27/09/2021
https://baotiengdan.com/2021/09/27/ve-con-hum-xam-duong-so-4/
Tôi thật đau buồn được tin cụ Đặng Văn Việt từ
trần. Người bạn quý ấy, mỗi lần ghé Hà Nội, tôi đều đến thăm. Lần chót, chúng
tôi gặp nhau là ngày 19 tháng hai 2018. Dưới đây, tôi xin trích lại những dòng
ghi chép của tôi sau cuộc hội ngộ cuối cùng ấy.
«Vẫn ngổ ngáo và niềm nở như mọi khi. Ông cưỡi
cái xe ba bánh che bạt chạy bằng điện, quà tặng của bạn bè. Bộ quần áo xám nhạt,
hoen ố, gắn huy hiệu Võ Nguyên Giáp, mũ cát két xanh sẫm.
Chúng tôi ôm nhau. «Menras, năm nay tôi trăm tuổi
rồi đấy!».
Nhà 125 phố Minh Khai, Hà Nội. Cuối ngõ nhỏ, một
cái sân bao quanh bởi mấy chung cư xập xệ. Ông đậu cái xe ba bánh ở dưới sân,
nhiều khi để luôn cả cái cặp đựng tài liệu trên xe, dẫn tôi leo cầu thang, dọc
theo những bức tường cũ ký loang lổ, lên lầu ba, tới tấm cửa sắt của «BT 205»
(BT là… Biệt Thự đấy !). Hai căn phòng nhỏ ở cuối một hành lang hẹp.
Ông pha trà. Rót rươu vào một chén nhỏ.
Năm năm liền, ông viết một cuốn sách về lịch sử
quân sự Việt Nam, nhưng việc xuất bản gặp phải những chướng ngại hành chính và
chính trị. Viện Lịch sử Quân sự vừa xuất bản bộ Quân sử 15 tập. “Một công dân
cá thể không thể công bố một bộ sử như vậy được, đó là công việc của một viện,
của Đảng…”.
Một nữ bác sĩ đã hứa đóng góp tài chính để xuất
bản cuốn sách của ông, và nói chỉ cần chỉnh sửa đôi chút là cuốn sách có thể nhận
được một giải thưởng quốc tế. Ông cũng tin chắc như vậy.
Đến giờ ăn, chúng tôi thận trọng từng bậc bước
xuống cầu thang, đợi taxi đến đón chúng tôi tới tiệm ăn mà ông gọi là «bít tết
Napoléon». Tôi mượn cửa hàng bên kia đường một cái ghế nhựa để ông ngồi đợi.
Ông ngồi chờ ở góc phố, đợi mãi taxi vẫn chưa tới, ông đứng dậy, leo lên ngồi
trên cái xe mô tô đậu gần đó. Quán Napoléon đóng cửa nghỉ tết.
Tới quán Lục Thủy gần hồ Gươm, chúng tôi ngồi
bàn ngoài hè. Ông nhận xét «Việt Nam đang phát triển». Vào bữa, ông làm một đĩa
«T bone steak» nhập từ New Zealand và kiên trì chiến đấu tới cùng, chỉ ngừng
vài lần để cụng ly rượu vang đỏ Chilê. Chúng tôi kết thúc bữa ăn bằng ly kem và
một cốc «Irish Coffee». Người chiến sĩ mang đầy thương tích trên người ấy có thể
đọ sức với mọi tướng lĩnh bụng phệ trên thế gian này. Ông cụ mạnh khỏe, khang
kiện về mọi mặt, vật chất cũng như tinh thần.
«Khác với chúng nó, 70 năm tuổi Đảng tôi chưa
hề ăn cắp một xu nào của nhân dân». Thời khóa biểu hàng ngày của ông? «Sáng dậy,
một giờ thể dục. Sau đó đi nhảy và ăn sáng, một giờ rưỡi… Cả ngày viết sách, rồi
một giờ học tiếng Anh».
«Cảm ơn chú đã mời tôi tham gia cuốn phim của
Đào Thanh Tùng «André Menras: một người Việt». Thế là hình ảnh tôi được lưu trữ
trong kho của Quân đội», ông cả cười. «Đảng này đang cản trở sự phát triển của
đất nước. Khuất phục Trung Quốc. Tôi là một người lính bị bỏ quên. Không phải
nhân dân, mà là lãnh đạo bỏ quên».
