GS Lê Xuân Khoa
“… nếu
dân tộc ta không phải chịu sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh và nếu Việt Nam
không theo đuổi chủ nghĩa cộng sản thì xứ sở đã được hiện đại hoá từ lâu và
Việt Nam ngày nay có thể đã trở thành một trong những con rồng của Á châu. Ôn
lại kinh nghiệm về những sai lầm và những cơ hội bỏ lỡ của mỗi phe lâm chiến
trong suốt thời kỳ từ 1945 đến 1975 qua hai cuộc chiến tranh, chúng ta có thể
rút ra được nhiều bài học lịch sử cần thiết cho những thế hệ sau trong nhiệm vụ
bảo vệ và phát triển đất nước“. – Lê Xuân Khoa
*
Sự thể đã rõ ràng là sự sụp đổ của chính
thể quốc gia ở miền Nam và chiến thắng của chính thể cộng sản miền Bắc là
nguyên nhân trực tiếp của tị nạn 1975. Biến cố này đã xảy ra mau chóng hơn cả
kế hoạch tổng tấn công mà các chiến lược gia Hà Nội dự tính phát động vào năm
1976. Tuy nhiên, cũng như chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), cuộc
chiến lần thứ hai này đã đem lại nhiều kinh nghiệm khác nhau cho tất cả các phe
liên hệ.
So với chiến thắng 1954, cái giá của chiến
thắng 1975 còn tốn kém và đau thương hơn gấp bội về tài sản và nhân mạng ở cả
hai miền. Theo Hà Nội, tổng số bộ đội miền Bắc và MTGPMN bị chết là 1,100,000
trong số đó có khoảng 300,000 chưa tìm được xác. Số thường dân ở miền Bắc bị
chết vì chiến tranh lên tới khoảng hai triệu người. Số nạn nhân chết riêng
trong những cuộc dội bom ở miền Bắc, theo Hoa Kỳ, là khoảng 30,000 người, về
phía VNCH, có 110,357 quân nhân tử trận và 499,026 bị thương, số thường dân bị
chết không được biết đích xác nhưng dự đoán ít nhất là 415,000 người.1
Phí tổn cho cuộc chiến về phía Hoa Kỳ khoảng 200 tỉ đô-la, viện trợ của Bắc
Kinh cho Hà Nội từ 1950 đến 1975 vào khoảng 22 tỉ. Viện trợ của Liên Xô cho Hà
Nội trong cuộc chiến chống Pháp (qua Trung Quốc để giữ mối quan hệ với Pháp) là
một tỉ, sau Genève được tiếp tục bởi Khruschev (1956-1964), gia tăng dưới thời
Kosygin (1964-1980), trung bình một tỉ mỗi năm. Từ 1975, Liên Xô là nguồn viện
trợ duy nhất cho Việt Nam.2
Cũng phải tính thêm rằng nếu dân tộc ta
không phải chịu sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh và nếu Việt Nam không theo
đuổi chủ nghĩa cộng sản thì xứ sở đã được hiện đại hoá từ lâu và Việt Nam ngày
nay có thể đã trở thành một trong những con rồng của Á châu. Ôn lại kinh nghiệm
về những sai lầm và những cơ hội bỏ lỡ của mỗi phe lâm chiến trong suốt thời kỳ
từ 1945 đến 1975 qua hai cuộc chiến tranh, chúng ta có thể rút ra được nhiều
bài học lịch sử cần thiết cho những thế hệ sau trong nhiệm vụ bảo vệ và phát
triển đất nước. Chương Năm trên đây đã kiểm điểm vai trò của bốn phe liên hệ
trong cuộc chiến 1945-1954. Những chương sau đây sẽ lần lượt xem xét vai trò
của ba phe chủ yếu trong cuộc chiến lần thứ hai được nhen nhúm từ 1955 và gia
tăng cường độ cho đến 1975 mới châm dứt. Trước hết là Hoa Kỳ.
Khi dấn thân vào cuộc chiến chống cộng sản
ở Việt Nam trong hai mươi năm sau hội nghị Genève, Hoa Kỳ chẳng những không rút
ra được những kinh nghiệm sai lầm của Pháp, và của chính mình trong cuộc chiến
Đông Dương lần thứ nhất mà còn phạm phải nhiều sai lầm mới.
Người Mỹ vốn là một dân tộc năng động, ưa
đổi mới và thiếu kiên nhẫn. Lập quốc trên một lục địa nằm giữa hai đại dương
với tài nguyên phong phú, người Mỹ còn có khuynh hướng biệt lập (isolationism),
không thích tham gia hay can thiệp vào tình hình thế giới bên ngoài. Ngay cả
sau khi đã bị lôi cuốn vào hai trận Thế chiến, Hoa Kỳ vẫn chỉ muốn trở về với
chủ trương biệt lập khi cuộc chiến chấm dứt. Nhưng khi Chiến tranh Lạnh khởi sự
do mối đe dọa của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản quốc tế, Hoa Kỳ nhận thấy không
thể hoàn toàn giao phó nhiệm vụ duy trì hòa bình thế giới cho Liên Hiệp Quốc,
Trong cuộc tranh đua với quốc tế cộng sản, Hoa Kỳ phải từ bỏ khuynh hướng biệt
lập để giữ vai trò “lãnh đạo thế giới tự do”, tham gia vào những cuộc chiến
tranh cục bộ trên thế giới, như ở Á châu là chiến tranh Triều Tiên rồi đến
chiến tranh Việt Nam. Đây là một sứ mệnh mới của Hoa Kỳ mà John F. Kennedy, từ
trước khi làm Tổng Thống, đã xác định khi nói về vai trò bảo vệ và đẩy mạnh
công cuộc xây dựng dân chủ trong vùng Đông Nam Á. “Trách nhiệm lãnh đạo đã được
đặt lên vai chúng ta, không phải bởi một nước nào hay bởi chính chính phủ hay
công dân Hoa Kỳ, mà bởi định mệnh và thời cuộc, bởi thực tế của sức mạnh vật
chất và kinh tế của chúng ta, và bởi vai trò của chúng ta là đối lực thực sự
duy nhất để chống lại các lực lượng cộng sản trên thế giới ngày nay.”3
Vai trò lãnh đạo có tính chất nghiệp dĩ này nhiều năm sau được Joseph Nye, Khoa
trưởng Chính trị của Đại học Harvard khai triển trong cuốn sách mang tựa đề
Buộc phải Lãnh đạo.4
Với một sứ mệnh đương nhiên như thế, các
nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ thường tự hào về các giá trị tự do dân
chủ hàng đầu của mình và tin tưởng ở sức mạnh vô địch về tiền bạc và vũ khí của
Hoa Kỳ. Vì vậy, tuy không muốn trực tiếp can thiệp vào những vụ tranh chấp bên
ngoài nhưng một khi đã nhảy vào vòng chiến thì Hoa Kỳ thường tin tưởng sẽ chiến
thắng mau chóng do lực lượng quân sự hùng hậu của mình. Những yếu tố tâm lý đó
đã tạo thành cơ sở của chính sách đối ngoại chung cho cả hai đảng cộng hoà và
dân chủ, chỉ khác biệt ở mức độ áp dụng bảo thủ hay cởi mở, cứng rắn hay ôn
hoà. Nói đơn giản, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ là hợp tác và giúp đỡ những
nước tán thành các giá trị vật chất và tinh thần của Mỹ; phong tỏa hay, nếu
cần, sử dụng biện pháp quân sự đối với những nước chống lại hoặc tranh giành
ảnh hưởng với Hoa Kỳ. Điển hình cho chính sách này ở mức độ cao nhất của nó là
lời tuyên bố của Tổng thống George W. Bush, “Những ai không ở cùng phe với
chúng ta là chống lại chúng ta.” Nhà tỉ phú George Soros nhận xét, “Đây là một
tầm nhìn đế quốc theo đó Hoa Kỳ lãnh đạo và thế giới phải tuân theo.”5
Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận
những đặc tính tốt của dân tộc Hoa Kỳ, vì nếu người giàu và mạnh thường có lòng
tự hào và tự tôn thì họ cũng thường hay bênh vực và giúp đỡ kẻ nghèo và yếu
thế. Ngoài ngân sách dành cho những chương trình ngoại viện của chính phủ, nước
Mỹ còn có một nguồn tài trợ tư nhân rất quan trọng do tài sản cá nhân, quỹ đặc
biệt dành cho các hoạt động từ thiện và công ích của những gia đình giàu có hay
các xí nghiệp kinh doanh lớn, và cả một mạng lưới các tổ chức thiện nguyện
ngoài chính phủ với những hoạt động gây quỹ nhân đạo nhiều khi lên tới hàng
chục triệu đô la.6 Hơn một triệu người tị nạn Việt Nam, Lào và
Kam-pu-chia đã nhận được sự giúp đỡ rất đáng kể trong nhiều năm của nhiều gia
đình bảo trợ, nhà thờ, cơ quan thiện nguyện, và các chương trình định cư công
và tư ở Hoa Kỳ. Những năm gần đây, một số người tị nạn Việt Nam thành công vẻ
vang ở Hoa Kỳ không chỉ về nghề nghiệp mà cả về tài chánh cũng đã lập ra những
“Sáng hội” hay Quỹ tài trợ (foundations) để giúp thực hiện những dự án nhân đạo
hay có lợi ích công cộng. Khác với các chương trình ngoại viện của chính phủ,
những đóng góp thì giờ và tiền bạc của các cá nhân cũng như những ngân khoản
tài trợ của các cơ quan tư nhân đều không có những điều kiện ràng buộc về chính
trị hay đòi hỏi một sự đền đáp nào ngoài việc thi hành cho đúng mục đích xin
trợ giúp.
Trọng quan hệ với những quốc gia nhận viện
trợ, Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ thường rất nhiệt tình ủng hộ người lãnh đạo
đã được Hoa Kỳ lựa chọn hay chấp thuận, cho đến khi người đó không chịu nghe
theo những lời khuyến cáo của Hoa Kỳ. Đến lúc đó thì chính phủ Mỹ sẽ tìm đủ mọi
cách, kể cả bạo lực nếu cần, để thay thế người lãnh đạo đó. Điều này dễ hiểu
nhưng chỉ có thể biện minh trong trường hợp có sự phản bội hay bội ước thực sự,
chứ không thể chỉ vì ý kiến bất đồng về phía người nhận viện trợ. Quan hệ hợp
tác chỉ có kết quả tích cực và lâu dài nếu hai bên thông hiểu những sự khác
biệt của nhau và tìm cách thích ứng với nhau để đạt mục tiêu chung, thay vì có
sự áp đặt từ một phía. Áp dụng quan niệm và phương pháp làm việc của Hoa Kỳ một
cách máy móc vào một xứ sở và dân tộc có một nền văn hoá khác biệt và một lịch
sử tranh đấu lâu dài cho độc lập như Việt Nam tất không thể tránh khỏi nhiều
ngộ nhận và những hành động đáng tiếc. Trong sách lược chống cộng sản quốc tế
của Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam là một trường hợp trắc nghiệm về khả năng của Hoa
Kỳ giúp cho một quốc gia đối phó với ‘chiến tranh giải phóng’ của cộng sản.
Đáng tiếc là cuộc trắc nghiệm này thiếu cơ sở kiến thức về lịch sử và văn hoá
Việt Nam, về những người lãnh đạo mà Hoa Kỳ muốn ủng hộ, và thiếu chuẩn bị để
có thể hợp tác với đồng minh và đối phó với địch thủ một cách có hiệu lực. Nếu
Hoa Kỳ có những chính trị gia và chuyên gia hiểu biết muốn chọn phương cách
thích ứng thì tiếng nói của họ lại không đủ mạnh để được chấp nhận thành chính
sách. Như Thomas J. McCormick đã xác nhận: “Nếu có một sự ngạo mạn nào đó trong
thái độ của những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thì đó là sự ngạo mạn của chính nghĩa và
quyền lực.”7
Cũng nên nhắc lại rằng sở dĩ vào tháng Sáu
1954 Bảo Đại yêu cầu Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng là vì Bảo Đại tin tưởng rằng
Diệm sẽ được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, qua những nhân vật có ảnh hưởng mà ông Diệm
đã quen biết trong thời gian ở Mỹ. Bảo Đại cũng nghĩ rằng đây là cơ hội cho ông
có thể thoát khỏi sự khống chế của Pháp.8 Trong khi đó, giới lãnh
đạo Pháp ủng hộ quyết định của Bảo Đại vì tin chắc rằng chính phủ Ngô Đình Diệm
sẽ bị các lực lượng chính trị và tôn giáo vũ trang thân Pháp lật đổ, kết quả là
Pháp sẽ củng cố được sự hiện diện của mình ở miền Nam Việt Nam sau hội nghị
Genève. Trong trường hợp này, Bảo Đại sẽ bổ nhiệm một người khác làm Thủ tướng
và vẫn tiếp tục lãnh đạo QGVN dưới ảnh hưởng của Pháp. Tuy nhiên, nhờ sự trung
thành của những binh sĩ di cư từ miền Bắc, nhất là những đơn vị người Nùng và
binh chủng nhảy dù vốn không chấp nhận có những đoàn quân biệt lập với quân đội
quốc gia, Ngô Đình Diệm đã mau chóng loại trừ được các lực lượng nổi loạn vào
cuối tháng Tư 1955. Vì Bảo Đại có quan hệ với những nhóm nổi loạn này, nhất là
quan hệ tiền bạc với nhóm Bình Xuyên, Ngô Đình Diệm nhân dịp này truất phế Bảo
Đại qua một cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955. Từ ngày đó, Bảo Đại ở luôn
bên Pháp không có cơ hội nào trở về nước nữa. Quốc Gia Việt Nam (QGVN) được đổi
tên thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và ngày 26.10, Ngô Đình Diệm trở thành Tổng
thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.
Trước khi Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng,
chính phủ Hoa Kỳ biết rất ít về ông và trong mười tháng đầu tiên đã không tin
tưởng ở khả năng lãnh đạo của ông. Ngay trước khi Ngô Đình Diệm dẹp được các
nhóm nổi loạn, Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles đã đồng ý với Đại
sứ J. Lawton Collins là cần phải thay thế chính phủ Diệm. Nhờ báo cáo thuận lợi
của đại tá Edward Lansdale và quyết định tấn công Bình Xuyên của ông Diệm,
chính phủ Hoa Kỳ đã thay đổi hoàn toàn thái độ.9 Năm 1957, Tổng
thống Ngô Đình Diệm được mời sang công du Hoa Kỳ, hội kiến với Tổng thống
Eisenhower và đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc Hội. Chính giới và báo chí Mỹ
ca ngợi ông Diệm như một vĩ nhân của Á châu.
Sai lầm của Hoa Kỳ là không hiểu rõ đầu óc
độc lập của dân Việt Nam, nhất là ở một người lãnh đạo như Ngô Đình Diệm vốn có
thêm một niềm tin tuyệt đối ở sứ mạng thiêng liêng mà ông được giao phó. Với tư
cách một siêu cường, Hoa Kỳ tin tưởng có thể thuyết phục bất cứ lãnh tụ nào của
một quốc gia kém mở mang miễn là người đó thật sự chống cộng. Ngô Đình Diệm là
một người chống cộng nhưng cũng là một người có quan niệm về quốc gia xã hội
theo truyền thống Khổng giáo, tức là người lãnh đạo phải có đạo đức và nhân dân
biết tuân phục. Ông Diệm rất tự tin và tự hào về quan niệm trị nước của mình và
rất nhạy cảm về chủ quyền quốc gia, không muốn bị mang tiếng là lệ thuộc vào
Hoa Kỳ. Ông chỉ muốn Hoa Kỳ, vì lợi ích chung, giúp cho ông lãnh đạo công cuộc
chống cộng và củng cố miền Nam qua viện trợ kinh tế và quân sự với một số cố
vấn kỹ thuật. Ông chống lại việc Hoa Kỳ đưa quá nhiều cố vấn vào Việt Nam và ép
buộc ông làm những chuyện ông cho là không thích hợp. Ngô Đình Diệm có lý khi
không muốn để cho Việt Nam bị lệ thuộc vào nước ngoài, và không ai có thể nghi
ngờ lòng ái quốc và tính liêm khiết của cá nhân ông, nhưng ông đã sai lầm khi
ông trở thành độc tài, một nền độc tài gia đình trị, không phải chỉ nhắm loại
trừ cộng sản mà còn loại trừ tất cả những người quốc gia không đồng chính kiến
và không chịu phục tòng ông.
