 1991), 82, 112.
Điểm này còn được Boudarel xác nhận trong một tài liệu viết chung với Francois
Caviglioli, “Comment Giap a failli perdre la bataille de Dien Bien Phu” đăng
trên tờ Le Nouvel Observateur, 8 Avril 1983.
60 Zhai, 46-48.
61 Mặc dù nghi ngờ Hồ Chí
Minh không phải là cộng sản quốc tế, Stalin vẫn đồng ý viện trợ cho Việt Minh
nhưng thông qua Trung Quốc để tránh mất lòng Pháp.
---------------------------------
BON-PHUONG’S BLOG
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / MỤC LỤC (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba
Sàm) Wednesday, 30 January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / LỜI MỞ ĐẦU (GS Lê Xuân Khoa - Blog
Ba Sàm) Thursday, 31
January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 1 : QUỐC GIA & CỘNG SẢN
(GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Friday, 1 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 2 : NHỮNG YẾU TỐ BÊN NGOÀI
(GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Monday, 4 February
2013
VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC
LỊCH SỬ / CHƯƠNG 3 : CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (GS Lê Xuân Khoa - Blog BA
SÀM) Thursday, 7 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 4 : HỘI NGHỊ GENÈVE &
HAI NƯỚC VIỆT NAM (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Sunday,
10 February 2013
NGOCLINHVUGIA’S BLOG
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / MỤC LỤC (GS Lê Xuân Khoa – Blog
Ba Sàm) Tháng Một 30, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / LỜI MỞ ĐẦU (GS Lê Xuân Khoa – Blog
Ba Sàm) Tháng Một 31, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 1 : QUỐC GIA & CỘNG SẢN
(GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Tháng Hai 2, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 2 : NHỮNG YẾU TỐ BÊN NGOÀI
(GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm)
Tháng Hai 5, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 3 : CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH
RUỘNG ĐẤT (GS Lê Xuân Khoa – Blog BA SÀM) Tháng Hai 7, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 4 : HỘI NGHỊ GENÈVE &
HAI NƯỚC VIỆT NAM (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Tháng Hai 11, 2013
No comments:
Post a Comment