Giao tranh với quân đội thực dân 120 trận,
«con hùm xám đường 4» đã đánh thắng 116 trận. Nhiều tù binh Pháp bị bắt không bị
các đơn vị dưới quyền ông hành hạ. Nhiều người đã tỏ lòng biết ơn, thậm chí
khâm phục ông. Ông đã viết 21 cuốn sách. Ông cười vang khi kể cho tôi nghe chuyện
quân tàu (Tưởng) giải giới quân Nhật. «Khi viên sĩ quan Nhật hét to, ra lệnh
cho quân lính trao nộp vũ khí, thì quân tàu hoảng sợ, toan bỏ chạy». Ông kể cho
tôi nghe chuyện nạn đói 1945 ở Hà Nội, thời ông là sinh viên y khoa… Chuyện ông
không được tham gia trận Điện Biên Phủ, nơi trung đoàn của ông bị tiêu diệt gần
như hoàn toàn, còn ông thì bị gửi sang học quân sự ở Trung Quốc. Kể chuyện về
hưu phải trồng rau đem bán ngoài chợ. Kể mà cười tửng tưng, coi những chuyện bị
đối xử tàn tệ vì lý lịch «xấu» ấy là chuyện của ai khác. Ông nói: «Kể ra chú với
tôi, cả hai chúng ta đều hơi khùng. Chú thì cắm cờ và rải truyền đơn trước quốc
hội Sài Gòn, tôi thì cắm cờ trước hoàng thành Huế với một khẩu súng Colt không
đạn». Tôi trả lời cờ của tôi còn có màu xanh, cờ của ông thì không. Và chúng
tôi cả cười.
Lương hưu của ông mỗi tháng mười triệu đồng
(340 EUR, chú thích của người dịch). «Cũng nhiều đấy, nhưng tôi còn phải giúp
năm gia đình nghèo… Riêng tôi chả cần gì nhiều».
«Chỉ thích nhảy: boston, valse, tango, còn bọn
kia – ông chỉ sang bên kia hồ Gươm nơi tượng đài Lý Thái Tổ – chúng bày ra chuyện
nhảy để bịt miệng những người yêu nước».
Chia tay ông, tôi không biết đó là cuộc gặp cuối
cùng. Tôi nhớ tới ông với tất cả sự kính mến đối với một người Việt Nam phi thường,
chân chính và khiêm cung, một con người mà sử sách chính thức của một đảng phái
vô ơn và bội bạc đã muốn quên đi. Vô phương. Tôi còn giữ cặp mắt kính cũ mà ông
đã cho tôi khi cặp kính của tôi bị cán vỡ trong một tai nạn giao thông. Tôi thấy
rõ, nhờ cặp kính ấy.
***
Je viens d’apprendre avec beaucoup de chagrin
le décès de M. Đặng Văn Việt. C’était un très cher ami que j’aimais rencontrer
lors de mes passages à Ha Noi. La dernière fois que nous nous sommes vus,
c’était le 19 février 2018. Je vous livre ici les quelques notes brutes de
littérature que j’avais prises de cette heureuse et ultime rencontre.
« Truculent et affable comme à l’ordinaire. Il
arrive sur un tricycle électrique bâché que des amis lui ont payé. Costume gris
clair, maculé de tâches, avec un petit écusson métallique à l’effigie du
général Giáp, casquette bleu marine. Un petit air cabot.
Accolade. « Menras, je suis centenaire !».
Appartement au 125 rue Minh Khai à Ha Noi, une
cour entourée d’HLM vétustes au bout d’une petite ruelle… Il laisse dans la
cour le tricycle électrique, souvent avec sa serviette à documents et me guide
dans les escaliers aux murs décrépis jusqu’au 3 ème étage vers la grille
métallique de ce qu’il appelle sa « BT 205 » (biệt thự) villa 205. Etroit
couloir avec deux petites pièces à son extrémité.
Là, il prépare le thé. Petite coupelle
d’alcool.