Trong những năm đầu, Hoa Kỳ đã hết lòng ủng
hộ Ngô Đình Diệm, ngay cả việc ông xây dựng hệ thống đảng cần Lao vì, như lời
tân Đại sứ G. Frederick Reinhardt thông báo cho Edward Landsdale biết quyết
định của chính phủ Hoa Kỳ: “Người Mỹ chúng ta phải tận tình giúp đỡ việc xây dựng
một đảng chính trị quốc gia mạnh sau lưng Diệm. Nay Diệm đã được bầu làm Tổng
thống, ông ta cần phải có một đảng riêng của ông.”10 Việc Hoa Kỳ
đồng ý để ông Diệm lập đảng chính trị riêng hay chấp nhận việc hạn chế tạm thời
một số tự do trong thời chiến không có nghĩa là đồng ý ủng hộ một chế độ
độc tài. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã không hiểu rõ quan niệm trị nước và cá
tính của ông Diệm để đặt những điều kiện viện trợ với ông ngay từ lúc đầu và
chuẩn bị sẵn những phương cách giải quyết thích hợp trước khi ông đủ mạnh để
trở thành độc đoán. Dù bất mãn với ông Diệm, Hoa Kỳ vẫn phải tiếp tục ủng hộ
ông vì không còn có cách nào khác, và không biết ứng xử thích hợp khi tình trạng
càng ngày càng tồi tệ đưa tới những phản ứng bạo động cùa quân đội, như cuộc
đảo chính hụt năm 1960, vụ ném bom dinh Độc lập năm 1962 và sau cùng là vụ thảm
sát năm 1963.
Quyết định “Mỹ hoá” cuộc chiến năm 1965 là
một sai lầm quan trọng khác do việc chính phủ Mỹ đánh giá sai vai trò khả năng
của quân đội VNCH. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ thường chê
tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH so với bộ đội cộng sản miền Bắc khiến cho
Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu vãn tình trạng nguy ngập ở miền Nam. Điều đó đúng
một phần nhưng không phải vì người quốc gia không yêu nước bằng người cộng sản
cho nên quân dân miền Nam không chiến đấu dũng cảm bằng quân dân miền Bắc. Trên
toàn thể lãnh thổ Việt Nam chỉ có một dân tộc, không thể bảo rằng người Việt
miền Nam không can đảm bằng người Việt miền Bắc.11 Lịch sử chống
thực dân Pháp đã cho thấy bao tấm gương anh dũng của những nhà ái quốc ở miền
Nam, từ các nho sĩ triều Nguyễn tới các trí thức Tây học, trước và sau khi có
đảng cộng sản Việt Nam. Trong những trận chiến chống quân đội cộng sản, có
những bằng chứng rất hiển nhiên về tinh thần chiến đấu kiên cường của quân đội
VNCH. Cuộc phản công mãnh liệt của quân đội VNCH đến thắng lợi trong trận Tết
Mậu Thân (1968), hay trận đại tấn công thất bại của Bắc Việt mùa Xuân năm 1972
là những thí dụ điển hình. Tinh thần chiến đấu ấy nhất định phải giảm sút trong
thời gian khủng hoảng chính trị trước cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm và
trong những cuộc tranh quyền giữa các tướng lãnh, trầm trọng nhất là những
tháng cuối cùng (1974-1975) khi Hoa Kỳ cắt viện trợ quân sự khiến quân lực VNCH
không có đủ phương tiện chiến đấu trước lực lượng hùng hậu của đối phương.
Ở đây cần nhắc đến một nhận xét của Sir
Robert Thompson, chuyên gia Anh quốc chống du kích thành công ở Mã Lai và Phi-
líp-pin, khi được báo Newsweek phỏng vấn về khả năng chiến đấu của quân đội VNCH
trong những ngày nguy ngập trước khi Sài- gòn thất thủ.
Thompson nói:
Trước cuộc tấn công này, quân lực VNCH
chiến đấu rất giỏi, đặc biệt là những sư đoàn tinh nhuệ như Nhảy dù, Sư đoàn I
và Thủy quân lục chiến. Chính tôi đã nói với tướng Weyand, Tham mưu trưởng Quân
lực Hoa Kỳ, rằng trong lúc này ông chưa có được một sư đoàn nào trong quân đội
Mỹ có thể sánh ngang khả năng chiến đấu của họ (VNCH) hiện thời, chiến đấu như
những bộ binh không có không quân và pháo binh yểm trợ. Tôi nói không có sư đoàn
Mỹ nào làm được chuyện ấy.12
Và tướng Ira Hunt, Tư lệnh phó Cơ quan Hoạt
động Yểm trợ của Hoa Kỳ ở Thái Lan từ 1973 đến 1975 cũng nhận xét:
Sau khi chúng ta rút quân về, quân đội miền
Nam hoàn toàn đổi khác về tinh thần tiến công, về khả năng chiến đấu và tình
báo. Người Việt Nam phải nhận lãnh mọi gánh nặng và thật đáng ngạc nhiên là họ
đã làm được việc đó rất giỏi…. Người Việt miền Nam đã đóng góp nhiều hơn là
nhận, đó là một điều không thể nghi ngờ được. Nhưng khi chúng ta cắt tiếp viện
hậu cần thì họ không thể có cách nào tiếp tục được nữa.13
Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam không phải là
để chiến đấu cho quân đội VNCH mà để tăng cường lực lượng chống cộng, khi cuộc
khủng hoảng lãnh đạo kéo dài ở miền Nam Việt Nam ảnh hưởng tai hại tới tinh
thần chiến đấu của binh sĩ. Sau khi tình hình chính trị đã ổn định với sự ra
đời của Đệ nhị Cộng hòa năm 1967 và một bộ máy chính quyền hợp hiến, hợp pháp,
việc tổ chức và khả năng chiến đấu của quân đội VNCH mới lại có hiệu lực. Đặc
biệt sau khi chiến dịch Tổng công kích/Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968) của
miền Bắc bị thất bại, quân dân miền Nam đều mang lòng oán hận cộng sản đã vi
phạm giao ước hưu chiến ngày Tết và tàn sát tập thể những người bị bắt giữ như
đã xảy ra ở Huế. Trong nhiều trận đánh chung với quân Mỹ, quân đội VNCH giữ vai
chủ động và giết được nhiều địch quân hơn là quân Mỹ. Như trong trận tấn công
Tết 1969, một năm sau Tết Mậu Thân, các dữ kiện do Bộ Tư lệnh Mỹ ghi nhận được
ở Quân khu III cho thấy 31 phần trăm quân miền Bắc bị giết khi lâm chiến (killed
in action – KIA) là bởi quân Mỹ, 67 phần trăm là bởi quân VNCH.14
Thật đáng buồn và không có gì đáng hãnh diện khi nói đến thành tích giết hại
lẫn nhau giữa quân đội hai miền Nam, Bắc, nhưng điều này được nhắc đến chỉ cốt
để đính chính thành kiến sai lầm của dư luận phản chiến ở Mỹ hồi đó đối với
quân đội miền Nam. Mặt khác, cũng cần phải nhìn nhận tinh thần chiến đấu dũng
cảm của quân đội cộng sản, và có thể nói là họ chiến đấu liều lĩnh hơn quân đội
quốc gia. Điều đó dễ hiểu vì miền Nam chiến đấu để tự vệ, và một quốc gia không
cộng sản không thể có một bộ máy tuyên truyền để rèn luyện quân đội thành những
chiến sĩ cuồng tín sẵn sàng hi sinh cho một sứ mệnh thiêng liêng. Đối với quân
đội miền Bắc, ngoài việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin như một chân lý tuyệt đối
và một tín điều duy nhất, họ còn có sứ mệnh thiêng liêng là “chống Mỹ cứu nước”
và “giải phóng đồng bào khỏi sự đàn áp dã man của đế quốc và tay sai”. Họ được
khuyến khích và sẵn sàng thi đua tấn công, thi đua lập công và hi sinh tính
mạng ở chiến trường.
Cũng cần nói thêm là quân đội Mỹ được huấn
luyện rất thành thạo về kỹ thuật chiến tranh và chiến đấu rất can đảm. Nhà báo
Susan Katz Keating nghiên cứu về quân Mỹ chiến đấu ở Việt Nam cho biết là hai
phần ba quân nhân Mỹ phục vụ ở Việt Nam là thành phần tình nguyện, và những
người này rất hãnh diện về hoạt động của họ. “Khi mọi chuyện đã lắng dịu vào
thập kỷ 1980, 91 phần trăm tuyên bố với nhân viên điều tra của viện Harris rằng
họ hài lòng vì đã phục vụ; 74 phần trăm cho biết họ ưa thích thời gian trong
quân đội; và hai trong ba người nói họ sẵn sàng trở lại phục vụ dù có được biết
kết quả của cuộc chiến.”15 Cũng không phải chỉ có dân nghèo và trong
tuổi quân dịch mới bị đưa ra mặt trận. Kết quả một cuộc nghiên cứu của Đại học
MIT về lý lịch các quân nhân Mỹ tử trận cho thấy là “những binh sĩ chết ở Việt
Nam hầu hết là da trắng, thuộc giai cấp trung lưu và tình nguyện, không phải
như lời đồn đại rằng họ là người da đen, nghèo và làm nghĩa vụ quân dịch.”16
Những vụ tàn sát không phân biệt quân du kích hay thường dân vô tội như vụ Mỹ
Lai năm 1968 đã được xét xử hay vụ Lực lượng Con Cọp (Tiger Force) năm 1967 mà
gần đây mới được mở ra lại để điều tra, đều chỉ là những hành động đơn lẻ của
một số sĩ quan và binh lính có thái độ tàn ác bất thường trong những cuộc hành
quân trả thù cho đồng đội. Trong những năm sau chiến tranh đã có nhiều tổ chức
và cá nhân cựu chiến binh Mỹ về thăm lại Việt Nam với những chương trình giúp
đỡ nhân đạo, đóng góp rất có ý nghĩa vào công cuộc hòa giải giữa hai nước.
Một điểm khác cần được biết là số quân Mỹ
trực tiếp tham chiến ở Việt Nam chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với số quân làm
nhiệm vụ hậu cần. Một cuộc điều tra của ký giả nổi tiếng Jack Anderson cho thấy
là cứ 4 lính Mỹ sẵn sàng chiến đấu thì có 5 người phục vụ ở hậu tuyến kể cả
những người làm bếp, làm cà-rem, thợ sửa máy, nhân viên làm việc ở những trung
tâm giải trí và kho hàng PX17 Để trả lời cho sự chỉ trích này, tướng
Westmoreland giải thích: “Nhân viên không tham chiến rất quan trọng cho tinh
thần quân đội. Trong cuộc chiến tranh này hầu hết các binh sĩ của chúng ta đều
có những bữa ăn nóng ngay cả ở trong rừng. Chuyện đó cho thấy cần phải có một
số lớn hỏa đầu quân và những nhân viên tương tự khác, nhưng những bữa ăn nóng
rất tốt cho tinh thần (binh sĩ).” 18
Lối đánh trận kiểu nhà giàu này rất tốn kém
và phí phạm. Vào thời điểm khai mạc hội nghị Paris năm 1968, số quân Mỹ bị chết
là 300 người mỗi tuần và chi phí quân sự của Mỹ ở Việt Nam lên tới 20 tỉ mỗi
năm. Tiến sĩ Nguyễn Phú Đức, nguyên cố vấn Đặc biệt của Tổng thống Thiệu, nhận
xét rằng “nếu Hoa Kỳ rút quân dần dần và có phương pháp, và giảm tổn thất nhân
mạng xuống gần con số không, song song với sự cắt giảm quan trọng các chi phí
quân sự, Nam Việt Nam sẽ có thể bảo vệ tự do của mình trong trường kỳ với viện
trợ Mỹ ở mức độ vừa phải, và chỉ riêng điều đó cũng có thể đoán chắc một sự hỗ
trợ lâu dài của nhân dân Hoa Kỳ.”19 Ông Đức cũng nhắc đến một nhược
điểm trong thời hạn phục vụ một năm của binh sĩ Hoa Kỳ. Trong thời gian ngắn
ngủi này người lính Mỹ mới vừa có đôi chút kinh nghiệm chiến trường thì đã
chuẩn bị để về nước, và điều dễ hiểu là càng gần đến ngày về với gia đình thì
họ càng muốn tránh sự nguy hiểm. Cựu Đại tá Quân đội Nhân dân Bùi Tín cũng nhấn
mạnh đến nhược điểm này của quân đội Mỹ khi ông sang Hoa Kỳ trao đổi với nhiều
giới chính trị và quân sự ở nhiều nơi vào giữa thập kỷ 1990.20
Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cũng chỉ trích các
tướng lãnh VNCH chỉ quan tâm đến việc tranh chấp quyền hành và bảo vệ quyền lợi
phe nhóm trong quân đội hơn là lo chiến đấu chống cộng sản. Điều đó đúng và sẽ
được đề cập đến dưới đây nhưng cũng cần phải nói ngay rằng đó là hậu quả của
chính sách sai lầm của Hoa Kỳ đối với Việt Nam từ thời Ngô Đình Diệm, chỉ ủng
hộ người lãnh đạo mà không quan tâm đến những điều kiện ngăn ngừa nạn chuyên
quyền cho đến khi thất vọng với người đó. Khi thấy cần phải can thiệp thì những
người Mỹ có trách nhiệm lại có thái độ đối xử không thích hợp và gây nên bất
mãn. Trường hợp Đại sứ Maxwell Taylor làm mất mặt tướng Nguyễn Khánh và nhóm
tướng lãnh trẻ do những vụ thay đổi chính quyền và âm mưu đảo chánh liên tiếp
năm 1964 là một thí dụ điển hình của thái độ đối xử bất xứng này. Stanley
Karnow gọi đó là một “tội lỗi căn bản” (cardinal sin) đã khiến nhóm Nguyễn
Khánh dọa trục xuất Taylor như một persona non grata.
