Tác giả/ hiệu định: David Brown
Dịch giả: T.H.A.
Posted by basamnews on 21/02/2013
Đảng Cộng sản Việt Nam, từng được ghi nhận
là đã mở cửa và đưa đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, hiện đang rơi
vào khủng hoảng. Đấu đá nội bộ, sai sót trong quản lý kinh tế cùng với việc
không quan tâm đúng mức tới các vấn đề liên quan đến chất lượng sống của người
dân đã làm rạn nứt niềm tin vào tuyên bố của Đảng rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Cùng với nền kinh tế phát triển rất
nóng khi trước nay giảm xuống còn khoảng 5%, dư luận xã hội trở nên bi quan,
công khai chỉ trích giới lãnh đạo hơn bao giờ hết. Là lực lượng giữ độc quyền
trong đời sống chính trị tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam phải gánh chịu toàn
bộ trách nhiệm khi con đường toàn cầu hóa của nước này trở nên chông gai.
Giống như kịch bản đã từng diễn ra nhiều
lần ở nhiều quốc gia khác khi tham gia vào guồng quay chóng mặt của nền kinh tế
toàn cầu, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam mở màn bằng một làn sóng vốn đầu
tư nước ngoài – mà không được ngân hàng nhà nước trung hòa (cân bằng lại nhằm
cắt giảm cung ứng tiền tệ) đã dẫn đến việc tăng trưởng tín dụng ồ ạt, theo sau
bởi một đợt lạm phát trầm trọng. Để kiềm chế lạm phát, chính phủ đã hiển nhiên
buộc phải siết chặt hoạt động tín dụng vào hồi đầu năm 2011. Giờ đây, khi các
khoản vay đã trở nên khó tiếp cận hơn, các doanh nghiệp buộc phải sấp ngửa thúc
giục khách hàng thanh toán hoặc trả lãi các khoản vay của mình. Những người
đang ngấp nghé gia nhập giới trung lưu cũng phải chứng kiến khối tài sản của
mình bốc hơi khi các khoản đầu tư bất động sản, cổ phiếu,… đổ bể. Các doanh
nghiệp nhà nước thì hoạt động kém hiệu quả, phá sản và nợ đọng đầm đìa các ngân
hàng sở hữu nhà nước. Công tác giải phóng mặt bằng cho các dự án phát triển thì
được tiến hành một cách quá thô bạo, đến nỗi khiến cho những người nông dân, từ
lâu vốn là chỗ dựa vững chắc cho chế độ, cũng phải trở nên nổi loạn. Niềm tin
vào khả năng quản lý kinh tế của Đảng đã bị lung lay nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, Đảng cũng không còn tỏa ra ánh
hào quang cách mạng như xưa. Đã gần sáu thập niên kể từ khi những người lính Pháp cuối cùng bỏ lại sau
lưng một nước Việt Nam bị chia cắt, và bốn thập niên kể từ khi quân đội Mỹ rút khỏi cuộc nội chiến mà sau đó
chế độ Hà Nội đã thống nhất đất nước thành công. Trong số 90 triệu người dân
Việt Nam, không nhiều người còn nhớ về những cuộc chiến đó hay quan tâm đến
thực tế rằng họ đã giành được độc lập và thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Dù hô hào quay lại học tập tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh cũng như các đồng
chí của ông cách mấy cũng không thể khôi phục lại lòng nhiệt huyết của Đảng,
hay có lẽ là loại bỏ được nạn tham nhũng đã bắt rễ tràn lan trong guồng máy.
Những người đã có tuổi thường nói ngày xưa
đời sống còn khổ sở hơn nhiều. Họ thường ghi nhận rằng Đảng đã nhận ra những
khiếm khuyết trong mô hình “xã hội chủ nghĩa” kiểu Liên Xô và đã khởi xướng
công cuộc “Đổi mới,” qua đó giải phóng các nguồn lực tư bản tiềm tàng trong xã
hội – và chỉ trong vòng một phần tư thế kỷ, thu nhập bình quân đã tăng gấp bốn
lần. Có xu hướng tin rằng chỉ có sự lèo lái vững chắc của Đảng mới có thể đẩy
lui “nguy cơ bạo loạn, mất ổn định xã hội, tan rã nền kinh tế, và cuộc khủng
hoảng tồi tệ nhất đất nước từng trải qua”, phần lớn người Việt Nam đều chỉ đơn
giản hy vọng rằng Đảng sẽ tìm lại được phong độ của mình.