Depuis 5 ans, Il écrit un livre sur l’histoire
militaire du Viet Nam mais il a beaucoup de mal à l’éditer à cause des
obstacles administratifs et politiques. L’institut de l’histoire de l’armée
vient de publier 15 tomes. « Un citoyen particulier ne peut publier un tel
ouvrage, il faut que ce soit l’institut, le parti, qui le fasse… ». Une
doctoresse vietnamienne s’est engagée à l’aider financièrement pour la
publication et lui a dit qu’avec quelques modifications, il pourrait prétendre
à un prix international. Il le croit fermement. L’heure du repas arrivant, nous
redescendons prudemment les escaliers et nous attendons le taxi pour aller au
restaurant manger ce qu’il appelle un « bít tét Napoléon ». Je vais demander
pour lui une petite chaise en plastique à la boutique d’en face. Il s’assoit au
coin de la rue puis se lève d’impatience, le taxi n’arrivant pas, et va
s’asseoir sur le siège d’une moto garée à proximité. Le « Napoléon » est fermé
: c’est le Tết.
Arrivé au Lục Thủy, près du lac Hoàn Kiếm,
nous nous installons sur la terrasse. Il me guide avec sa canne entre les
chaises. Il s’installe et trouve que le « Vietnam se développe ». Il s’attaque
au T bone steack de Nouvelle Zélande qu’il ne lâche pas tant qu’il ne l’a pas
vaincu et trinque régulièrement avec du vin rouge chilien. Nous finissons par
une crème glacée et… un « Irish coffee ». L’homme, le combattant criblé de
blessures, vaut bien tous les généraux ventrus d’aujourd’hui. Il est solide et sain
sur tous les plans, aussi bien physique qu’intellectuel.
« Contrairement à eux, en 70 ans de Parti je
n’ai jamais pris un sou du peuple ». Son emploi du temps ? « Le matin au lever,
une heure de gym. Puis danse pendant une heure et demie et petit déjeuner…Puis
écriture du dernier livre en chantier suivie d’une heure d’apprentissage de
l’anglais.
« Merci pour le film de Đào Thanh Tùng « André
Menras : một người Việt » où tu m’as invité à paraître. Me voilà désormais dans
les archives cinématographiques du Parti. » Rire. « Ce parti empêche le pays de
se développer. Soumission à la Chine. Je suis un soldat oublié. Pas par le
peuple mais par les dirigeants. »
Sur 120 batailles contre les troupes
coloniales, le « tigre gris de la route N°4 » en a gagné 116 gagnées. Beaucoup
de prisonniers français qui sous son commandement n’étaient pas maltraités.
Certains lui en ont été reconnaissants et même admiratifs. Il a écrit 21
livres. Il me raconte, hilare, le désarmement des troupes japonaises par les
Chinois. « Les Chinois ont pris peur et ont esquissé des mouvements de fuite
quand l’officier japonais a hurlé l’ordre de remise des armes à ses soldats. »
Il me raconte la grande famine de 1945 à Ha Noi, quand il était étudiant à la
faculté de médecine… Il me raconte comment il fut privé de Điện Biên Phủ où son
régiment fut décimé tandis que le Parti l’exilait en Chine dans une école
militaire. Il me raconte comment, mis à la retraite, il a cultivé des légumes
pour les vendre au marché. Toujours avec le sourire, comme si ces maltraitances
et cet acharnement pour crime de curriculum vitae s’adressaient à un autre que
lui. Il me dit : « Nous sommes un peu fous tous les deux : « toi, tu plantes le
drapeau du Vietnam devant la chambre des députés de Saigon avec une poignée de
tract, moi, devant la citadelle de Hue avec un colt sans balles ». Et je lui
réponds que, sur mon drapeau, il y avait du bleu, pas sur le sien. Rires.
Il touche dix millions de dongs de pension par
mois. « C’est beaucoup, mais j’aide cinq familles pauvres… Je n’ai pas besoin
de beaucoup d’argent. »
« Moi, j’aime la danse : le boston, la valse,
le tango, mais eux – pointant son doigt vers l’autre côté du lac où se trouve
la statue de Lý Thái Tổ- ils dansent pour étouffer les voix patriotiques ».