Ngày 21.12.1964, Taylor yêu cầu Nguyễn
Khánh và nhóm tướng trẻ đến gặp ông ở tòa Đại sứ. Chỉ có bốn tướng đến dự là
Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Lê Nguyên Khang. Taylor
nói:
“Các ông có hiểu tiếng Anh không?” Sau khi
nhóm Việt Nam cho biết là họ hiểu, Taylor nói tiếp: “ Trong bữa ăn ở nhà tướng
Westmoreland, tôi đã nói rõ cho tất cả các ông biết rằng người Mỹ chúng tôi đã
chán ngấy những vụ đảo chánh. Dường như tôi đã phí lời. Có lẽ tiếng Pháp của
tôi không được rành vì rõ ràng là các ông đã không hiểu. Tôi đã nói rõ là tất
cả những kế hoạch quân sự mà tôi biết các ông muốn thi hành đều tùy thuộc vào
sự ổn định của chính quyền. Bây giờ thì các ông đã làm nát bét hết. Chúng tôi
không thể cưu mang các ông mãi nếu các ông cứ làm những chuyện như thế này. Ai
là người nói thay cho cả nhóm? Các ông có người phát ngôn không?21
Những vụ xúc phạm danh dự như vậy cũng hay
xảy ra giữa một số cố vấn Mỹ và sĩ quan chỉ huy Việt Nam, nhất là khi cố vấn Mỹ
lại trẻ tuổi và kém cấp bậc hơn sĩ quan chỉ huy người Việt. Chester A. Cooper,
Phụ tá đặc trách về Á châu trong Hội đồng An ninh Quốc gia thời Tổng thống
Johnson, đã nhận xét xác đáng:
Những đại úy Mỹ hai-mươi-lăm tuổi mới ra
trường từ New York hay Kansas City thường hăm hở với ý muốn cách mạng hóa cơ
cấu kinh tế và chính trị ở tỉnh mà anh ta được phái đến công tác —và muốn hoàn
tất công việc đó trong nhiệm kỳ một năm của anh. Vấn đề “cố vấn” là một nghệ
thuật, không phải là một khoa học, và nhiều người Mỹ đã thi hành nghệ thuật này
bằng những cách làm cho các “đối tác” người Việt bị xúc phạm hoặc bối rối. Một
sĩ quan Mỹ nhiều kinh nghiệm đã tóm tắt rành rẽ vấn đề này: “Thái độ ‘ngạo mạn
về uy quyền’ của người Mỹ được biểu thị trong cách cư xử của nhiều cố vấn,
tương tự như câu nói ‘Hãy đi ra chỗ khác chơi, để tôi làm lấy việc này!’ Ông
Diệm có lý do chính đáng đặt vấn đề liệu những người Mỹ thiếu kinh nghiệm và
‘phục vụ ngắn hạn’ này có thể truyền thụ sự hiểu biết quan trọng gì cho người
Việt để giúp đạt được chiến thắng. Ngoài ra, nếu người Mỹ cứ hành xử như những
kẻ canh chừng cho Đại sứ quán hay Cơ quan Chỉ huy Viện trợ Quân sự dưới danh
nghĩa cố vấn, ông Diệm cũng có thể tự hỏi liệu công cuộc viện trợ có đáng nhận
hay không.” 22
Tập “Hồ sơ Ngũ giác đài” cũng có những nhận
định tương tự:
Sự cam kết và dấn thân của Hoa Kỳ càng sâu
bao nhiêu thì những va chạm giữa các cố vấn Mỹ và đối tác Việt Nam ở mọi cấp
bậc càng tăng thêm bấy nhiêu. Ông Diệm, do ảnh hưởng của ông Nhu, đã than phiền
về số lượng và sự hăng say của các cố vấn Mỹ. Ông nói rằng những cố vấn này
đang gây ấn tượng thời thuộc địa trong dân chúng.23
Có những chuyện đối với người Mỹ là bình
thường nhưng lại rất nghiêm trọng đối với người Việt. Tướng Lâm Quang Thi kể
chuyện một cố vấn Mỹ trong khi thị sát vũ khí của một đơn vị pháo binh thấy một
khẩu súng không sạch. Ông ta bèn chùi vết bẩn ở khẩu súng đó lên tay của sĩ
quan chỉ huy sư đoàn trước mặt các binh sĩ. Vị Chỉ huy này nổi giận tát viên cố
vấn và sau đó bị mất chức.24
Điểm tai hại lớn nhất trong chương trình “Mỹ
hoá” chiến tranh là quân đội VNCH bị đẩy xuống vai trò phụ thuộc, giúp cho Hà
Nội có chính nghĩa để động viên tinh thần nhân dân và quân đội trong cuộc
“chiến tranh giải phóng chống đế quốc Mỹ”. Thật ra, việc Hoa Kỳ đưa quân chiến
đấu vào Việt Nam sẽ có lý do chính đáng nếu chỉ để đáp ứng một tình trạng khẩn
cấp có hạn kỳ, hoặc chỉ để trợ giúp về kỹ thuật trong khi tăng cường lực lượng
của quân đội VNCH với đầy đủ vũ khí để giữ vai trò chủ động ở chiến trường. Nên
biết rằng Trung Quốc cũng đưa quân vào miền Bắc, tổng số quân có mặt trong vòng
ba năm từ 1965 đến 1968 lên đến trên 320,000 người. Riêng trong năm 1967 đã có
170,000 quân Trung Quốc ở miền Bắc. Nhưng hoạt động chủ yếu của những đoàn quân
này là trợ lực về phòng không, vét và gỡ mìn, xây cất và sửa chữa cầu đường,
công xưởng, và các đơn vị hậu cần, mục đích là giúp cho miền Bắc có thể gửi
nhiều quân chiến đấu vào miền Nam. Tính đến ngày người lính Trung Quốc cuối
cùng rút về nước vào tháng Tám 1973, chỉ có 1,100 binh sĩ thiệt mạng và 4,200
bị thương.25 Vào những năm này, đảng Lao Động Việt Nam đã trở nên
rất cảnh giác trong các quan hệ với Trung Quốc, vì thế đã tìm mọi cách ngăn
chặn ảnh hưởng của Trung Quốc, thậm chí còn hạn chế cả những cuộc tiếp xúc trực
tiếp giữa đoàn quân yểm trợ với dân chúng địa phương, vấn đề chủ quyền thường
được sách vở báo chí nhắc nhở qua những bài viết về những cuộc chiến đấu chống
quân xâm lăng phương Bắc trong lịch sử Việt Nam.26
Như vậy, rõ ràng là Hoa Kỳ không học được
lỗi lầm của Pháp đã làm cho phe quốc gia mất chính nghĩa trong cuộc chiến Đông
Dương lần thứ nhất. Tổng thống Nguyễn văn Thiệu phạm nhiều lỗi lầm nhưng đôi
khi cũng có những nhận xét chí lý. Trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí New
Republic, ông đã trả lời: “Lý do chính mà Việt Cộng cố thủ mạnh mẽ được như vậy
là vì dân chúng vẫn tin rằng chẳng có gì khác giữa người Pháp mà họ gọi là thực
dân và người Mỹ mà họ gọi là đế quốc.” Ngoài ra, chương trình “Mỹ hoá” chiến
tranh còn phạm phải ít nhất hai sai lầm quan trọng khác:
-
Vì quá tin tưởng ở sức mạnh của mình và coi thường khả
năng của quân lực VNCH, Hoa Kỳ không trang bị cho họ vũ khí hiện đại. Chẳng
hạn, quân Mỹ vào Việt Nam từ tháng Ba 1965 nhưng mãi tới tháng Sáu 1968, sau
trận Tết Mậu Thân, Hoa Kỳ mới cung cấp súng M-16 cho binh sĩ VNCH trong khi bộ
đội cộng sản miền Bắc đã sử dụng loại súng tối tân AK-47 từ mấy năm trước. Hầu
hết máy bay trực thăng rất cần thiết trong các cuộc hành quân đều do phi công
Hoa Kỳ lái và chỉ chịu mệnh lệnh của cấp chỉ huy người Mỹ.
-
Quân đội Hoa Kỳ chỉ quen với chiến tranh qui ước không
thích hợp với những điều kiện chiến đấu chống du kích trong núi rừng nhiệt đới.
Nhưng Hoa Kỳ vẫn tin rằng sẽ thắng bất cứ loại chiến tranh nào bằng cách sử
dụng hỏa lực thật mạnh và thật nhiều. Lối đánh trận kiểu nhà giàu này quá phí phạm,
coi thường sinh mạng của dân chúng mà thường không đem lại kết quả mong đợi.
Trái với mục tiêu “tranh thủ nhân tâm”, lối đánh trận này chỉ làm cho dân chúng
có cảm tình với chủ trương “chống Mỹ cứu nước” của cộng sản. Đó cũng là nguyên
nhân của nhiều trường hợp bất đồng ý kiến giữa các cố vấn Mỹ và các cấp chỉ huy
người Việt.
Tóm lại, quyết định “Mỹ hoá” chiến tranh rõ
ràng là một quyết định sai lầm về cả hai mặt chính trị và quân sự.
Ngoài những sai lầm về chính sách do sự
thiếu hiểu biết các đặc tính Việt Nam và sai lầm về chiến thuật ngoài mặt trận
như đã nêu trên, Hoa Kỳ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội có thể chấm dứt cuộc chiến một
cách thuận lợi hay ít nhất cũng không bị mang tiếng thua trận và gây tai hại
cho miền Nam như hậu quả của hiệp định Paris 1973. Chương Năm đã bàn về những
cơ hội cho Hoa Kỳ, trong giai đoạn 1945-1954, có thể tránh được chiến tranh
Đông Dương lần thứ Hai. Chương này còn bàn thêm về một cơ hội Hoa Kỳ có thể
giải quyết tình hình Đông Dương bằng chính trị trước khi quyết định can thiệp
bằng quân sự sau vụ Maddox (tháng Tám 1964), sau đó sẽ đề cập đến những cơ hội
Hoa Kỳ có thể chấm dứt cuộc chiến được sớm hơn. Những cơ hội bỏ lỡ này cho thấy
một khuynh hướng quen thuộc và cũng là một nhược điểm của Hoa Kỳ: trong tư thế
của một siêu cường với vũ khí tối tân và hùng hậu, Hoa Kỳ trước hết chỉ muốn
thuyết phục đối phương bằng sự đe dọa, khi có chiến tranh thì muốn thắng lợi
bằng những “hành động trừng phạt”, nhưng nếu đánh lâu không được thì bỏ và tìm
cách “rút quân trong danh dự.” Vì có sức mạnh, Hoa Kỳ cứ quyết định theo ý muốn
của mình và coi thường địch thủ, không chịu tìm hiểu kỹ những ưu khuyết điểm
của kẻ địch (và đồng minh của mình nữa), nhất là những trở ngại địa phương về
tâm lý, địa lý và chính trị. Nhược điểm này được cựu Bộ trưởng Quốc Phòng
McNamara xác nhận là kinh nghiệm bản thân của ông và giới lãnh đạo Hoa Kỳ khi
quyết định tham chiến ở Việt Nam:
Tôi chưa bao giờ đi thăm Đông Dương mà tôi
cũng không hiểu biết gì về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và các giá trị của những
xứ này. Điều này cũng đúng ở những mức độ khác nhau trong trường hợp của Tổng
thống Kennedy, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk, Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge
Bundy, Cố vấn Quân sự Maxwell Taylor, và nhiều người khác nữa. Khi bàn đến vấn
đề Việt Nam, chúng tôi đã thiết lập chính sách cho một miền đất lạ.27
Do thái độ tự tôn ấy, Hoa Kỳ trước tiên chỉ
muốn làm theo ý mình, không chấp thuận những giải pháp dung hòa, cho nên khi
muốn dùng tới thì đã muộn và chịu thiệt.
Chúng ta đã biết rằng những năm sau hội
nghị Genève 1954 là thời gian hai miền Bắc Nam chuẩn bị chiến tranh. Sau khi
Ngô Đình Diệm dẹp yên các lực lượng thân Pháp nổi loạn, chính quyền Eisenhower
muốn giúp ông xây dựng một miền Nam dân chủ và thịnh vượng nhưng kết quả lại là
một chế độ độc tài gia đình trị. Khi MTGPMN được thành lập năm 1960 và Bắc Việt
gia tăng tiếp viện người và vũ khí vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh,
chính quyền Kennedy quyết định giúp cho VNCH đối phó bằng sách lược chống du
kích và viện trợ quân sự, nhưng những mâu thuẫn xảy ra giữa đôi bên càng ngày
càng trầm trọng. Do những biến động chính trị ở miền Nam trước và sau cái chết
của Ngô Đình Diệm, khả năng chiến đấu của quân đội VNCH bị suy giảm đến mức độ
báo động. Sau vụ Maddox năm 1964, chính quyền Johnson quyết định can thiệp trực
tiếp bằng quân sự và đến 1965 thì bắt đầu đưa quân chiến đấu vào Việt Nam. Khi
Nixon lên làm Tổng thống thì trọng tâm chính sách của Hoa Kỳ là tìm cách rút
quân ra khỏi Việt Nam.
Trước khi nói đến các cơ hội bỏ lỡ, chúng
ta hãy thảo luận về những điểm sai lầm của Hoa Kỳ đã được cựu Bộ trưởng Quốc
phòng McNamara nêu ra như những nguyên nhân đưa đến thất bại ở Việt Nam. Khi
kiểm điểm lại các chính sách của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, McNamara đã
nhận diện được mười một điểm sai lầm. Trong số này có sáu điểm hoàn toàn là
chuyện nội bộ của Hoa Kỳ, chẳng hạn vấn đề chính quyền Johnson không trình bày
thẳng thắn với Quốc hội và dân chúng Mỹ về những quyết định can thiệp vào Việt
Nam; vấn đề chủ quan tin rằng dân tộc Mỹ và các nhà lãnh đạo Mỹ biết hết mọi
chuyện, làm như mình được Trời ban cho quyền làm gương mẫu khiến các nước khác
phải noi theo; hay vấn đề không chịu giữ nguyên tắc là Hoa Kỳ không bao giờ nên
can thiệp bằng quân sự một mình mà cần phải có sự phối hợp với các lực lượng đa
quốc gia được cộng đồng quốc tế hỗ trợ. Chương này chỉ cần bàn đến năm nhận
định đầu tiên của McNamara, điểm số 1 về mối đe dọa của khối Cộng sản, bốn điểm
còn lại liên quan đến hai miền Nam, Bắc Việt Nam.28
Điểm số 1: “Hồi đó —và cho đến nay— chúng
ta đã phán đoán sai lầm những ý đồ địa lý chính trị của các đối thủ (trong
trường hợp này là Bắc Việt và Việt Cộng, được sự hỗ trợ của Trung Quốc và Liên
Xô) và chúng ta đã phóng đại những nguy cơ mà hành động của họ có thể gây ra
cho Hoa Kỳ”.
Ý đồ địa lý chính trị của khối Cộng sản mà
McNamara nói đến ở đây là mưu toan thôn tính Cam-bốt, Lào và các nước khác
trong vùng Đông Nam Á. Đây là “thuyết domino” được Tổng thống Eisenhower chính
thức phát biểu từ tháng Tư 1954 như một mối quan tâm lớn của Hoa Kỳ rằng nếu
Việt Nam bị mất vào tay Cộng sản thì những nước lân bang sẽ lần lượt mất theo.
Các chính quyền Kennedy và Johnson đều tiếp tục căn cứ vào “thuyết domino” như
một lý do chủ yếu khiến Hoa Kỳ phải can thiệp vào chiến tranh Việt Nam. Khi
thấy tình hình Đông Nam Á vẫn ổn định sau 1975 (trừ Lào trở thành Cộng sản ngay
sau Việt Nam và Cam-pu-chia bị nạn Khơ-me Đỏ mười mấy năm rồi cũng trở thành
một nước không cộng sản,) McNamara cũng như nhiều chính trị gia và tác giả khác
đều kết luận rằng “thuyết domino” hoàn toàn sai lầm. Nhận định như vậy không
khỏi vội vàng và nông cạn vì không tìm hiểu nguyên nhân đã đưa đến kết quả bất
ngờ đó.
Mối lo ngại về mưu đồ của khối Cộng sản ở
vùng Đông Nam Á trong thập kỷ 1950 là một nỗi lo ngại có căn cứ vững chãi. Mao
Trạch Đông vừa thống nhất Trung Quốc đã dùng “biển người” để chiến đấu với Mỹ
và Liên Hiệp Quốc ở Triều Tiên trong khi hết lòng hỗ trợ cho Việt Minh trong
chiến tranh Đông Dương. Nikita Khruschev lớn tiếng tuyên bố các cuộc “chiến
tranh giải phóng” nhất định thắng lợi và chính McNamara còn nhớ lời Khruschev
nhắn khối Tây phương là “Chúng tôi sẽ chôn các anh.”29 Vụ Liên Xô
phóng vệ tinh Sputnik lên không gian, vụ Liên Xô phong tỏa Tây Bá-linh và sau
đó xây “bức tường ô nhục”, vụ Fidel Castro lật đổ Batista ở Cuba và biến xứ này
thành một nước cộng sản dưới sự lãnh đạo của Mat-scơ-va, tất cả những điều đó
chứng tỏ mối đe dọa của cộng sản quốc tế là có thật và “thuyết domino” về chiến
tranh Việt Nam không phải là một mối quan tâm thiếu cơ sở.
Hiện tượng “domino” không xảy ra sau chiến
tranh Việt Nam không phải vì Cộng sản không có tham vọng chinh phục Đông Nam Á
mà vì hai nguyên do chính: mâu thuẫn trầm trọng giữa Liên Xô và Trung Quốc, và
mâu thuẫn trầm trọng giữa Trung Quốc và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nếu
không có sự tan vỡ trong quan hệ giữa ba nước cộng sản này, nhất là giữa Trung
Quốc và Việt Nam, thì “thuyết domino” đã trở thành hiện thực. Nói cách khác, vì
mâu thuẫn trầm trọng trong nội bộ cộng sản, hiện tượng domino không còn là một
mối đe dọa đối với các nước Đông Nam Á. Vấn đề đáng nói là các chiến lược gia
Hoa Kỳ đã không nhận ra được điều này từ những năm đầu thập kỷ 1960. Sai lầm
lớn của Mỹ là đã không khai thác được những mâu thuẫn trong khối Cộng sản để
giải quyết chiến tranh Việt Nam được sớm hơn và thuận lợi hơn.
Điểm số 2: “Chúng ta coi nhân dân và những
nhà lãnh đạo của miền Nam Việt Nam theo kinh nghiệm của chính chúng ta. Chúng
ta nghĩ rằng họ có một khát vọng và một quyết tâm chiến đấu cho tự do và dân
chủ. Chúng ta đã xét đoán hoàn toàn sai lầm những thế lực chính trị ở trong
nước”.