Độ tuổi trung bình của người Việt Nam là
28. Quá nửa dân số chưa từng trải qua thời kỳ trước đổi mới. Họ được thụ hưởng
những thành quả mang lại nhờ quá trình toàn cầu hóa. Việc tiếp cận rộng rãi với
điện thoại di động và mạng internet đã khai phóng trí óc. Việc chấp nhận duy
trì thực trạng chính trị hiện nay còn tùy thuộc vào khả năng mang lại chất
lượng đời sống ngày một cao của chế độ — không chỉ là các loại hàng hóa, mà còn
bao gồm cải thiện chất lượng nền giáo dục, y tế và môi trường sống. Giới trẻ
Việt Nam không chỉ căm ghét những tay công an, cán bộ thường xuyên hạch sách,
nhũng nhiễu và những thông điệp tuyên truyền sáo rỗng; rất nhiều trong số họ có
thể hình dung ra một xã hội vắng bóng những điều đó.
Bằng cách truy cập vào các trang mạng đặt ở
ngoài nước, một người dân Việt Nam có thể thấy nỗi bất bình của mình cũng được
chia sẻ bởi hàng ngàn blogger và thậm chí hàng vạn, thường xuyên đăng những bài
chỉ trích chế độ lên Facebook.
Quan điểm của đội ngũ đảng viên, chiếm gần
4% dân số, thì khó nắm bắt hơn. Thông thường, họ không đăng tải các bình luận
của mình lên mạng, trừ khi họ nằm trong số 900 dư luận viên làm việc cho ban
tuyên giáo của Đảng nhằm phản bác lại “các luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch”. Tuy nhiên, có một điều rõ ràng là hiện đang diễn ra một cuộc tranh
giành linh hồn của Đảng. Đó không phải là một cuộc đua gắn liền với tên tuổi
của các vị lãnh đạo kình địch nhau, mà một vụ như vậy vào hồi năm ngoái đã làm
chìm đi một vấn đề quan trọng hơn: Đảng nên làm gì để bảo vệ được nền chuyên
chính của mình?
Câu hỏi liên quan đến sự tồn vong của chế
độ ở đây là liệu rằng Đảng có thể, một lần nữa, tự chỉnh đốn hay không. Vào năm
1986, các nhà lãnh đạo đổi mới đã thành công trong việc khắc phục hậu quả thảm
khốc của công cuộc “xây dựng chủ nghĩa xã hội” kiểu Liên Xô kéo dài hàng thập niên. Còn ngày nay, phe cải cách lên tiếng rằng các lực lượng
kinh tế-xã hội được giải phóng từ một phần tư thế kỷ trước đang đòi hỏi Đảng
phải tự thanh lọc đội ngũ của mình, điều chỉnh cung cách lãnh đạo và vạch ra
một tầm nhìn có sức thuyết phục. Không đồng tình với quan điểm đó, phe bảo thủ
nhất quyết chống lại sự “cởi mở,” bởi họ coi đó là dấu hiệu để dẫn đến các thử
nghiệm về đa nguyên. Họ chống lại đề xuất giải thể các doanh nghiệp nhà nước
giữ độc quyền trong các ngành công nghiệp nặng hay cắt giảm quy mô của Bộ Công
an, chính là những yếu tố mà quá trình toàn cầu hóa đòi hỏi phải từ bỏ. Họ viện
dẫn đến “tấm gương” Mikhail Gorbachev, tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, người
góp phần đưa đến sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trước
áp lực của các cuộc “cách mạng màu”. Họ cũng thường lập luận rằng, việc thừa
nhận sai sót sẽ đẩy Đảng vào tình thế hiểm nghèo; và nếu Đảng bị lật đổ, đội
ngũ công quyền cũng sẽ bị mất lương hưu.
Câu hỏi thiết thực ở đây là liệu rằng Đảng Cộng sản Việt
Nam có thể giảm sự phụ thuộc vào hai chỗ dựa mà đã trở thành hai gánh nặng lớn
cho chế độ: một là Đảng
Cộng sản Trung Quốc, và hai là chính bộ máy an ninh nhà nước dưới quyền của
Đảng.