Lorsque nous nous sommes séparés, j’ignorais
que nous ne nous reverrions plus. Je garde de lui l’affectueux et respectueux
souvenir d’un Vietnamien d’exception, authentique et modeste, que l’histoire
écrite par un parti communiste ingrat et amnésique a voulu oublier. Sans
succès. J’ai gardé aussi de lui une paire de vieilles lunettes qu’il m’avait
offertes en dépannage quand les miennes avaient été écrasées dans la
circulation. Pour que je continue à y voir clair.
_______
Một số hình ảnh:
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/1-103-768x466.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/2-26-696x522.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/3-17-630x420.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/4-6-696x464.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/5-3-696x462.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/6-3-696x464.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/7-3-683x1024.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/8-3-768x512.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/9-2-768x512.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/10-3-630x420.jpg
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/11-2-696x522.jpg
.
=======================================
.
.
Bằng
Phong Đặng Văn Âu
27/09/2021
https://baotiengdan.com/2021/09/27/vinh-biet-hum-xam-duong-so-4/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/1-98.jpg
Ông Đặng Văn Việt
thời trẻ. Ảnh tư liệu gia đình
Đêm qua, lúc 20 giờ địa phương Calfornia, ngày
thứ Sáu 24 tháng 9, người cháu con ông anh Cả của tôi ở Hà Nội gọi điện thoại
báo tin: Bác Đặng Văn Việt mới qua đời.
Đặng Văn Việt có danh hiệu “Con Hùm Xám Đường
số 4” do Thực dân Pháp đặt, vì anh đã chỉ huy Trung Đoàn 174 (một trong
ba Trung Đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Việt Minh) đánh tan hai Binh Đoàn của
Thực dân Pháp là Trung tá Marcel Lepage và Pierre Charton trên đường biên giới
số 4. Năm 2000, những sĩ quan trong Binh đoàn Pháp mang quà sang Việt Nam mừng
thọ 80 tuổi Con Hùm Xám vì sự đối xử văn minh theo quy ước Genève của Trung
Đoàn trưởng Đặng Văn Việt.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/2-25.jpg
Anh Đặng Văn Việt là con trai bác ruột của tôi
– Thượng thư Đặng Văn Hướng – người từng được Hồ Chí Minh mời làm Bộ trưởng
Không Bộ (Ministre sans Portefeuille, tức là Quốc Vụ Khanh thời VNCH) trong
chính phủ Liên Hiệp năm 1945. Đặng Văn Việt, sinh viên năm thứ 3 trường Y Khoa
Hà Nội, rời trường sau khi Nhật đảo chánh Pháp, tham gia vào Trường Thanh Niên
Tiền Tuyến (một loại trường Quân sự) do Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh Niên
trong chính phủ Trần Trọng Kim, thành lập. Hiệu trưởng của trường là Giáo sư Tạ
Quang Bửu, người được mô tả là trí thức hàng đầu của Nghệ An, vì xuất sắc trong
lĩnh vực khoa học, toán học, triết học, từng du học nhiều năm tại Pháp và tại
Anh Quốc.
Dù hai anh em ở khác chiến tuyến, nhưng tôi rất
yêu quý anh Việt, vì anh có bản chất hiền lành, thật thà đến độ ngây thơ, khiến
đôi khi tôi phát cáu, lớn tiếng với anh mà anh không giận. Khi anh Việt sang
thăm bà con ở Mỹ, tôi “dụ dỗ” anh ở lại, nhưng anh nhất định về, vì anh nói rằng
đã là Cọp sinh ra ở đâu thì Cọp phải chết ở đó! Tiếc rằng dưới chế độ cộng sản,
cọp đã bị đảng dũa hết móng vuốt!
Năm 2011, các con của ông anh cuối của tôi (Đặng
Văn Châu) đem tro cốt của bố từ Pháp về chôn tại nghĩa trang dòng họ Đặng ở Nghệ
An. Dù bị địch xem là “thành phần có nợ máu với nhân dân”, tôi vẫn quyết định
trở về nước, vì tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với ông anh đã thương yêu
mình hết mực, thây kệ bản thân mình ra sao thì ra. Tôi đã bị hai Công An Văn
Hóa giữ lại làm việc tại phi trường Nội Bài suốt 90 phút đồng hồ và vài ngày
sau đó tại khách sạn hơn 4 giờ. Lúc bấy giờ anh Việt đã 91 tuổi, nhưng anh đến
đón tôi đi chơi loanh quanh ở Hà Nội trên chiếc “scooter” cà tàng từ thời Bảo Đại
còn trị vì, khiến cho tôi ngồi đàng sau cảm thấy bất an hơn cả khi lái máy bay
vào đất địch.