McNamara đã phê phán nhân dân và những
người làm chính trị thật tâm yêu nước của miền Nam qua kinh nghiệm sai lầm của
Hoa Kỳ về trường hợp Ngô Đình Diệm và nhóm quân nhân lãnh đạo thời đệ nhị Cộng
Hoà. Đây là một lối xét đoán “vơ đũa cả nắm” của McNamara, suy luận từ những
trường hợp cá biệt để kết luận một cách lạ lùng rằng nhân dân miền Nam Việt Nam
không có khát vọng về tự do và dân chủ.30 McNamara không nhận ra
rằng chính những nhà làm chính sách Hoa Kỳ đã sai lầm khi chỉ quan tâm đến
chuyện chống Cộng hơn là kế hoạch dựng nước, không chú trọng giúp đỡ xây dựng
một xã hội công dân (civil society), ngăn chặn độc tài và tham nhũng. Công bằng
mà nói, các chính quyền Eisenhower, Kennedy và Nixon đều có chính sách “dựng nước”
(nation-building) song song với hoạt động quân sự. Nhưng ngân khoản viện trợ
dành cho chương trình này quá ít so với viện trợ quân sự, nhất là không có
những điều kiện thi hành và biện pháp kiểm soát hữu hiệu để tránh nạn nhũng lạm
khiến cho mục đích của chương trình không đạt được. Những cố vấn thân cận của
Tổng thống Diệm như tướng Landsdale hay tiến sĩ Ladejinsky cũng chỉ biết phàn
nàn khi ông Diệm không chịu nghe theo những đề nghị cải cách chính trị hay cải
cách điền địa. Đúng như nhận xét của Nghị sĩ Mike Mansfield gửi cho Tổng thống
Kennedy: “chúng ta không thể hi vọng dùng sức mạnh vũ khí để thay thế cho những
thay đổi chính trị, kinh tế và xã hội là những phương cách chống cộng hữu hiệu
nhất.”31 Chẳng may ý kiến này đã bị phúc trình Taylor lấn át mất.
Về mặt quân sự, chính sách “lùng và diệt
địch” và việc sử dụng hỏa lực thật mạnh một cách bừa bãi, nhiều khi chỉ để
phòng ngừa sự tấn công của địch, thường gây thương vong cho nhiều thường dân vô
tội. Philip Caputo có nhắc đến một số “qui tắc chiến đấu” của quân đội Mỹ trong
chiến tranh chống quân du kích đã giết hại nhiều thường dân hơn bộ đội cộng
sản. Chẳng hạn, “bắn một người Việt Nam không mang vũ khí đang bỏ chạy là đúng,
nhưng bắn một người đang đứng yên hay đang đi là sai”. Thực tế thì chỉ có
thường dân mới không có vũ khí và bỏ chạy còn Việt cộng thì ẩn núp kín đáo ở
một chỗ. Một qui tắc chiến đấu khác là “bộ binh dùng lựu đạn lân tinh
(phosphorous grenades) để tấn công một ngôi làng là sai, nhưng phi công chiến
đấu ném bom lửa (napalm) xuống đốt phá ngôi làng đó là đúng.” Nguy hại hơn nữa
là mệnh lệnh có tính cách buông thả của tướng Greene: “Hãy giết Việt Cộng”
(Kill v.c.) Caputo mỉa mai nhận xét, “Trong không khí hăng say yêu nước của
thời Kennedy, chúng ta đã tự hỏi: ‘Ta có thể làm được gì cho đất nước?’ và đất
nước ta đã trả lời: ‘Giết Việt Cộng’ .”32
Tất cả những chính sách và biện pháp áp
dụng như vậy, về chính trị cũng như quân sự, thay vì lấy được lòng dân (win the
hearts and minds of the people) như chính phủ Mỹ mong muốn, rốt cuộc chỉ làm
mất lòng dân và đẩy họ đi theo con đường “chống Mỹ cứu nước” của cộng sản.
Điểm số 3: Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh
của chủ nghĩa quốc gia dân tộc là động lực thúc đẩy nhân dân (trong trường hợp
này là Bắc Việt và Việt Cộng) chiến đấu và chết cho những niềm tin và giá trị
của họ—và chúng ta vẫn tiếp tục lối đánh giá thấp đó cho đến tận ngày nay ở
nhiều nơi khác trên thế giới.
Nhận xét này liên hệ chặt chẽ với điểm số 2
trên đây ở chỗ nhìn nhận “Bắc Việt và Việt Cộng” là những người sống chết với
chủ nghĩa quốc gia dân tộc, do đó họ có chính nghĩa để chiến đấu tới thắng lợi
cuối cùng. Không thấy McNamara nhắc nhở gì đến chủ nghĩa cộng sản và phương
cách lãnh đạo của Bộ Chính trị đảng Lao Động Việt Nam. Ông cũng có vẻ không
biết rằng, người cộng sản chỉ nêu cao chính nghĩa quốc gia trong cuộc kháng
chiến chống Pháp giành độc lập cho dân tộc, nhưng trong cuộc chiến tranh “chống
Mỹ cứu nước”, người cộng sản không còn tự nhận là những người theo chủ nghĩa
quốc gia (nationalism) như ông McNamara đã tuyên dương, mà chỉ nói đến tham
vọng và tội ác của đế quốc Mỹ đối với dân tộc Việt Nam. Tệ hại hơn nữa là khi
nhìn nhận chỉ có người cộng sản là yêu nước, McNamara đã mặc nhiên kết tội Hoa
Kỳ là đế quốc xâm lược.
Quả thật là bộ đội cộng sản Bắc Việt và
MTGPMN đã “chiến đấu và chết cho những niềm tin và giá trị của họ”, vì Hồ Chí
Minh và những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã gây cho họ niềm tin
tưởng mãnh liệt ở chính nghĩa “giải thoát đồng bào miền Nam khỏi sự đô hộ tàn
ác của đế quốc Mỹ”. Riêng bộ đội miền Bắc còn được giao phó thêm sứ mệnh thiêng
liêng là “thống nhất đất nước” để sớm thực hiện đời sống tự do, no ấm cho toàn
thể dân tộc. Hoa Kỳ đã làm mất chính nghĩa chống cộng sản của VNCH bằng quyết
định “Mỹ hoá chiến tranh” và chỉ chú trọng vào chiến thắng quân sự khiến cho
dân chúng nông thôn sợ hãi và oán ghét. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận
những lỗi lầm to lớn của những người lãnh đạo chính trị và quân sự VNCH nhưng
để chứng tỏ nhận định thiếu sót và sai lầm của McNamara về “chính nghĩa” của
phe Cộng sản trong chiến tranh Việt Nam. McNamara cũng không biết rằng khi cán
bộ, quân đội và dân chúng vào thăm thân nhân hay vào làm việc ở miền Nam sau
chiến thắng 1975 thì họ đã sững sờ khi thấy đời sống ở miền Nam dân chủ, tự do
và thịnh vượng hơn nhiều so với miền Bắc, trái hẳn với những điều mà Đảng và
Nhà nước đã hun đúc thành một niềm tin và ý chí sắt đá ở nơi họ trong sứ mạng
“giải thoát đồng bào miền Nam đau khổ”.
Điểm số 4: Những xét đoán sai lầm của chúng
ta về bạn cũng như thù cho thấy chúng ta không hiểu biết gì về lịch sử, văn hoá
và chính trị của dân chúng ở trong vùng, và những cá tính và thói quen của
những người lãnh đạo của họ. Chúng ta có thể đã có những xét đoán sai lầm tương
tự về Liên Xô trong những vụ đối đầu thường xảy ra—chẳng hạn vấn đề Bá Linh,
Cuba, hay Trung Đông—nếu chúng ta không có những cố vấn như Tommy Thompson,
Chip Bohlen, và George Kennan. Những nhà ngoại giao lão luyện này đã bỏ ra hàng
chục năm đê nghiên cứu khối Liên Xô, dân tộc và giới lãnh đạo khối này, nguyên
do các hành động của họ và những phương cách phản ứng của họ đối với hành động
của chúng ta. Ý kiến của những nhà ngoại giao này rất có giá trị cho việc hình
thành các phán đoán và quyết định của chúng ta. Trong trường hợp Việt Nam,
chúng ta không có những nhân vật am hiểu về Đông Nam Ả như thế để cho các giới
chức cao cấp tham khảo và lấy các quyết định.
Nhận xét xác đáng này tuy có tính chất kiểm
thảo nội bộ về phía Mỹ nhưng vẫn được kể ra ở đây để chứng tỏ rằng những sự
hiểu biết thiếu sót về Việt Nam của Hoa Kỳ nêu ra ở phần đầu chương này cũng
được McNamara xác nhận là những sai lầm tai hại đối với cả “bạn cũng như thù.”
Điểm số 5: Chúng ta đã không nhận ra
được—và cho đến nay cũng vậy— những giới hạn của vũ khí tối tân với kỹ thuật
cao, của các lực lượng chiến đấu, và của lý thuyết chiến tranh khi phải đương
đầu với những phong trào nhân dân phi qui ước và có động lực chiến đấu cao.
Chúng ta cũng thất bại trong việc thích ứng chiến thuật quân sự của chúng ta
vào công cuộc chiếm lấy lòng người trong một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt.
McNamara nhận xét đúng về sai lầm của Hoa
Kỳ khi quá tin cậv vào khả năng của vũ khí tối tân, hỏa lực thật mạnh, và lý
thuyết chiến tranh qui ước để đối phó với loại chiến tranh nhân dân phi qui
ước, hăng say vì lý tưởng và dùng yếu chống mạnh bằng chiến thuật du kích. Hơn
ai hết, ông là người hiểu rõ “lòng ngạo mạn tự nhiên của kẻ rất mạnh.”33
Nhưng McNamara đã sai khi ông cho rằng Hoa Kỳ cũng thất bại khi không thể sử
dụng những chiến thuật quân sự vào mục tiêu tranh thủ nhân tâm vì có sự khác
biệt về văn hóa.
Không hiểu những chiến thuật quân sự mà
McNamara nói đến ờ đây là những chiến thuật gì, nhưng điều chắc chắn là khó có
thể lấy được cảm tình của dân chúng bằng phương tiện quân sự. Dân chúng, nhất
là ở miền quê, vốn nghi kỵ và sợ hãi quân đội ngoại quốc, chỉ có thể được
thuyết phục bằng những chương trình giúp đỡ về y tế, giáo dục, xã hội và phát
triển kinh tế, kèm theo những biện pháp hữu hiệu chống nạn hà hiếp và tham
nhũng của các viên chức địa phương. Một khi dân chúng thực sự nhận được những
sự giúp đỡ này, họ sẽ đương nhiên ủng hộ chính quyền quốc gia và đồng minh Hoa
Kỳ.
Trở lại các cơ hội bỏ lỡ, Hoa Kỳ đáng lẽ đã
có thể tìm được giải pháp chính trị thích hợp cho Việt Nam khi chính quyền Ngô
Đình Diệm càng ngày càng mất sự tín nhiệm của dân chúng sau vụ đảo chánh hụt
tháng 11,1960 và sự ra đời của MTGPMN cuối năm đó. Những năm đầu thập kỷ 1960
là thời kỳ mâu thuẫn Liên Xô- Trung Quốc trở nên gay gắt nhất, và Trung Quốc
không còn muốn cho Bắc Việt tiếp tục khai thác cả hai nước đàn anh. Trong tài
liệu ghi chép một phiên họp nội bộ, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho biết Đặng Tiểu Bình
đã nói thẳng với ông: “Đồng chí! Tôi sẽ giúp cho đồng chí hàng tỉ bạc mỗi năm.
Đồng chí không được nhận gì của Liên Xô nữa.” Lê Duẩn không đồng ý và yêu cầu
khối cộng sản phải đoàn kết. Năm 1963, Lê Duẩn cùng Trường Chinh được mời sang
Trung Quốc để góp ý về bản dự thảo 25 điểm chống chủ nghĩa xét lại của
Khruschev. Khi hai người lại yêu cầu duy trì tình đoàn kết cộng sản thì Đặng
Tiểu Bình phản đối. Sau đó, trong buổi tiếp kiến hai lãnh tụ Việt Nam, Mao
Trạch Đông nhắn nhủ: “Tôi muốn cho các đồng chí biết điều này. Tôi là chủ tịch
của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ đưa một đạo quân tiến xuống
vùng Đông Nam Á.”34
Lê Duẩn vốn rất oán hận Trang Quốc về việc
bắt ép Bắc Việt chấp nhận các điều khoản hạn chế thắng lợi của hiệp định
Genève, sau đó còn ngăn chặn các hoạt động chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm.
Lê Duẩn tố cáo Bắc Kinh cấm cản Hà Nội tiến hành chiến tranh du kích ở mịền
Nam. Khi Đảng Lao động Việt Nam không nghe lời, Đặng Tiểu Bình lại cảnh cáo Lê
Duẩn: “Bây giờ sự sai lầm của đồng chí đã lỡ xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh
ở mức tiểu đội trở xuống mà thôi!” Khi Hà Nội chứng tỏ có khả năng gây chiến ở
miền Nam, thì Trung Quốc lại nảy ra ý đồ xâm lược. Lê Duẩn nói: “Sau khi chúng
ta đã chiến đấu và Trung Quốc thấy rằng chúng ta có thể chiến đấu tốt, Mao bỗng
có một đường lối suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng vì Mỹ đánh chúng ta, ông sẽ đưa
quân đội vào giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm
hiểu tình trạng của nước ta để sau này có thể đánh chúng ta và từ đó tràn sang
các nước Đông Nam Á. Không có lý do nào khác. Chúng ta biết ró ý đồ này nhưng
phải đồng ý. Thôi thì cũng được. Họ quyết định đưa quân vào với súng đạn. Tôi
lại phải chịu điều này. Về sau, Mao lại bắt chúng ta phải nhận cho 20,000 quân
của ông vào xây con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ. Tôi không chịu. Họ tiếp tục
yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ áp lực tôi phải để cho quân họ vào nhưng
tôi không chấp thuận. Họ tiếp tục ép buộc nhưng tôi vẫn không chịu. Tôi đưa
những thí dụ này để các đồng chí thấy mưu đồ của họ muốn cướp nước ta từ lâu và
âm mưu đó ác độc đến thế nào”. 35
Mâu thuẫn trầm trọng giữa Liên Xô và Trung
Quốc vào những năm cuối thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960, thế mắc kẹt của Bắc
Việt giữa hai đại cường cộng sản, và niềm nghi kỵ sâu sắc của giới lãnh đạo Hà
Nội đối với đầu óc bá quyền của Bắc Kinh, là những yếu tố rất thuận lợi cho Hoa
Kỳ tìm một giải pháp chính trị không những cho Việt Nam mà cho cả ba nước Đông
Dương. Đó là giải pháp trung lập hóa những điều kiện mà mỗi phía đều coi như
những mẫu số chung để đạt được đồng thuận. Phe cực hữu có lý do để tin rằng
“trung lập hóa” chỉ là một bước đi chiến thuật của cộng sản, một giai đoạn
chuyển tiếp để đạt được mục tiêu tối hậu của họ. Tuy nhiên, giữa những tương
quan đầy sức ép này, giới lãnh đạo Bắc Việt có thể mong muốn Việt Nam trở thành
một nước trung lập thật sự hay đúng hơn là một nước cộng sản độc lập như Nam Tư
để có thể giao thiệp bình thường với các nước phương Tây kể cả Hoa Kỳ. Trong
khi chờ đợi ít nhất Bắc Việt cũng muốn trung lập hóa miền Nam như đã được phát
biểu trong bản tuyên ngôn của MTGPMN để một mặt tránh được chiến tranh với Hoa
Kỳ, một mặt thoát khỏi áp lực của Trung Quốc và có thì giờ củng cố miền Bắc.
Trong viễn tượng ấy, Hoa Kỳ cũng có đủ thời gian chuẩn bị kế hoạch cải thiện
các mối quan hệ kinh tế và chính trị với các nước ở Viễn Đông.
Đối với Liên Xô, mối quan tâm chính vẫn là
tình trạng ở Âu châu. Vì vậy, mặc dù quan hệ với Hoa Kỳ đang căng thẳng vì tình
trạng Bá-Linh, Khruschev vẫn có thể thỏa hiệp với Hoa Kỳ về giải pháp trung lập
hoá Đông Dương, và sẵn sàng giúp cho Việt Nam thoát khỏi tham vọng bá quyền của
Trung Quốc. Trên thực tế, Liên Xô vẫn khuyến cáo Bắc Việt không nên gây chiến ở
miền Nam và nên điều đình với Hoa Kỳ. Về phía Trung Quốc, trong khi ngăn cản
Bắc Việt tiếp xúc với Mỹ, giới lãnh đạo Bắc Kinh sẽ không từ chối nói chuyện
với Hoa Thịnh Đốn về vấn đề thiết lập quan hệ song phương và một giải pháp
chính trị cho Việt Nam. Đáp ứng thuận lợi của Mao Trạch Đông trong những cuộc
tiếp xúc thăm dò của Henry Kissinger từ 1971 đưa tới cuộc thăm viếng chính thức
của Tổng thống Nixon ở Bắc Kinh năm 1972 là một bằng chứng rõ rệt của triển vọng
hợp tác giữa hai nước.