Việt Nam và Trung Quốc được liên kết bởi
một mạng lưới các mối quan hệ giữa hai đảng, được hai chính quyền siêng năng
vun vén. Điều này phản ánh sự gần gũi về mặt tư tưởng của hai chế độ và bấy lâu
nay đã giúp cho Việt Nam có được một chiến lược giúp ổn định quan hệ với quốc
gia hàng xóm khổng lồ này. Tuy nhiên, hiệu lực của chiến lược giữ gìn ổn định
này đã bị hạn chế nhiều, chính vì Bắc Kinh không ngừng đẩy mạnh việc hiện thực
hóa các tuyên bố chủ quyền mơ hồ trên biển Đông của mình đã làm sứt mẻ tình
đoàn kết anh em Việt Nam – Trung Quốc.
Hiểu rõ rằng sức mạnh không và hải quân của
mình không thể bì được với Trung Quốc, và rằng Việt Nam cũng khó lòng trụ vững
trước một cuộc trả đũa kinh tế từ phía bên kia, chính quyền Hà Nội đã né tránh
đối đầu trực diện. Đối với những người thường phê phán chế độ, chỉ dựa vào
ngoại giao khi phải đối diện với sự hung hăng của Trung Quốc giống như một tư
thế thiếu bản lĩnh không thể chấp nhận được. Có người cho đó là một chiến lược
gìn giữ hòa bình khôn ngoan, nhưng những người bất đồng chính kiến lại cho đó
giống như hành động khấu đầu trước Bắc Kinh. Họ cũng chê trách một số động thái
khác của chính quyền Hà Nội, ví dụ như cấp phép cho Trung Quốc khai thác bô-xít
tại các vùng biên nhạy cảm về môi trường và an ninh, trong khi bất lực trong
việc đối phó lại với các vụ Trung Quốc quấy nhiễu tàu thuyền của ngư dân Việt
Nam. Nhiều người lên tiếng cảnh báo nguy cơ mang lại từ việc Hà Nội dựa vào tín
dụng và nhà thầu Trung Quốc để xây dựng cơ sở hạ tầng, cho phép hàng hóa kém
chất lượng của Trung Quốc ồ ạt tràn qua biên giới và dẫn đến thâm hụt thương
mại hai chiều nghiêm trọng – ở mức 12,5 tỷ USD vào năm 2012.
Các mối liên kết giữa hai đảng cũng được
củng cố bởi các chuyến giao lưu mật thiết giữa các cơ quan an ninh hai nước. Dù
không đáng ngạc nhiên khi hai bên cùng chia sẻ kinh nghiệm và các công nghệ
theo dõi – giám sát, sự hợp tác này là một căn cứ sẵn có để những người bất
đồng chính kiến lý giải việc tại sao Hà Nội không “đứng lên chống lại Trung
Quốc” và đồng thời ngăn cản họ tuần hành đến đại sứ quán Trung Quốc mỗi sáng
Chủ Nhật.
Một mối lo ngại lớn hơn, đặc biệt là đối
với phe cải cách trong Đảng, là quyền tự xác định và lựa chọn biện pháp xử lý
các mối đe dọa an ninh chế độ của Bộ Công an. Nó không chỉ thể hiện ở vấn đề
theo dõi, quấy nhiễu và truy tố một cách ngẫu nhiên các blogger và những người
bất đồng chính kiến khác – mà còn ở việc không chịu thu hẹp khái niệm “các hoạt
động chống phá” trong Hiến pháp và bộ luật hình sự. Hiện nay những khái niệm
này được định nghĩa rộng đến mức tước bỏ hoàn toàn các đảm bảo của hiến pháp
đối với các quyền cơ bản của con người.
Cũng thật trùng hợp, một cuộc sửa đổi hiến
pháp đang được tiến hành – những lần sửa đổi như vậy thường diễn ra cách quãng
nhau một hai chục năm. Lần này việc tranh luận công khai của dân chúng ít có sự
dàn dựng hơn đáng kể. Và điều đáng chú ý là đã dấy lên một làn sóng ý kiến ủng
hộ việc xóa bỏ một điều trong Hiến pháp trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam quyền
hành lãnh đạo đặt trên cả Hiến pháp. Một số lượng lớn hiếm thấy các đảng viên
đã nghỉ hưu và các “trí thức cách mạng” cũng tán thành với đề nghị này.
Một cú mở cửa chính trị như thế hẳn là sẽ
chưa xảy ra ngay lúc này, nhưng làn sóng ngầm hiện nay cho thấy rồi cũng có thể
đến lúc phải như vậy.
Nguồn: Yale Global
——-
Ghi chú: Một vài chi tiết
trong bài đã được tác giả thêm vào để làm rõ hơn các ý mà tác giả muốn gửi tới
các độc giả Việt Nam.
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
No comments:
Post a Comment