Anh Việt thu xếp cho tôi có cuộc gặp gỡ với những
đồng chí thuộc cấp của anh trước để trò chuyện. Những người này vốn con nhà tư
sản nên đường binh nghiệp cũng lận đận giống anh Việt, cứ mang lon Trung tá
Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 174 lúc mới 27 tuổi cho tới chết, mặc dầu nổi tiếng
là một thiên tài quân sự, đánh trận nào thắng trận nấy, được Thực dân Pháp nể
phục, phong cho anh danh hiệu “Hùm Xám”,. Trong khi đó, Chu Huy Mân, gốc bần cố
nông, thuộc cấp của anh Việt được thăng chức Đại tướng, Ủy viên Ban Chấp hành
Trung Ương!
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/1-99-696x928.jpg
Ông Đặng Văn Việt
và sách Hùm Xám Đường số 4
Qua màn giới thiệu thằng em “giặc lái” của anh
Việt, tôi nói lời mở đầu:
“Thưa quý anh,
Xin các anh cho phép tôi được nói lời thẳng thắn
của một quân nhân Miền Nam quen thói bộc trực. Tôi rất thương xót cảnh ngộ của
các anh, vì trót sinh ra trong gia đình tiểu tư sản, đã chiến đấu hết mình cho
Tổ Quốc, nhưng bị cái “chủ nghĩa lý lịch” phân loại, nên không được trọng dụng.
Tôi là phi công ở phía thua trận, chứ không phải thua cuộc.
Tháng 4 năm 1975 đảng cộng sản đã chiến thắng,
nhưng toàn dân Việt Nam đã thua. Thua một cách đau đớn vì năm 1979 bị quân
Trung cộng tràn sang dạy cho một bài học mà đảng cắn răng chịu đựng. Vẫn tiếp tục
cam phận làm đàn em!
Nếu năm 1945, tôi đủ tuổi lính, có lẽ cũng
tham gia Mặt trận Việt Minh như các anh. Có thể tôi đã vùi thây trên chiến trường
hoặc may mắn còn sống sót thì cũng chịu chung thân phận như các anh ngày hôm
nay. Năm lên 10 tuổi, nghe tin anh Việt đánh tan hai Binh Đoàn Pháp, tôi tự hào
vì anh minh lập chiến công, đã tung nắm tay lên trời và miệng hoan hô “Hồ Chí
Minh muôn năm”, nhưng sau đó hai năm tôi chứng kiến mấy ông du kích chém bay đầu
một người phu xe kéo vì tội kéo xe cho Tây. Không bao lâu sau, tôi lại chứng kiến
một cậu học trò trạc tuổi tôi đi qua làng, bị du kích nghi làm việc cho Pháp vì
trên túi áo sơ-mi trắng có giắt hai cây bút nguyên tử màu xanh đỏ. Ba màu xanh
trắng đỏ là biểu tượng cờ tam tài của Thực dân. Tra khảo mãi, cậu bé vẫn nói
cháu không phải làm việc cho Tây. Thế là cậu bé bị du kích đánh chết.
Từ đó, tôi ghê tởm sự man rợ của Việt Minh. Dù chỉ là đứa con nít, tôi đã
nghĩ nếu Việt Minh thắng Pháp thì đất nước mình sẽ tệ hại hơn bị Thực dân Pháp
đô hộ. Quả nhiên, điều tôi nghĩ không sai! Thành phố Hà Nội hôm nay có
nhiều nhà cao tầng hơn trước, nhưng người dân vẫn bị ức chế, trí thức không thể
mở miệng thì giành độc lập để làm gì?