Thực ra, giải pháp trung lập hoá miền Nam
đã được hai nhà ngoại giao kỳ cựu Averell Harriman và Chester Bowles nêu ra từ
tháng Mười Một 1961. Bowles đề nghị mở rộng giải pháp trung lập và độc lập của
Lào bao gồm Nam Việt Nam, Cam bốt, Thái Lan, Miến Điện và Mã Lai. Ông lý luận
rằng nếu cộng sản tìm cách lợi dụng một hay tất cả những chính phủ trung lập
này, Hoa Thịnh Đốn sẽ vận dụng được sự ủng hộ của quốc tế chống lại ý đồ này dễ
dàng hơn là trong những trường hợp khác. Harriman thì đề nghị giải pháp “tăng
cường và hiện đại hoá” hiệp định Genève 1954, tức là có bầu cử và thống nhất
đất nước.36 Đề nghị này không chắc đã thích hợp với hoàn cảnh của
những năm đầu 1960, nhưng nếu ngay sau hội nghị Genève, Hoa Kỳ có những điều
kiện thỏa thuận có tính cách ràng buộc với chính phủ Ngô Đình Diệm về một kế
hoạch “dựng nước” thật sự, qui tụ được mọi thành phần yêu nước và lấy được lòng
dân qua những chương trình phát triển kinh tế, giáo dục và xã hội, thì chưa
chắc Hà Nội đã muốn thực hiện cuộc bầu cử thống nhất đất nước năm 1956. Nếu kế
hoạch dựng nước này được tiến hành nghiêm chỉnh, miền Nam có thể sớm lấy lại
được chính nghĩa quốc gia không chỉ riêng ở miền Nam mà cả ở miền Bắc nữa.
Quả thật, khi chế độ cộng sản chính thức
xuất hiện trên toàn miền Bắc qua việc thi hành triệt để chính sách cải cách
ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và chỉnh huấn trí thức sau hội nghị Genève, guồng
máy cai trị của đảng Lao động bị lung lay trầm trọng vì phản ứng bất mãn kịch
liệt trong quần chúng và tình trạng khủng hoảng niềm tin trong các tầng lớp cán
bộ. Thậm chí vào cuối năm 1956, không những Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cáo lỗi
trước quốc dân, Đảng Lao động còn phải đưa anh hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên
Giáp ra nhận lỗi thay cho Đảng và chính phủ, cách chức Tổng bí thư Trường Chinh
và thi hành một loạt các biện pháp sửa sai. Cuộc khủng hoảng chính trị to lớn
đó được diễn ra trong khi nhân dân toàn miền Bắc đang phải phấn đấu chật vật
với tình trạng nghèo đói sau gần chín năm chiến tranh chống Pháp.
Những khó khăn nội bộ này cộng với thế kẹt
giữa Liên Xô và Trung Quốc và nguy cơ phải đối đầu quân sự với Hoa Kỳ đã khiến
cho đảng Lao động Việt Nam càng ngày càng nhận thấy phải nghĩ đến giải pháp
chính trị (trung lập) cho miền Nam như một sự trì hoãn chiến lược của cách mạng
toàn diện. Vì vậy, mặc dù chủ trương giải phóng miền Nam trên cả hai mặt trận
chính trị và quân sự, Đại hội Đảng thứ 15, tháng Giêng 1959, đã mong muốn có
thể thực hiện thống nhất đất nước bằng con đường hoà bình, vừa tránh được chiến
tranh với Hoa Kỳ vừa thỏa mãn được nguyện vọng của những thành phần không cộng
sản trong MTGPMN:
Để phối hợp cuộc đấu tranh của dân tộc Việt
Nam với phong trào cách mạng của nhân dân trên thế giới, Đảng ta chủ trương
thống nhất đất nước bằng con đường hoà bình… Đại hội Đảng thứ 15 tiên liệu rằng
cuộc cách mạng ở miền Nam có thể thực hiện một cách hòa bình bằng sự chuyển hoá
dần dần tình trạng chính trị thuận lợi cho cách mạng. Dù khả năng này rất nhỏ,
chúng ta không loại bỏ nó mà phải nắm chặt lấy nó.37
Cũng như phe quốc gia ở Việt Nam, Hoa Kỳ có
đủ hiểu biết và kinh nghiệm để thấy rằng “chính phủ liên hiệp” hay “trung lập”
chỉ là kế sách chính trị của Bắc Việt để có thì giờ giải quyết những khó khăn
to lớn về đối nội cũng như đối ngoại, một sự trì hoãn có thể kéo dài nhiều năm
trước khi thực hiện thống nhất hai miền dưới chế độ cộng sản. Nhưng chính sự
trì hoãn đó lại thuận lợi cho Hoa Kỳ tạo điều kiện cho một chính phủ liên hiệp,
trung lập ở miền Nam, trong một thời gian đủ lâu để có thể ngăn chặn sự bành
trướng của cộng sản ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã không khai thác những
yếu tố thuận lợi ấy, và ngày 15 tháng 11, 1961, Tổng thống Kennedy đã lựa chọn
giải pháp quân sự theo đề nghị của tướng Taylor. Đến khi hội nghị Genève về Lào
kết thúc ngày 23 tháng Bảy 1962, Kennedy mới đồng ý cho trưởng đoàn Harriman
thăm dò bộ trưởng ngoại giao VNDCCH Ung Văn Khiêm về giải pháp trung lập cho
miền Nam Việt Nam tại hội nghị Genève về Lào. Harriman đã chia sẻ quan điểm của
ông với phó trưởng đoàn William Sullivan:
Một khi thu xếp xong được chuyện Lào… ta sẽ
có thể mở rộng thỏa thuận đó sang một khu vực lớn hơn, đặc biệt là nếu ta được
Xô-viết nhìn nhận rằng việc đó sẽ kết hợp được những lợi ích của họ cũng như
của ta trong nỗ lực trung lập hóa toàn thể Đông Dương, nếu không thì khu vực
này sẽ làm mồi cho Trung Quốc.38
Nhưng trái với kỳ vọng của Harriman, Ung
Văn Khiêm chỉ dùng buổi tiếp xúc này như một cơ hội để kịch liệt chỉ trích Hoa
Kỳ. Harriman trả đũa lại bằng những lời chỉ trích Bắc Việt, sau đó báo cáo với
Kennedy là Hà Nội không có ý định thảo luận về giải pháp hòa bình.39
Các nhà ngoại giao Bắc Việt tại những phiên họp Việt-Mỹ năm 1997 giải thích là
do hệ thống thông tin nội bộ, Ung Văn Khiêm không được biết chủ trương của Bộ
Chính trị ở Hà
Nội.40 Sullivan ghi nhận cảm
tưởng về cuộc trao đổi này là “Chúng tôi đã đụng vào vách đá.”41
McNamara không thỏa mãn với lời giải thích về trường hợp Ung Văn Khiêm nhưng
chúng ta có thể ngờ rằng có sự ngăn cản của Trung Quốc đối với việc thảo luận
tay đôi giữa Mỹ và Bắc Việt về một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Nếu các
đại diện Bắc Việt trong phiên họp Việt-Mỹ 1997 không nhắc đến áp lực của Trung
Quốc thì cũng là một điều dễ hiểu.
Dù sao chăng nữa, Hoa Kỳ đã không chú trọng
đến việc áp dụng giải pháp trung lập hóa nước Lào cho miền Nam Việt Nam, và đã
tính sai nước cờ khi bỏ mặc Lào để chỉ lo chuyện bảo vệ VNCH bằng quân sự.
McNamara có nhắc đến một cơ hội thứ nhì để
cho Hoa Kỳ có thể tránh được chiến tranh ở Việt Nam là vào mùa Hè năm 1963, khi
quan hệ giữa hai chính phủ Ngô Đình Diệm và Kennedy đã căng thẳng cao độ và các
ông Diệm và Nhu bắt đầu tìm đường thảo luận với Hà Nội về một chính phủ liên
hiệp và trung lập, qua trung gian của Roger Lalouette, Đại sứ Pháp và
Mieczyslaw Manelli, đại diện Ba-Lan trong ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến.
Cơ hội này không được trình bày và thảo luận chi tiết ở đây vì nó được tạo dựng
bởi những yếu tố mơ hồ không được bên nào tỏ dấu hiệu chính thức xác nhận. Có
thể đây chỉ là phản ứng giận dữ và tuyệt vọng hay một ngón đòn chính trị của ông
Nhu trước áp lực của Hoa Kỳ trong cuộc tranh đấu của Phật giáo. Đây cũng là cơ
hội mà chính phủ de Gaulle vẫn từng trông đợi để đóng vai trọng tài giải quyết
vấn đề Việt Nam thay cho Hoa Kỳ. Đối với Bắc Việt thì đây là cơ hội rất tốt để
rút ngắn thời gian chuyển tiếp tiến đến thống nhất đất nước dưới chế độ cộng
sản. Nhưng một sự thỏa thuận về chính phủ liên hiệp và trung lập dựa trên những
giả thuyết này không có tính khả thi vì Ngô Đình Diệm rõ ràng không phải là
người có thể thỏa hiệp và chia sẻ quyền hành với cộng sản, và ngược lại. Đấy là
chưa nói đến vấn đề ai sẽ lãnh đạo chính phủ liên hiệp trung lập, nếu được
thành lập thì không phải do sự chia sẻ lý tưởng chung mà chỉ vì những điều kiện
nhất thời của tình thế.42 Ngoài ra, còn phải kể đến việc Hoa Kỳ
không thể nào chấp nhận cho Ngô Đình Diệm qua mặt mình để tự ý giải quyết vấn
đề Việt Nam, loại bỏ Hoa Kỳ ra khỏi một vùng chiến lược quan trọng trong khu
vực Đông Nam Á. Cũng phải kể đến thái độ của Trung Quốc khi đó đang thúc đẩy
Bắc Việt theo đuổi chiến tranh chống Mỹ và không khi nào muốn thấy có một nước
Việt Nam thống nhất và cường thịnh.
Khi đã quyết định dùng biện pháp quân sự,
Hoa kỳ lại bỏ lỡ những cơ hội có thể chấm dứt được chiến tranh trước khi Tổng
thống Nixon phải vội vã rút quân và Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi VNCH.
Thời gian Hoa Kỳ chính thức lâm chiến được kể từ ngày 7 tháng Tám 1964, khi
Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận Nghị quyết Vịnh Bắc Việt mặc dù trước đó vài ngày,
Tổng thống Johnson đã cho máy bay ném bom kho dầu ở Vinh để trả đũa vụ tàu
Maddox. Cuộc oanh tạc Bắc Việt chỉ thực sự bắt đầu bằng chiến dịch “Phi tiêu
Lửa” (Flaming Dart) sau khi phi trường Pleiku bị cộng sản tấn công ngày 7 tháng
Hai 1965. Tổng thông Johnson có liệt kê gần một trăm nỗ lực và “sáng kiến hòa
bình” của ông, hầu hết qua các nước trung gian, trong khoảng từ tháng Năm 1965
đến tháng Mười Một 1968, nhưng tất cả đều không đạt được kết quả.43
Trong sáu phiên họp ở Hà Nội (giữa tháng Mười Một 1995 và tháng Sáu 1997,) và
một phiên họp ở Hội trường của Rockefeller Foundation tại Bellagio, nước Ý
(tháng Hai 1998,) một số học giả và giới chức dân sự và quân sự Việt-Mỹ đã kiểm
điểm lại những sai lầm, ngộ nhận của đôi bên và những cơ hội hoà bình đã bỏ lỡ.
McNamara đúc kết các nhận định về sáu sáng kiến then chốt —bốn của Washington,
hai của Hà Nội— trong khoảng thời gian từ tháng Năm 1965 đến tháng Mười 1967,44
Ông cho rằng cả hai bên đều sai lầm vì trong mỗi cơ hội, nếu không vì thiếu
hiểu biết và nghi ngờ quá đáng lẫn nhau, hai bên đã có thể thương thuyết và
chấm dứt chiến tranh được sớm hơn. Chúng ta hãy lần lượt duyệt qua sáu cơ hội
này, được Hoa Kỳ đặt dưới sáu tên khác nhau, để rút ra được những kinh nghiệm
hữu ích về chiến tranh và thương thuyết hoà bình giữa hai đối thủ có hai nền
văn hoá khác nhau.
I. MAYFLOWER (11.5-18.5.1965) – Sáng kiến
hòa bình này được McNamara đề nghị nhằm tránh việc phải đưa quân chiến đấu vào
Việt Nam. Trước hết, Hoa Kỳ ngưng oanh tạc miền Bắc mà không cần tuyên bố, sau
đó chuyển một lá thư kín cho Hà Nội qua Đại Sứ Mỹ ở Mát-scơ-va. Nội dung chính
của lá thư do Ngoại trưởng Dean Rusk ký ngày 11 tháng Năm 1965, cho biết “Hoa
Kỳ rất chăm chú theo dõi xem trong thời gian ngưng oanh tạc này những cuộc tấn
công chống lại chính phủ và nhân dân miền Nam Việt Nam có giảm bớt đáng kể hay
không.” Trong cùng ngày, Dean Rusk gặp Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin và trao
bản sao của lá thư này. Ngày 12 tháng Năm, Tổng thống Johnson kêu gọi Hà Nội
lưu tâm tới một “giải pháp chính trị.” Đại sứ VNDCCH ở Mat-scơ- va không chịu
tiếp Đại sứ Mỹ, viện lẽ hai nước không có quan hệ ngoại giao. Khi lá thư được
gửi đến Đại sứ quán VNDCCH, thư không được mở ra và gửi trả lại. Ngày 15 tháng
Năm, khi Dean Rusk gặp Ngoại trưởng Liên Xô Andrei Gromyko ở Vienna, ông này
cho biết lá thư của Hoa Kỳ có tính chất “hỗn xược”. Ba ngày sau, Mỹ tiếp tục
các phi vụ oanh tạc.
Theo McNamara, Hoa Kỳ thất bại trong nỗ lực
này vì lời lẽ trong thư có tính chất đe dọa và không đưa ra một đề nghị cụ thể
nào. Sai lầm lớn nhất là chọn Mat-scơ-va làm địa điểm trung gian trong khi Hà
Nội đang phải đu giây giữa Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Hà Nội từ
chối tiếp nhận lá thư cho thấy rằng VNDCCH không muốn thương thuyết hoà bình,
và như vậy chỉ làm cho phe diều hâu ở Mỹ có lý do thúc đẩy tiếp tục chiến
tranh. Trong cuộc đối thoại Việt-Mỹ ở Hà Nội, Lưu Doãn Huỳnh, nhân vật then
chốt trong nhóm soạn thảo các tài liệu hòa đàm, nhìn nhận rằng MAYFLOWER là cơ
hội trì hoãn việc Mỹ quyết định đưa quân vào Việt Nam, và Hà Nội đáng lẽ đã
phải đáp ứng sáng kiến này bằng cách yêu cầu thảo luận Bốn điểm mà Hà Nội đã
công bố từ hơn một tháng trước.
Quả thật, sau khi chiến dịch “Phi tiêu Lửa”
bắt đầu, Bộ Chính trị đã họp khẩn cấp và sau hai tháng thảo luận, đã công bố
lập trường Bốn điểm ngày 7 tháng Tư 1965 như sau:
1. Xác nhận những quyền căn bản của nhân dân Việt Nam gồm
có: hoà bình, độc lập, chủ quyền, thông nhất, và toàn vẹn lãnh thổ. Mỹ phải rút
quân ra khỏi miền Nam Việt Nam; Mỹ phải chấm dứt các hành động gây chiến chống
miền Bắc Việt Nam.
2. Trong khi chờ đợi thống nhất Việt Nam, những điều khoản
về quân sự trong hiệp định Genève 1954 về Việt Nam phải được triệt để tôn
trọng. Mọi quân đội ngoại quốc phải rút ra khỏi nước. Không được có những liên
minh quân sự giữa chính phủ Hà Nội hay chính phủ Sài-gòn với những lực lượng ở
nước ngoài.
3. Những vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam phải do
chính nhân dân miền Nam giải quyết theo như chương trình của Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng, không có sự can thiệp của nước ngoài.