Lúc tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ, tôi có lần nói
chuyện điện thoại với bác sĩ Nguyễn Khắc Viện – anh ruột của bà chị dâu tôi – ở
Saigon. Tôi cảm thấy thương cho người dân Việt Nam vì hình như nước mình bị quỷ
ám hay sao đó, mà người nào học càng cao, bằng cấp càng lớn thì càng ngu. Bác
sĩ Nguyễn Khắc Viện bào chữa anh ngây thơ. Nhưng tôi quả quyết trí thức Việt
Nam ngu, vì ở Miền Nam có tự do, đời sống vật chất đầy đủ, mà ủng hộ chiêu bài
“Chống Mỹ Cứu Nước” là ngu, chứ không phải ngây thơ! Bằng cớ là khi cộng sản
chiếm Miền Nam thì trí thức mới vỡ mặt, tìm đường vượt biển.
Hôm qua tôi nói chuyện với anh Đặng Văn Việt.
Anh không hề biết Trần Dân Tiên, CB là bút hiệu của ông Hồ Chí Minh. Anh không
hề biết Hồ Chí Minh ngồi chứng kiến cảnh đấu tố bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị
Năm, ân nhân của ông Hồ. Đảng cộng sản thi hành chính sách bưng bít, ngu dân
thì tôi xin bảo đảm với các anh rằng nước Việt Nam ta trước sau gì cũng sẽ một
lần nữa trở thành Giao Chỉ Quận của Trung cộng…”
Mấy đồng chí của anh Việt đều lắc đầu chán nản,
khi nghe tôi nói một hơi dài. Họ thú nhận nhờ có sự “giao lưu” với tôi hôm nay
mà họ mới biết một số chuyện chưa hề được nghe ai nói tới. Bây giờ họ sống bằng
tiền hưu chết đói. Dù bất mãn chế độ, nhưng họ đều cam phận. Bởi vì lên tiếng
phản kháng cũng chẳng đi đến đâu, mà còn bị mấy chú Công An tuổi đáng tuổi con
mình làm khó dễ, bị mất sổ hưu như chơi.
Anh Việt khoe với tôi: “Anh làm được mấy chuyện
hay lắm chú ạ! Anh đã gửi đơn lên Bộ Chính Trị, lên Ban Chấp Hành Trung Ương
yêu cầu đảng thi hành ba việc:
Thứ nhất, yêu cầu đảng trả lại
danh dự cho Bác (tức là Thượng thư Đặng văn Hướng, Bố của anh Việt).
Thứ hai, yêu cầu đảng phục hoạt
Phong trào Hướng Đạo Sinh để đào tạo thanh niên.
Thứ ba, yêu cầu đảng nhìn nhận
Sinh viên Trường Thanh Niên Tiền Tuyến có công Chống Pháp Giành Độc Lập”.
Tôi trả lời: “Em một lần nữa xin lỗi anh Việt
nhé! Dù anh là một nhà quân sự đại tài, ngồi viết mấy cuốn Hồi Ký về lịch sử
chiến tranh của dân Việt, nhưng anh vẫn ngây thơ một cách lạ lùng. Anh đòi đảng
phục hồi danh dự cho Bác là đảng không thể nào làm được. Bởi vì đảng cộng sản là
đảng ăn cắp, ăn cướp, làm gì có danh dự để trả lại cho Bác? Đảng đã có Đoàn
Thanh Niên Cộng Sản thì đời nào đảng cho phép phục hoạt Phong Trào Hướng Đạo?
Anh không thấy tôn giáo còn bị đảng quốc doanh, thì Hướng Đạo cũng quốc doanh nữa
làm sao được? Còn về Sinh viên Trường Thanh Niên Tiền Tuyến đều được đào
tạo thời Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật, đều là con nhà tư sản mà đảng nhìn
nhận có công lao đánh Pháp, thì hóa ra đó là việc làm bỉ mặt những Tướng lãnh
xuất thân bần cố nông hay sao?
Nghe tôi phản bác, anh Việt tỏ ra buồn rầu.
Còn tôi thì cảm thấy thương ông anh mình sống với cộng sản gần hết đời, mà chẳng
hiểu một chút gì về bản chất cộng sản. Sau mấy ngày ở Hà Nội, tôi theo mấy cháu
về Nghệ An chôn tro cốt anh tôi tại nghĩa trang dòng họ Đặng và làm giỗ Đại Tôn
ở Nhà Thờ Họ. Hai anh em ở chung phòng khách sạn ba ngày, tôi cãi anh Việt đủ cả
ba ngày, vì anh vẫn ngây thơ như một chàng sinh viên mới bước chân vào đời, mặc
dù anh hơn tôi 20 tuổi và có một quá khứ lẫy lừng.