4. Việc thống nhất trong hoà bình ở Việt Nam phải được
giải quyết bởi nhân dân ở cả hai miền, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Đáng chú ý là trong cùng một ngày, Tổng
thống Johnson đọc diễn văn ở Đại Học Johns Hopkins, Baltimore, tuyên bố Hoa Kỳ
muốn “thảo luận vô điều kiện” trong bất cứ trường hợp nào có thể đưa đến việc
giải quyết hoà bình. Điều đáng tiếc là mỗi bên chỉ công bố quan điểm của mình
mà không tìm cách tiếp xúc với nhau để bàn chuyện thương thuyết. Hoa Kỳ thì coi
Bốn điểm như những điều kiện tiên quyết của Bắc Việt cho cuộc hòa đàm, đặc biệt
là điểm thứ ba được hiểu rằng chỉ có MTGPMN mới là đại diện của nhân dân miền
Nam Việt Nam, vì điểm đầu tiên trong chương trình của MTGPMN năm 1960 là lật đổ
chính phủ Ngô Đình Diệm. Bắc Việt thì cho rằng Mỹ không đếm xỉa gì đến bản
tuyên bố Bốn điểm như một căn bản để thảo luận vì Mỹ vẫn tin rằng sẽ thắng
chiến tranh. Lưu Văn Lợi, một thành viên khác trong cuộc đối thoại Việt- Mỹ,
nhắc nhở rằng người thương thuyết giỏi bao giờ cũng mở đầu bằng những đòi hỏi
tối đa. Điểm thứ ba, theo Lưu Doãn Huỳnh, chính là điểm uyển chuyển nhất vì chương
trình của MTGPMN là thành lập một chính phủ liên hiệp, hoà bình và trung lập.
Còn vấn đề thống nhất thì được coi như một tiến trình lâu dài có thể lâu tới cả
chục năm.45 Nói tóm lại, vào tháng Tư năm 1965, Mỹ và Bắc Việt đều
muốn điều đình nhưng đã hiểu sai ý định của nhau và không bên nào chịu mở cuộc
thăm dò trước.
Như vậy tại sao, chỉ một tháng sau, Bắc
Việt lại không chịu chấp nhận sáng kiến MAYFLOWER? Trong phiên họp tháng Sáu
1997, Lưu Doãn Huỳnh giải thích rằng sau khi nghiên cứu bài diễn văn của
Johnson ở Baltimore và những tài liệu liên hệ, giới ngoại giao Bắc Việt thấy
rằng Mỹ không muốn điều đình và bài diễn văn này chỉ là một bức màn khói che
đậy việc đổ thêm quân vào Việt Natn. Ngoài ra, Hoa Kỳ có thái độ cư xử với đối
phương như giữa người lớn và trẻ con, nếu đứa trẻ nghe lời thì thưởng, không
nghe lời thì phạt. “Johnson gọi chúng tôi là ‘Hanoi’ chứ không phải là VNDCCH,
cho thấy rằng ông vẫn không nhìn nhận sự hiện hữu của chúng tôi.” Ông Huỳnh
cũng cho biết trên bao thư gửi cho chính phủ miền Bắc Việt Nam, Hoa Kỳ chỉ ghi
“Hanoi”. Vì thái độ ấy, việc Johnson tuyên bố muốn “thương thuyết vô điều kiện”
được hiểu là Hoa Kỳ dọa sẽ tiếp tục ném bom nếu không được hài lòng.
Về việc Hoa Kỳ chọn Mat-scơ-va làm trung
gian, Lưu Doãn Huỳnh cũng cho biết là Liên Xô lúc đó đang đi hàng hai. Một mặt,
Liên Xô không chịu đóng vai trò trung gian vì không muốn để Trung Quốc kết án
là theo Mỹ và phản bội phong trào quốc tế cộng sản, nhưng mặt khác Liên Xô vẫn
nói chuyện hòa giải và hợp tác với Mỹ. McNamara dẫn chứng một tài liệu của
Trung Quốc cho biết rằng giữa lúc Hoa Kỳ ngưng oanh tạc do sáng kiến MAYFLOWER,
Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình nhắn nhủ:
Chu Ân Lai: Bọn xét lại Liên Xô muốn Bắc
Việt nói chuyện với Mỹ, gạt MTGPMN qua một bên và bán đứng anh em. Đặng Tiểu
Bình: Họ (Liên Xô) giúp cho đồng chí là có mục đích riêng…. Tóm lại, viện trợ
của Liên Xô nhằm phục vụ cho sách lược của họ. Nếu đồng chí thấy phơi bày sự
việc này ra là bất tiện thì để chúng tôi làm dùm cho.46
Dù sao chăng nữa, trong hội nghị đối thoại
Việt-Mỹ, Lưu Doãn Huỳnh nhìn nhận là Hà Nội đã hiểu lầm MAYFLOWER là tấm màn
khói của Mỹ để che giấu việc đem quân vào Việt Nam. Sau khi đọc các tài liệu
của Mỹ, ông mới thấy rằng lúc đó Mỹ chưa có quyết định thêm quân. Bởi vậy, nếu
Bắc Việt nhận thư của Mỹ và đưa ra những phản đề nghị để tiến đến thương thuyết
song phương thì phe bồ câu và ôn hoà trong chính phủ Johnson đã có ưu thế và lý
do chính đáng để xúc tiến cuộc hoà đàm và có thể đạt được một trong hai kết
quả: tốt nhất, là tránh được chiến tranh và dần dần đạt tới một miền Nam Việt
Nam trung lập; hoặc ít nhất thì cũng kéo dài được thời gian do dự trong giới
lãnh đạo Mỹ, làm chậm việc viện trợ quân sự mạnh mẽ cho miền Nam, và Bắc Việt
sẽ có thêm thì giờ chuẩn bị đối phó với những biến chuyển mới, kể cả việc Mỹ
hoá chiến tranh.
II. XYZ hay Tín hiệu Mai Văn Bộ
(19.5-7.9.1965) – Đây là sáng kiến của Hà Nội, qua Đại sứ Mai Văn Bộ, trưởng
đoàn ngoại giao và trưởng đoàn thương mại Bắc Việt ở Paris. Ngày 19 tháng Năm
1965, chỉ tám giờ sau khi Hoa Kỳ tiếp tục dội bom Bắc Việt, Mai Văn Bộ điện
thoại cho Etienne Manac’h, Giám đốc Vụ Á châu tại Bộ Ngoại giao Pháp, cho biết
ông muốn nhờ Pháp chuyển dùm thông điệp cho Mỹ làm sáng tỏ Bốn điểm của Hà Nội
vì rõ ràng là Mỹ đã hiểu sai. Thông điệp này giải thích rằng Bốn điểm không
phải là những điều kiện tiên quyết mà chỉ là những nguyên tắc để thảo luận, và
nếu Hoa Kỳ nhìn nhận những nguyên tắc làm việc này thì một hội nghị có thể được
tổ chức theo mô hình của hội nghị Genève 1954. Hoa Kỳ ngạc nhiên về việc Hà Nội
gửi thông điệp này sau khi cuộc dội bom Bắc Việt được tiếp tục và đã không trả
lời. Hơn một tháng sau, do trung gian của một doanh nhân tên Urah Arkas-Dunkov,
phía Mỹ mới xem xét đến bức thông điệp. Edmund Gullion, cựu lãnh sự Mỹ ở Việt
Nam nói giỏi tiếng Pháp, được giao trách nhiệm thăm dò với Mai Văn Bộ.
Gullion gặp Bộ bốn lần trong khoảng từ 6
tháng Tám tới 3 tháng Chín, 1965, Ba lần đầu, hai bên nói chuyện rất cởi mở và
có triển vọng tốt. Nhưng đến lần họp thứ tư thì Mai Văn Bộ cho hay là “những
cuộc oanh tạc phải chấm dứt đơn phương, ngay lập tức, toàn diện, và vô thời
hạn. Lúc đó mới có thể thương thuyết được.” Phiên họp thứ năm được ấn định vào
ngày 7 tháng Chín, bị Mai Văn Bộ bãi bỏ. Đường liên lạc bị gián đoạn thình lình
như vậy và Washington không được biết rõ lý do.
Trong cuộc đối thoại Việt-Mỹ 1997, được hỏi
tại sao Bắc Việt lại cắt đứt đường liên lạc XYZ, các đại diện Hà Nội trả lời
rằng sau bốn lần gặp gỡ Bộ-Gullion, Hoa Kỳ đã hiểu rõ Bốn điểm nhưng vẫn tiếp
tục gây chiến với ý đồ chinh phục miền Nam Việt Nam và phá hủy miền Bắc Việt
Nam, do đó không cần gặp gỡ thêm nữa. Lý do Hà Nội tìm cách liên lạc với
Washington sau khi Mỹ tiếp tục oanh tạc là muốn cho Washington hiểu rằng Hà Nội
không bao giờ điều đình dưới áp lực của bom đạn. Ngoài ra, Hà Nội muốn nói
chuyện thẳng với Mỹ, không cần phải qua Mat-scơ-va hay một trung gian nào khác.
Những giải thích này xem ra không được thuyết phục mấy đối với việc chấm dứt
thình lình những cuộc gặp gỡ được mô tả là tốt đẹp. Vả lại, sáng kiến XYZ này
của Hà Nội đâu có đi qua ngả Mat-scơ-va. Lý do đúng nhất chỉ có thể là sự ngăn
chặn của Trung Quốc, điều mà các đại diện Hà Nội tại hội nghị không muốn nói
ra, nhưng Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng thuật lại một cách rất tức giận, như đã
có dịp nói đến trên đây. Riêng về việc ngăn chặn Bắc Việt thương thuyết với Mỹ,
Lê Duẩn đã kể lại việc Đại sứ Ho Wei ở Hà Nội viết thư cho ông, nói rằng: “Đồng
chí không thể ngồi xuống điều đình với Mỹ được. Đồng chí phải đem quân Mỹ vào
Bắc Việt để đánh chúng.”47
McNamara cho rằng Hoa Kỳ đã sai lầm vì
không nhận ra được sự mâu thuẫn giữa leo thang chiến tranh ở Việt Nam và hoà
đàm ở Paris. Hoa Kỳ cũng không đủ nhạy cảm để hiểu rằng Bắc Việt là chiến
trường nên các “tín hiệu” hoà bình dễ bị tiếng bom đạn lấn át. Mặt khác, ông
trách Hà Nội đã ngộ nhận ý muốn thương thuyết của Hoa Kỳ, nhất là khi trách
nhiệm đó được giao cho Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, người chủ xướng giải
quyết chiến tranh bằng thương thuyết hoà bình. Hà Nội không nên chỉ giới hạn
những cuộc gặp gỡ Bộ -McNamara vào nhiệm vụ giải thích Bốn điểm và cần hiểu
rằng không có gì là mâu thuẫn giữa việc Mỹ đưa quân vào Việt Nam và thăm dò đàm
phán. Nhưng đối với vai trò cản trở hòa đàm của Trung Quốc thì McNamara lại cho
rằng không có gì là chắc chắn.
III. PINT A hay vụ Ngưng bom mùa Giáng Sinh
(24.12.1965- 31.1.1966) - Do sự gợi ý của Đại sứ Liên Xô Dobrynin và đề nghị
của McNamara, Tổng thống Johnson quyết định ngưng các cuộc oanh tạc trong 30
giờ kể từ 5:30 sáng 24.12.1965. Sau khi bàn thảo với McNamara, ông triển hạn
việc ngưng oanh tạc và cho công bố lập trường Mười Bốn điểm ngày 29.12.1965,
đồng thời thông báo chính thức cho 145 quốc gia biết ý định của Hoa Kỳ muốn
giải quyết cuộc chiến ở Việt Nam bằng thương thuyết hòa bình. Một đường dây
liên lạc được mở ra tại Rangoon, thủ đô Miến Điện, giữa Đại sứ Mỹ Henry Byroade
và Tổng Lãnh sự VNDCCH Vũ Hữu Bình. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, Byroade trao
bản tài liệu Mười Bốn điểm cho Vũ Hữu Bình, kêu gọi chú ý tới việc ngưng ném
bom và hi vọng Hà Nội sẽ đáp lại bằng một cuộc “tạm ngưng” tương tự trong việc
đưa quân đội và vũ khí vào miền Nam. Lãnh sự Bình chỉ trích kịch liệt Mười Bốn
điểm. Ngày 21 tháng Giêng, Vũ Hữu Bình cho Byroade biết rằng Mười Bồn điểm của
Mỹ được coi là một tối hậu thư và Hà Nội không trả lời. Chờ đến 31 tháng Giêng,
không được tin tức gì từ bất cứ nước nào, Johnson hạ lệnh tiếp tục oanh tạc Bắc
Việt. Sáu tiếng đồng hồ sau, Vũ Hữu Bình hẹn gặp Byroade và trao cho một bản
văn nhắc lại lập trường Bốn điểm của Hà Nội và cho hay rằng vì Mỹ bác bỏ điểm
thứ ba nên cả Bốn điểm cũng coi như bị bác hết. Các cuộc trao đổi được tiếp tục
cho đến 19 tháng Hai thì Vũ Hữu Bình báo tin cho Byroade là “vì Mỹ đã tiếp tục
ném bom, tôi không thấy có lỷ do tiếp tục những cuộc nói chuyện theo lời ông
yêu cầu.”
Mười Bốn điểm của Mỹ là:
1.
Hiệp định Genève năm 1954 và 1962 là những cơ sở đầy đủ
cho hòa bình;
2.
Chúng tôi hoan nghênh một hội nghị về Đông Nam Á hay một
phần của vùng này;
3.
Chúng tôi hoan nghênh “điều đình không có điều kiện tiên
quyết”;
4.
Chúng tôi chấp nhận những cuộc thảo luận vô điều kiện;
5.
Việc chấm dứt các hành động chiến tranh có thể là vấn đề
thảo luận đầu tiên tại một hội nghị như vậy;
6.
Bốn điểm của Hà Nội có thể được thảo luận cùng với bất cứ
điểm nào khác có thể do người khác đề nghị;
7.
Chúng tôi không muốn có căn cứ Hoa Kỳ ở Đông Nam Á;
8.
Chúng tôi không muốn duy trì quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam
sau khi hòa bình được đảm bảo;
9.
Chúng tôi ủng hộ bầu cử tự do ở Nam Việt Nam để cho dân
chúng Nam Việt Nam có một chính phủ do họ lựa chọn;
10.
Vấn đề thống nhất Việt Nam phải do chính người Việt Nam
quyết định;
11.
Các quốc gia Đông Nam Á có thể không liên kết hay trung
lập nếu họ muốn;
12.
Chúng tôi muốn sử dụng tài nguyên của chúng tôi vào việc
tái thiết kinh tế ở Đông Nam Á hơn là vào chiến tranh;
13.
Việt Cộng sẽ không bị khó khăn cử đại diện dự hội nghị và
phát biểu quan điểm của họ nếu Hà Nội quyết định muốn chấm dứt xâm lược;
14.
Chúng tôi đã tuyên bố công khai và riêng tư rằng chúng
tôi có thể ngưng ném bom Bắc Việt Nam như một bước tiến đến hòa bình, mặc dù
phiá bên kia chưa hề cho thấy một gợi ý nào về điều họ sẽ làm nếu cuộc oanh tạc
chấm dứt.
Nên biết thêm rằng trước đó Đại sứ lưu động
Averell Harriman có nhờ giới ngoại giao Ba Lan thăm dò tình hình. Ngày 16 tháng
Giêng, Đặc sứ Jerzy Michalowski từ Hà Nội trở về Ba Lan than phiền với Đại sứ
Anh về “mấy anh Trung Quốc trời đánh đó”, ngụ ý rằng nếu không bị Trung Quốc
can thiệp thì cuộc hoà đàm đã có thể bắt đầu. McNamara dẫn chứng một tài liệu
Trung Quốc cho thấy rằng chỉ mấy ngày trước khi Hoa Kỳ ngưng oanh tạc, Chu Ân
Lai khuyến cáo Nguyễn Duy Trinh là không nên đòi Mỹ ngưng ném bom vô điều kiện
vì nếu Mỹ chấp nhận thì “sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc chiến đấu và tình
đoàn kết của chúng ta.” Họ Chu nhắc nhở đảng cộng sản Việt Nam phải đòi điều
kiện thật khó để Mỹ không thể chấp nhận, “nếu không, các đồng chí sẽ rơi vào
bẫy của đế quốc Mỹ, của bọn xét lại hiện đại (tức Liên Xô) và chư hầu.” Ngày
hôm sau, Chu Ân Lai cũng căn dặn Trần Văn Thanh, trưởng đoàn đại diện MTGPMN ở
Bắc Kinh, về những lỗi lầm tai hại nếu hoà đàm với Mỹ. Dù có những bằng chứng
như vậy, McNamara vẫn không chắc là Trung Quốc phá đám mà chỉ quả quyết rằng
“Washington đã hoàn toàn hiểu sai những quan hệ phức tạp và khó khăn của Hà Nội
đối với Trung Quốc.”