Tôi hỏi Sinh nhật 80 tuổi của anh, đảng có tặng
anh cái gì không? Anh lắc đầu bảo không! Tôi nói: “Anh thấy chưa? Dù bọn Thực
dân bị anh đánh tả tơi, bây giờ có người mang lon Tướng, nhưng vẫn nhớ ngày
sinh nhật của anh, họ mang quà từ Pháp sang Việt Nam mừng anh, trong khi đó đảng
coi anh không ra gì. Vậy em nói thà trước kia anh đừng đánh Pháp giành độc lập
thì Bác trai không bị đảng đấu tố cho tới chết, Bác gái không uống thuốc độc tự
tử, vì quá kinh hãi cộng sản, có đúng không? Anh có biết thân sinh Giáo sư Trần
Đức Thảo than thở với con ông điều gì không? “Giá như ngày xưa tôi cho anh học
nghề thợ nề, thợ mộc thì ngày nay cái thân anh đỡ khổ, cái thân tôi đỡ khổ và
cái dân tộc này đỡ khổ”. Đó là những lời ai oán của một cụ già tận tụy suốt đời
nuôi con ăn học mà con lại góp phần vào sự khổ hạnh của dân tộc! Anh Việt thở
dài: “Thôi! Anh hiểu rồi! Chú đừng nói nữa chỉ làm anh buồn thêm!”
Bây giờ người anh hùng năm xưa được Thực dân
ngưỡng mộ, phong cho danh hiệu “CON HÙM XÁM ĐƯỜNG SỐ BỐN” đã về Trời ở
tuổi 101. Em viết bài này để tưởng niệm một người anh thật thà, lương thiện, một
anh hùng mạt vận vì chẳng may bị sinh vào dòng dõi danh gia vọng tộc, không thuộc
thành phần bần cố nông, cạo mủ cao su ở đồn điền của Tây như Lê Đức Anh để được
thăng quan tiến chức trong chế độ.
Em cầu chúc anh Việt mau siêu thoát. Em xin
ghi lại vài dòng tiểu sử của anh để thế hệ sau hiểu cảnh ngộ trớ trêu của một
người suốt đời mơ ước độc lập, tự do mà mộng không thành. Hy vọng đất nước
thoát khỏi nô lệ Trung cộng rất mong manh.
***
Sơ lược Tiểu sử: Đặng
Văn Việt sinh năm 1920, người làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, tỉnh
Nghệ An. Gia đình ông có nhiều người nổi tiếng. Tổ tiên ông là danh tướng Đặng
Tất, Đặng Dung thời Hậu Trần. Ông nội của ông là Đình
nguyên Hoàng giáp Đặng Văn Thụy (khoa Giáp Thìn – 1904), từng
làm Tế tửu Quốc tử Giám. Bà nội của ông là bà Cao Thị Bích, con gái của Đông
các Đại học sĩ Cao Xuân Dục. Cha ông là Phó bảng Đặng Văn Hướng (khoa
Kỷ Mùi 1919), Tham tri Bộ Hình triều đình nhà Nguyễn, Tổng đốc
Nghệ An thuộc chính phủ Trần Trọng Kim. Từ năm 1947, ông Đặng
văn Hướng là Quốc vụ khanh đặc trách công tác ở 3 tỉnh
Thanh – Nghệ – Tĩnh trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Mẹ của ông là bà
Hoàng Thị Hiến, con gái đầu của cụ Hoàng Đạo Phương. Cụ Phương là anh ruột
học giả Hoàng Đạo Thúy, người Anh Cả của Hướng Đạo Sinh Việt Nam.
Hai người dì đều lấy những nhân vật nổi tiếng
như bà Hoàng Thị Hảo lấy ông Trịnh Văn Bính (từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Tài
chính) hay bà Hoàng Thị Minh lấy thương gia Trịnh Văn Bô, chủ ngôi nhà 48 Hàng
Ngang, Hà Nội, nơi Hồ Chí Minh ngồi viết Tuyên ngôn Độc lập. Tài sản của ông bà
Trịnh Văn Bô bị đảng cướp mất, đòi nhiều lần, nhưng đảng không chịu trả.
No comments:
Post a Comment