Trong cuộc đối thoại Việt-Mỹ, để trả lời
quan điểm của Hoa Kỳ là “chúng tôi đã để hết mọi thứ vào trong giỏ hoà bình
Mười Bốn điểm, trừ việc chịu để mất miền Nam Việt Nam”, nhà ngoại giao Nguyễn
Khắc Huỳnh giải thích rằng Mười Bốn điểm của Mỹ không thể chấp nhận được, nhất
là điểm thứ mười ba nói đến việc Việt Cộng có thể tham dự hòa đàm nếu Hà Nội
“chấm dứt xâm lược”. Ông Huỳnh cho biết “đây là một lời nhục mạ” và Hà Nội tin
rằng mọi sáng kiến hòa bình của Mỹ chỉ là những màn hỏa mù che dấu việc leo
thang chiến tranh.
Trong những nỗ lực giải quyết chiến tranh,
trừ trường hợp nắm chắc phần thắng trong tay, không khi nào một bên chỉ vì tự
ái mà bác bỏ mọi đề nghị thương thuyết của đối phương. Cho đến khi đạt được
thỏa thuận, hai bên vẫn có thể gán cho nhau những tội lỗi có thực hay không.
Trong mười bốn điểm, Hoa Kỳ đã nói rất rõ là có thể thảo luận Bốn điểm của Hà
Nội (điểm 6), ủng hộ bầu cử tự do ở miền Nam (điều 9), nhìn nhận vấn đề thống
nhất đất nước là do nhân dân Việt Nam tự quỹết định (điểm 10), và miền Nam có
thể chọn chế độ trung lập (điểm 11). Tất cả những điểm này đều là những đòi hỏi
của Bắc Việt và MTGPMN. Những điểm khác đều là những lời phát biểu của Mỹ có
tính cách cam kết không can thiệp vào nội bộ Việt Nam hay Đông Nam Á, trừ điểm
mười ba có tính cách “xúc phạm” nhưng vẫn chỉ là một căn bản thảo luận và có
thể thay đổi. Sự thật là các nhà làm chính sách ở Hà Nội đã bị khó khăn và lúng
túng giữa quyết định mong muốn hoà đàm và bác bỏ hoà đàm. Giải thích hợp lý
nhất cho sự lúng túng ấy vẫn chỉ có thể là áp lực nặng nề của ông bạn láng
giềng phương Bắc. Về điểm này thì lại phải trách Hoa Kỳ đã không nhận ra được
tình trạng mắc kẹt của Hà Nội để có thể vận động sự hỗ trợ của quốc tế trong
những nỗ lực ngoại giao thích hợp đối với Liên Xô, Trung Quốc nhằm đảm bảo cho
một giải pháp hoà bình ở Việt Nam.
IV. TÍN HIỆU NGUYỀN DUY TRINH (28.1.1967)-
Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Úc Wilfred Burchett ngày 28 tháng Giêng
1967, Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh cho biết: “VNDCCH chỉ có thể nói chuyện với
Mỹ sau khi Mỹ ngưng vô điều kiện cuộc ném bom và những hành động gây chiến
khác.” Hoa Kỳ không hiểu tại sao Hà Nội cứ nhất định đòi ngưng ném bom vô điều
kiện mà không chịu đoan chắc là sẽ có thương thuyết. Việc Hà Nội không chịu xác
nhận là “sẽ nói chuyện” (there will be talks) mà chỉ cho biết “sẽ có thể nói
chuyện” (there could be talks) trong khi gia tăng chuyển quân và vũ khí vào
miền Nam khiến cho phe chủ chiến trong Bộ Ngoại giao Mỹ có lý do ngăn chặn nỗ
lực của những người chủ trương hoà đàm. Ngày 31 tháng Giêng, Washington trả lời
Hà Nội, yêu cầu hội đàm mật về những điều kiện thương thuyết trước khi “tìm ra
một công thức chấm dứt cuộc oanh tạc”.
Cũng nên nhắc đến ở đây một trở ngại nội bộ
do việc Thượng Nghị sĩ Robert Kennedy, trong cuộc thăm viếng Pháp để thảo luận
với Tổng thống de Gaulle đầu tháng Hai 1967, đã nhận được một thông điệp do Mai
Văn Bộ chuyển qua Bộ Ngoại giao Pháp, cho hay lời phát biểu của Nguyễn Duy
Trinh là quan điểm chính thức của Hà Nội. Ngày 2 tháng Ba Kennedy đọc diễn văn
ở Thượng Viện, chỉ trích việc ném bom Bắc Việt và đưa ra kế hoạch điều đình với
Hà Nội trong đó có điều khoản ngưng ném bom vô điều kiện. Tổng thống Johnson
thẳng tay bác bỏ đề nghị này vì nghi ngờ rằng chủ đích của Robert Kennedy là
muốn được đảng Dân chủ đưa ra tranh cử Tổng thống.
Vào cuối buổi thảo luận về “tín hiệu Nguyễn
Duy Trinh” giữa các đại diện Việt-Mỹ năm 1997, Nguyễn Khắc Huỳnh cho biết Hà
Nội không biết một chút gì về những người chủ trương hoà đàm trong chính quyền
Mỹ. Chính ông đến bây giờ cũng mới hiểu rằng việc Hà Nội gia tăng quân viện vào
miền Nam trong những lần Mỹ ngưng ném bom là có hại cho những nỗ lực hoà bình
trong nội bộ Hoa Kỳ.
V. SUNFLOWER (tháng Hai 1967) - Đây là một
nỗ lực hoà bình liên quan đến tín hiệu Nguyễn Duy Trinh”, nhân chuyến đi London
của Thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin ngày 6 tháng Hai, 1967. Vấn đề Việt Nam
nằm trong nghị trình thảo luận giữa Kosygin với Thủ tướng Anh Wilson. Trọng tâm
của vấn đề là tìm một công thức có thể được cả Washington và Hà Nội chấp thuận
để tiến đến thương thuyết. Hai ông đều chia sẻ mối lo ngại về Trung Quốc và
Kosygin thúc dục Wilson nên ủng hộ “sáng kiến” của Nguyễn Duy Trinh. Wilson đề
nghị triệu tập hội nghị Genève khởi sự bằng công thức “giai đoạn A – giai đoạn
B” do nhà ngoại giao Mỹ Chester Cooper đề nghị thi hành không cần tuyên bố: Mỹ
ngưng ném bom, sau đó một vài tuần Hà Nội đáp ứng bằng việc ngưng xâm nhập miền
Nam, Wilson và Kosygin cùng thảo bản kế hoạch và gửi cho Johnson.
Johnson viết cho Wilson ngày 7 tháng Hai về
ý muốn thi hành công thức dung hoà hai chiều của Cooper nhưng không nói rõ bên
nào phải đi bước trước. Trên thực tế, Mỹ đã quyết định ngưng ném bom trong thời
gian Kosygin ở London. Trong khi đó, khi được tin tình báo Mỹ cho hay là, sau
khi ngưng ném bom, “việc chuyển vận từ Bắc vào Nam… giống như một ngày Chúa
Nhật trên xa lộ New Jersey Turnpike” (nghĩa là rất nhộn nhịp) Johnson viết thư
cho Hồ Chí Minh đòi hỏi việc xuống thang đồng thời. Ngày 10 tháng Hai, khi đọc
thư này, Wilson và Kosygin rất tức giận về việc Johnson đã “đổi thì của động
từ”. Bản kế hoạch Wilson-Kosygin viết: “Hoa Kỳ sẽ ngưng oanh tạc miền Bắc ngay
sau khi được đoan chắc là việc xâm nhập từ Bắc vào Nam sẽ ngưng.” Trong lá thư
của Johnson gửi Hồ Chí Minh, “sẽ ngưng” được sửa lại thành “đã ngưng.” Ngày 15
tháng Hai, Hồ Chí Minh trả lời với lời lẽ gay gắt và nhấn mạnh vào việc áp dụng
công thức Nguyễn Duy Trinh.
Như vậy, lần này Hoa kỳ đã sai lầm để lỡ cơ
hội hòa bình, vì Kosygin đáng lẽ đã có thể thuyết phục được Hà Nội ngồi vào bàn
thương thuyết. Viktor Sukhodrev, phụ tá thân cận và thông dịch viên của
Kosygin, xác nhận thời điểm khi đó rất tốt cho Kosygin làm trung gian, ngoại
trừ chuyện “đổi thì của động từ.” Đáng chú ý là vào đầu năm 1967 Hà Nội đã có
nhiều lý do để rời khỏi quĩ đạo Trung Quốc và tiến đến gần hơn với Liên Xô,
được Liên Xô gia tăng viện trợ vật liệu và vũ khí,48 nhất là hoả
tiễn địa-không để chống máy bay Mỹ ở miền Bắc và cơ giới nặng để chuyển vào
miền Nam. Tháng Ba 1966, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh được mời sang Bắc Kinh để
nghe Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình trách cứ về việc tiếp xúc với Mỹ và cảnh giác
về việc xoay chiều thân với Liên Xô. Họ Chu nói:
Từ năm ngoái đã có thay đổi khi Bắc Việt
bắt đầu nói chuyện với Mỹ. Chúng tôi muốn nói thẳng với đồng chí là những thay
đổi đó bắt đầu với đám lãnh đạo mới của Liên Xô, nhất là sau chuyến Kosygin đi
tham quan Việt Nam từ 6 đến 10 tháng Hai 1965. Sau khi Kosygin ở Hà Nội về,
Liên Xô đã sử dụng đồ viện trợ cho Việt Nam để lấy lòng tin của các đồng chí
một cách gian trá. Mục đích của chúng là che lấp-quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc, chia rẽ Việt Nam và Trung Quốc, nhằm chi phối Việt Nam nhiều hơn trong
việc cải thiện quan hệ với Mỹ của chúng và cản trở cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân Việt Nam.49
Ngày 13 tháng Tư, khi Đặng Tiểu Bình đặt
vấn đề “Phải chăng các đồng chí nghi ngờ lòng sốt sắng của chúng tôi? Có phải
Trung Quốc muốn chiếm Việt Nam hay không?” Lê Duẩn chỉ trả lời về chuyện thân
Liên Xô:
Chúng tôi cho rằng việc Liên Xô giúp đỡ
Việt Nam là có phần thành thật, vì thế chúng tôi không hỏi xem Liên Xô có bán
đứng Việt Nam hay không và chúng tôi cũng không nói rằng Liên Xô vu khống Trung
Quốc về việc hàng viện trợ của Liên Xô được chuyển qua lãnh thổ Trung Quốc50…
Đồng chí nói rằng Liên Xô bán đứng Việt Nam nhưng chúng tôi không nói thế. Mọi
vấn đề khác đều xuất phát từ việc phê phán này.51
Lưu Văn Lợi, trong cuộc đối thoại 1997,
nhận định rằng sáng kiến SUNFLOWER có thể đã thành công vì Đại hội Trung
ương Đảng lần thứ 13, tháng Giêng 1967, đã quyết định mở mặt trận ngoại giao
phối hợp với hai mặt trận chính trị và quân sự. Do đó mà có “tín hiệu
Nguyễn Duy Trinh.” Khi Kosygin và Wilson gặp nhau ở London, Tổng thống Johnson
cho biết ông hoan nghênh lời tuyên bố của Ngoại trưởng Trinh. Nhưng khi viết
thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thì ông lại đảo ngược thứ tự của đề nghị thành
điểm B trước, điểm A sau. Tệ hơn nữa, ông lại cho Hà Nội thời hạn chót phải trả
lời là 10 giờ sáng ở London, tức là chín tiếng đồng hồ sau khi Wilson và
Kosygin được đọc thư. Đó là những lý do thất bại của SUNFLOWER.
Giải thích của ông Lợi có lý nhưng cũng cần
hiểu rằng việc Johnson “thay đổi thì của động từ” chỉ là một phản ứng tự nhiên
của ông sau khi được tin đường quân viện từ Bắc vào Nam “nhộn nhịp như xa lộ
New Jersey ngày Chúa nhật.” Theo Johnson, đó là một sự lợi dụng trắng trợn của
Bắc Việt ngay sau khi Mỹ ngưng bom.
Tháng Ba 1967, Hà Nội bắt đầu chuẩn bị
“Tổng tấn công, Tổng nổi dậy” nhân dịp Tết Mậu Thân, đầu năm 1968.
VI. PENNSYLVANIA (tháng Bảy-tháng Mười
1967) – Sáng kiến này bắt đầu từ một nhóm khoa học gia —nhóm Pugwash— quan tâm
về hiểm hoạ của chiến tranh nguyên tử và vận động cho các sáng kiến về hoà bình
ở mọi nơi. Nhóm này muốn nhờ Raymond Aubrac, một người Pháp có cô con gái mà Hồ
Chí Minh là cha đỡ đầu, làm trung gian giữa Washington và Hà Nội. Một thành
viên của nhóm Puawash là Henry Kissinger, khi đó đang giảng dạy ở Đại học
Harvard đồng thời là tư vấn cho Bạch Ốc và Bộ Ngoại giao. Giữa tháng Sáu 1967,
Kissinger chuyển sáng kiến của nhóm tới Dean Rusk và McNamara. Sáng kiến này
được McNamara đặc biệt chú ý và thuyết phục được Rusk và Johnson chấp thuận.
Cuối tháng Sáu, Aubrac nhận lời mời của nhóm Pugwash về họp ở Paris để bàn về
kế hoạch đi Hà Nội. Aubrac cùng Herbert Marcovitch, môt nhà vi sinh học, lên
đường vào giữa tháng Bảy qua ngả Nam Vang. Tới Hà Nội, cả hai người được Hồ Chí
Minh tiếp ngay mặc dù đang lâm bệnh. Sau đó họ gặp Phạm Văn Đồng hai lần và
thảo luận kỹ lưỡng về triển vọng hoà đàm. Ngày 28 tháng Bảy, Aubrac và
Marcovitch, trở về Paris và cho Kissinger biết kết quả. Theo báo cáo của
Kissinger cho Bộ Ngoại giao, Phạm Văn Đồng tiếp tục đòi Mỹ “ngưng ném bom vô
điều kiện” nhưng không cần phải tuyên bố chính thức. Phạm Văn Đồng cũng cho hay
là chương trình đàm phán trước tiên là những vấn đề liên quan đến Mỹ và Bắc
Việt, khi nào bàn tới những vấn đề của miền Nam thì MTGPMN sẽ cần có mặt. Vì
Marcovitch tới Hà Nội dưới danh nghĩa một khoa học gia đi thăm Viện Pasteur, Bộ
trưởng Y tế Hà Nội cũng gặp Aubrac và Marcovitch trong một bữa ăn trưa, Nhân
dịp này, ông nói với hai người là đề nghị hòa đàm “cần được thảo luận chính
thức hơn là không chính thức.”
McNamara soạn một thông điệp gửi cho Phạm
Văn Đồng, được Johnson chấp thuận ngày 11 tháng Tám. Kissinger chuyển bản văn
cho Aubrac và Markovitch để mang về Việt Nam trong chuyến đi dự định ngày 24
tháng Tám. Thông điệp viết:
Hoa Kỳ sẵn sàng ngưng các cuộc oanh tạc
miền Bắc Việt Nam nếu hiểu rằng điều này sẽ mau chóng đưa tới những cuộc thảo
luận có kết quả giữa các đại diện của Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhằm
giải quyết vấn đề giữa hai nước. Trong khi các cuộc thảo luận tiến hành công
khai hay bí mật, Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sẽ không lợi dụng
việc ngưng oanh tạc.52
Không may, ngày 20 tháng Tám, máy bay Hoa
Kỳ dội bom Hà Nội nặng nề do một thời biểu sắp sẵn từ trước của giới chỉ huy
quân sự không liên quan tới bản thông điệp. Hà Nội yêu cầu Aubrac và Markovitch
hoãn chuyến đi vì lý do an ninh. Bản thông điệp được trao cho Mai Văn Bộ ở
Paris ngày 25 tháng Tám. Ngày 11 tháng Chín, Hà Nội cho biết “chỉ có thể thảo
luận sau khi Mỹ ngưng ném bom và mọi hành động gây chiến với VNDCCH một cách vô
điều kiện.” Sau mấy lần tiếp xúc thăm dò thêm, Hà Nội cắt đứt liên lạc vào ngày
20 tháng Mười.
Mặc dù đổ lỗi cho Hoa Kỳ làm hỏng sáng kiến
PENNSYLVA-NIA, các đại diện Hà Nội trong cuộc đối thoại 1997 xác nhận thông
điệp 25 tháng Tám đã được các nhà lãnh đạo Bắc Việt đồng ý dùng làm căn bản
thương thuyết song phương. Tuy nhiên, vì tình hình VNDCCH lúc đó “rất phức tạp”
nên các nỗ lực hòa đàm phải được hoãn lại. Tình hình phức tạp này gồm ba yếu tố
chính: thứ nhất, Hà Nội đang ráo riết chuẩn bị tổng tấn công Tết Mậu Thân; thứ
nhì, tướng Nguyễn Chí Thanh, người chủ chốt trong việc hoạch định cuộc Tổng tấn
công, bị chết bất ngờ ngày 8 tháng Bảy53; và thứ ba, Hà Nội tin rằng
hoãn hòa đàm tới sau cuộc Tổng tấn công thì có lợi cho Bắc Việt và MTGPMN hơn.
Quả thật, ngày 3 tháng Tư 1968, hơn một tháng sau khi trận Tết Mậu Thân chấm
dứt, Hà Nội đồng ý mở cuộc hòa đàm với Mỹ tại Paris. Thông điệp 25 tháng Tám
1967 được Tổng thống Johnson khai triển trong bài diễn văn ở San Antonio,
Texas, ngày 29 tháng Chín, trở thành “công thức San Antonio,” và được dùng làm
căn bản khởi đầu cuộc thương thuyết tại Hội nghị Paris.
Điều đáng tiếc là vì phong trào phản chiến
lên cao và vì những mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính
sách đối với Việt Nam, Hoa Kỳ không những đã không khai thác được sự thất bại
quân sự và chính trị của Bắc Việt và MTGPMN sau trận Tết Mậu Thân mà còn giúp
cho đối phương tạo được ưu thế trên bàn hội nghị. Từ nay, Hoa Kỳ chỉ còn nghĩ
đến việc rút chân ra khỏi “bãi lầy Việt Nam” sớm chừng nào hay chừng ấy, bất kể
đến tương lai của miền Nam Việt Nam và số phận của hàng triệu quân nhân, công
chức và gia đình của họ trước viễn tượng bị ngược đãi và hãm hại dưới chế độ
cộng sản. Hiệp định Paris 1973 đáng lẽ phải có điều khoản duy trì một lực lượng
tối thiểu của Hoa Kỳ để bảo đảm việc thi hành thỏa ước, như trường hợp Triều
Tiên. Chương trình “Việt Nam hoá” chiến tranh đáng lẽ đã phải được Hoa Kỳ thực
hiện đúng mức, không phải chỉ về mặt quân sự mà cả về dân sự, từ khi có kế
hoạch rút quân năm 1968 và cần phải được tiếp tục thêm một thời gian sau khi đã
rút hết quân về nước. Phí tổn cho chương trình quan trọng này sẽ chỉ bằng vài
phần trăm số tiền 200 tỉ mà Hoa Kỳ đã chi tiêu trong thời gian lâm chiến. Mặc
dù điều này không bảo đảm được rằng chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có thể chiến
thắng được cộng sản, nhưng chắc chắn có thể tránh khỏi tình trạng sụp đổ của
Việt Nam Cộng Hoà một cách mau chóng và thê thảm như trong những tháng đầu năm
1975 mà ngay cả giới lãnh đạo Bắc Việt cũng không ngờ.
Chỉ vì lòng chán ghét một cuộc chiến tranh
do chính mình chủ động, chán ghét những người lãnh đạo Việt Nam thiếu khả năng
do chính mình chọn lựa, và đánh giá sai lầm tinh thần yêu nước của những người
Việt Nam quốc gia, Hoa Kỳ đã từ bỏ trách nhiệm cam kết với nhân dân miền Nam
Việt Nam cũng như với nhân dân Cam-pu-chia và Lào. Sau ba mươi năm liên lụy với
hai cuộc chiến tranh ở một miền đất xa xôi và bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội hòa bình,
Hoa Kỳ không những bị mang tiếng bại trận mà còn phải mất thêm hai mươi năm nữa
để tìm cách giải quyết một cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước
Đông Dương.
______
Ghi chú:
[1] Tucker, op. cit., 64.
Con số thương vong của VNCH do Tucker ghi nhận không thể chính xác, nhất là các
con số sau khi Mỹ đã rút hết quân và trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc
chiến rất khó kiểm kê. Cũng nên biết thêm là phía Hoa Kỳ có 58,193 quân nhân bị
chết, 153,303 bị thương, 1,621 mất tích ở Việt Nam (kết quả tìm kiếm đến nay
chỉ còn có chưa thể kết luận. Trên 500 được Bộ Quốc Phòng Mỹ coi như mất tích
luôn, ở trong rừng hay ngoài biển.) Tổng số thương vong của quân đồng minh (Đại
Hàn, úc, Thái Lan và Tân Tây Lan) là 7,662 người, số quân Trung Quốc luân phiên
có mặt ở Việt Nam giữa 1965 và 1971 là 320,000 nhưng chỉ chết có 1,000.
2 Trong thời gian từ
1975 đến 1986, Liên Xô viện trợ cho VNDCCH khoảng 26 tỉ đô-la.
3 Diễn văn của J.F.
Kennedy (khi còn là Nghị sĩ) tại The Executives Club, 28.5.1954. JFK Library,
Pre-Presidential Papers, Senate Files, Legislation, Box 647.
4 Joseph S. Nye Jr.,
Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (New York: Basic Books,
1990).
5 Diễn văn tại Đại học
Camegie Mellon , Pittsburgh, Pennsylvania, ngày 27 tháng Hai 2003.
6 Thí dụ năm 1979-1980,
Indochina Refugee Action Center (tiền thân của Southeast Asia Resource Action
Center) phối hợp một chương trình gây quỹ đặc biệt do phu nhân Tổng Thống
Carter làm Chủ tịch Danh dự, đã gây được một ngân khoản lên tới 90 triệu đồng
để giúp nạn nhân vụ tàn sát tập thể của Khmer Đỏ ở Kam-pu-chia.
7 Thomas J. McCormick,
America ’s Half Century: United States Foreign Policy in the Cold War and
After. (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1995), 48.
8 Khi Ngô Đình Diệm nhận
lời làm Thủ tướng, Bảo Đại đưa ông sang căn phòng bên cạnh có cây thánh giá và
yêu cầu ông Diệm thề trước mặt Chúa là sẽ bảo vệ đất nước chống cộng sản và
chống cả Pháp, nếu cần. Ông Diệm đã thề như vậy. (Bao Dai, 328).
9 Hồi 6:00 chiều ngày
27.4.1955, Bộ Ngoại Giao Mỹ điện cho Đại sứ quán ở Sài-gòn và Paris chỉ thị
ngưng ủng hộ ông Diệm để giúp cho các ông Phan Huy Quát và Trần Văn Đỗ lập
chính phủ. Sáu tiếng đồng hồ sau, chỉ thị này được rút lại vì có tin ông Diệm
đã hạ lệnh tấn công các lực lượng nổi loạn và đang thắng thế. (Schulzinger,
85.) Xem thêm chương 10.
10 Edward G. Lansdale, In
the Midst of Wars (New York: Harper & Row, 1972), 342.
11 Xem lại chương 1 và
chương 5, so sánh ưu, khuyết điểm giữa quốc gia và
cộng sản.
12 Newsweek, April 7, 1975,
32.
13 Sorley, 366.
14 ibid., 105.
15 Susan Katz Keating,
“The Draft,” The Washington Times, 30 September 1992.
16 Harry Summers, Jr.,
“Lingering Fiction about Vietnam,” The Washington Times, 5 February, 1993.
17 Jack Anderson, “The
Washington Merry-Go-Round” column, The Washington Post, July 21, 1967. Dẫn bởi
Nguyễn Phú Đức, Vietnam: Pourquoi les Etats-Unis ont-ils perdu la guerre?, 177.
18 Nguyễn Phú Đức, op.
cit., 177.
19ibid., 176.
20 Bùi Tín, Mây Mù Thế Kỷ
(California: Đa Nguyên, 1998), 39.
21 The Pentagon Papers,
379.
22 Dẫn bởi Nguyễn Phú Đức
trong The VietNam War, bản thảo chưa in, tập I, 359.
23 Ibid., 360.
24 Lâm Quang Thi,
Autopsy: The Death of South Vietnam (Phoenix, AZ: Sphinx Publishing, 1986), 70.
25 Zhai, 135
26Ibid., 152.
27 McNamara, In
Retrospect, 32.
28 Ibid., 321-322.
29 Nikita Krushchev, “On
Wars of National Liberation,” January 6, 1961
30 McNamara còn đi quá xa
đến độ cho rằng việc Ngô Đình Diệm thành lập VNCH là vi phạm hiệp định Genève
1954 (An Argument Without End, 104). Thật ra, VNCH chỉ là danh xưng mới của
QGVN do Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng từ trước hiệp định Genève.
31 Thư của Mansfield gửi
Tổng thống ngày 2.11.1961. Dẫn bởi Schulzinger, 108.
32 Philip Caputo, A Rumor
of War (New York, Holt, Rinehart and Winston
33 McNamara, Argument
Without End, 385.
34 Christopher E. Goscha,
“Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique against Vietnam”,
dịch từ bản tiếng Việt lưu trữ tại Thư viện Quân đội Nhân dân ở Hà Nội. Tài
liệu không ghi ngày tháng, nhưng nội dung cho thấy là tài liệu được ghi chép
năm 1979, sau cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc hồi tháng Hai 1979. Gosha là
thành viên của Nhóm Nghiên Cứu Việt Nam Hiện Đại ở Paris, Pháp. Ông được phép
chép tay tài liệu này và dịch sang Anh văn, in trong tập Cold War International
History Project, Dossier No. 3, của Woodrow Wilson International Center for
Scholars, Washington, DC, dưới nhan đề “Le Duan and the Break with China”. Vì
không có nguyên bản tiếng Việt, những lời trích dẫn ở đây được dịch lại từ bản
tiếng Anh nên chắc chắn không đúng với nguyên văn.
36 McNamara, Argument
Without End, 107.
37 Quyết nghị số 15,
tháng Giêng 1959. Những Sự kiện Lịch sử Đảng, NXB Chính trị Quốc gia.
38 McNamara, Argument
Without End, 109.
39 ibid., 125.
40 Theo McNamara, lý do
chính mà đại diện Việt Nam đưa ra trong những phiên họp Việt-Mỹ ở Hà Nội năm
1997 là vì Ung Văn Khiêm không phải là thành viên của Trung ương Đảng nên không
biết gì về các quyết định của Bộ Chính trị, trừ khi được thông báo. (McNamara,
Argument Without End, 125.) Giải thích này không thỏa mãn vì không giải thích
được lý do tại sao Bộ Chính trị không thông báo ý định cho phái đoàn của mình.
Ung Văn Khiêm cũng không thể không biết rằng MTGPMN đã mấy lần ra tuyên cáo
công khai và rõ rệt về chủ trương thành lập chính phủ liên hiệp và trung lập..
41McNamara, ibid., 109.
42 Mieczyslaw Maneli có
ghi lại trong một bài báo về việc Hà Nội và MTGPMN có thể chấp nhận Ngô Đình
Diệm cầm đầu chính phủ liên hiệp: “Tôi hỏi một chính phủ (liên hiệp) như vậy có
thể để cho ông Diệm lãnh đạo hay không. Vào mùa Hè 1963, câu trả lời rốt cuộc
là được.” {The New York Times, 27.01.1975, dẫn bởi McNamara, Argument Without
End, 112). Điều này, nếu có thật, chỉ có thể được coi là một bước chiến thuật
nhằm mục tiêu trước mắt là đẩy Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
43 Lyndon B. Johnson, The
Vantage Point: Perspectives of the Presidency, 1963-1969 (New York: Holt,
Rinehart, and Winston, 1971), 578-591.
44 McNamara, Argument
Without End, 219-312. Những câu trích dẫn liên quan đến sáu sáng kiến này, có
hay không có chú thích riêng, đều được rút ra từ những trang này.
45 Vấn đề này được nói
đến trong Chương trình của Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình
(31.7.1968): “Hiện thời, đất nước chúng ta thực tế có hai chính thể khác nhau ở
miền Nam và miền Bắc. Thống nhất dân tộc không thể được hoàn tất trong một sớm
một chiều. Vì vậy, miền Nam và miền Bắc phải nói chuyện trên căn bản bình đẳng
và tôn trọng các đặc tính của mỗi miền để có thể tiến đến thống nhất xứ sở
trong hòa bình.” (Trương Như Tảng, A Vietcong Memoir, Phụ lục, 333). Bản Chương
trình cũng dự liệu vấn đề hiệp thương, trao đổi văn hóa, giáo dục lâu dài giữa
hai miền.
46 Odd Arne Westad, chủ
biên, “77 Conversations Between Chinese and Foreign Leaders on the Wars in
Indochina, 1964-1977.” Trong Bulletin of the Cold War International History
Project, Working Paper No. 22, May 1988, 87. Dan bởi McNamara, Argument Without
End, 263.
47 Goscha, “Le Duan and
the Break with China”.
48 Kosygin đi thăm Bắc
Việt năm 1965, ký hiệp ước viện trợ 500 triệu đô-la cho Hà Nội năm 1966, và trị
giá viện trợ của Liên Xô lên tới trên một tỉ năm 1968. Ngoài ra, mỗi năm có
hàng ngàn chuyên gia người Việt được đào tạo ở Mat-scơ-va, nhiều người học xong
được đưa thẳng về miền Nam Việt Nam, một việc Liên Xô yêu cầu Hà Nội giữ kín để
tránh làm hại mối quan hệ Mỹ-Liên Xô. (Ilya Gaiduk, The Soviet Union and the
Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee, 1996), 59-60. Dan bởi McNamara trong
Argument Without End, 287.
49 McNamara, ibid., 286.
50 Liên Xô từng tố cáo là
Trung Quốc lấy bớt đồ viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam khi được chở qua lãnh
thể Trung Quốc.
51 McNamara, Argument
Without End, 287.
52 Ibid., 294.
53 Tin chính thức là
tướng Nguyễn Chí Thanh chết vì một cơn đau tim, nhưng theo tin không chính thức
thì ông bị tử thương trong một vụ máy bay Mỹ ném bom.
Copyright © 2004 by Lê Xuân Khoa
Bản Word © blog Ba Sàm 2013
---------------------------------
BON-PHUONG’S BLOG
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / MỤC LỤC (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba
Sàm) Wednesday,
30 January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / LỜI MỞ ĐẦU (GS Lê Xuân Khoa - Blog
Ba Sàm) Thursday, 31 January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 1 : QUỐC GIA & CỘNG SẢN
(GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Friday, 1 February
2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 2 : NHỮNG YẾU TỐ BÊN NGOÀI
(GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Monday, 4 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC
LỊCH SỬ / CHƯƠNG 3 : CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (GS Lê Xuân Khoa - Blog BA
SÀM) Thursday,
7 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 4 : HỘI NGHỊ GENÈVE &
HAI NƯỚC VIỆT NAM (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Sunday, 10 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 5 : BÀI HỌC CHÍN NĂM
[1945-1954] - (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Wednesday, 13 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 6 : DI TẢN và ĐỊNH CƯ TỊ
NẠN 1954 (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Saturday, 16 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 7 : SỰ SỤP ĐỖ CỦA VIỆT NAM
CỘNG HÒA (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Wednesday,
20 February 2013
NGOCLINHVUGIA’S BLOG
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / MỤC LỤC (GS Lê Xuân Khoa – Blog
Ba Sàm) Tháng Một 30, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / LỜI MỞ ĐẦU (GS Lê Xuân Khoa – Blog
Ba Sàm) Tháng Một 31, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 1 : QUỐC GIA & CỘNG SẢN
(GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Tháng Hai 2, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 2 : NHỮNG YẾU TỐ BÊN NGOÀI
(GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm)
Tháng Hai 5, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 3 : CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH
RUỘNG ĐẤT (GS Lê Xuân Khoa – Blog BA SÀM) Tháng Hai 7, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 4 : HỘI NGHỊ GENÈVE &
HAI NƯỚC VIỆT NAM (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Tháng Hai 11, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 5 : BÀI HỌC CHÍN NĂM
[1945-1954] – (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Tháng Hai 14, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 6 : DI TẢN và ĐỊNH CƯ TỊ
NẠN 1954 (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Tháng Hai 17, 2013
VIỆT NAM 1945-1995 :
CHIẾN TRANH – TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 7 : SỰ SỤP ĐỖ CỦA VIỆT NAM
CỘNG HÒA (GS Lê Xuân Khoa – Blog Ba Sàm) Tháng Hai 20, 2013
No comments:
Post a Comment