"TỰ
DO TRONG KHUÔN KHỔ" LIỆU CÓ ĐÚNG KHÔNG?
https://www.facebook.com/lenguyenduyhau/posts/10159687493009532
Đa số các quyền tự do là có giới hạn, nhưng bản
thân việc giới hạn tự do không có nghĩa là quyền tự do đó chỉ được thực hiện
trong một khuôn khổ nào đó. Xét về hình ảnh, thì việc một quyền tự do trong
khuôn khổ đã tức khắc là mất đi ý nghĩa tự do của nó rồi, huống gì là "tự
do cao nhất" như một tờ báo trong nước từng giựt tít. Nhưng đó là về mặt
câu chữ và cách hiểu thông thường, còn về mặt pháp lý và chuẩn mực thì sao?
Mình muốn thử cắt nghĩa nó và có lẽ sẽ cần nhiều hơn một post để nói về việc
này.
Phải khẳng định với nhau rằng "tự do
trong khuôn khổ" chưa bao giờ là một thuật ngữ pháp lý cả. Không một quy định
pháp luật nào từng nhắc đến cụm từ "tự do trong khuôn khổ" hay một
cách cắt nghĩa nào đó đại loại. Nếu mình không nhầm thì nghị quyết đảng cộng sản
Việt Nam cũng chưa bao giờ nói như vậy. "Tự do trong khuôn khổ" vì thế
chỉ có thể xem là một cách nói khái quát hoá lên về cách hiểu của quyền tự do
mà thôi. Cách hiểu này làm triệt tiêu sự tự do, và ít khi nào những người sử dụng
nó chịu tranh luận để làm rõ vấn đề.
Vì sao? Thử xem xét cách hiểu về cụm từ này mà
hai tờ báo lớn là Công an Nhân dân và Quân đội Nhân dân từng sử dụng. Mình xin
không trích dẫn lại vì có thể khiến bài quá dài. Nhưng hai bài báo nói về hai lập
luận phổ biến. Ở lập luận của báo CAND thì tự do phải gắn liền với chuẩn mực
pháp lý, văn hoá, giao tiếp và do vậy tự do chỉ dành cho những công dân chuẩn mực,
là phần thưởng cho sự hợp chuẩn. Còn báo QĐND thì cho rằng tự do là một tuyên
ngôn, và thực thi nó như thế nào thì phải xem luật nói gì đã.
Khi cần đến cơ sở pháp lý, thì những người ủng
hộ "tự do trong khuôn khổ" thường viện dẫn đến các quy định của Hiến
pháp, theo đó "quyền công dân có thể bị giới hạn bởi luật" trong một
số trường hợp (Điều 14.2) và "việc thực thi [quyền công dân] do pháp luật
quy định". Từ đó, người ta cho rằng tuy Hiến pháp có nói về quyền công
dân, nhưng Hiến pháp "trao quyền" lại cho Nhà nước để quy định cụ thể
các điều kiện, yêu cầu, giới hạn của việc thực hiện quyền công dân bằng
"pháp luật". Nghe qua thì có vẻ hợp lý, nhưng nếu chấp nhận lập luận
này thì cách hiểu về quyền công dân ở Việt Nam vừa không đạt được chuẩn mực tối
thiểu của Liên Hiệp Quốc, vừa có vấn đề về mặt giải thích pháp luật.
Trước hết, nếu thực sự Hiến pháp trao quyền
cho Nhà nước quy định các điều kiện cụ thể để thực hiện quyền công dân bằng
pháp luật thì có nghĩa là chúng ta đa sa đà vào nguyên tắc "công dân chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép" chứ không phải là nguyên tắc
"công dân làm những gì pháp luật không cấm". Về mặt câu chữ, nếu đã
quy định việc thực thi quyền là do pháp luật quy định, thì tại sao cần phải quy
định riêng rằng giới hạn quyền "theo quy định của luật" tại Điều
14.2? Nếu ta hiểu "việc thực hiện quyền" bao gồm tất cả các khía cạnh
của việc quản lý một quyền thì đâu cần thiết phải có một quy định riêng cho giới
hạn quyền. Mà nếu như một quy định với tên gọi khác như điều kiện thực hiện quyền,
thủ tục thực hiện quyền... nhưng bản chất và hệ quả của nó là gây khó khăn, hay
thậm chí là từ chối việc thực hiện quyền của một cá nhân nào đó, thì nó là gì nếu
không phải là một quy định giới hạn quyền với tên gọi khác? Hiểu như vậy thì sẽ
thấy cần giải thích điều khoản "việc thực hiện quyền theo quy định của
pháp luật" khác đi. Vì nếu không sẽ dẫn đến hai điều luật thừa, thậm chí mâu
thuẫn nhau.
Vậy thì phải hiểu rằng điều khoản "việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định" không bao gồm các trường hợp
làm hạn chế, hay gây khó khăn cho việc thực hiện quyền công dân. Ví dụ, nếu một
quy định pháp luật đặt ra điều kiện để thực hiện quyền tự do nào đó (chẳng hạn
như cần phải có hộ chiếu khi ra khỏi đất nước - do đó, hạn chế quyền tự do đi lại)
thì phải xem là một quy định hạn chế quyền, thay vì gọi bằng các tên gọi khác
(như điều kiện, thể thức). Và vì điều kiện thực hiện quyền đó thực chất mang
tính hạn chế quyền nên nó phải chịu sự điều chỉnh của quy định về hạn chế quyền
(và các tiêu chuẩn mà ta có thể bàn sau). Còn lại, các quy định ó tính chất ghi
nhận, bảo vệ, hoặc thúc đẩy quyền thì không cần lý do chính đáng. Chẳng hạn như
Nhà nước có thể ra một nghị định khuyến khích người dân sử dụng internet để
thúc đẩy tự do ngôn luận, có thể ra một thông tư quy định trình tự xử lý các
khiếu nại khi quyền bị xâm phạm, ra một chỉ thị tăng cường giáo dục nhân quyền...
mà không cần phải thoả mãn các điều kiện như khi giới hạn quyền. Tương tự, người
dân thực hiện quyền của họ một cách tự do và chỉ bị can thiệp trong một số trường
hợp hạn hữu theo Hiến pháp và thoả đáng theo chuẩn mực nhân quyền. Người dân
không cần phải có một giấy phép để nói, giấy phép để đi lại, giấy phép để hiệp
hội... Đó chính là cách hiểu đúng của tự do. Hiểu như vậy thì sẽ thấy diễn ngôn
về tự do phải đảo ngược lại. Khuôn khổ là dành cho nhà nước. Lúc này "tự
do" không phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật nữa mà là pháp luật phải
nằm trong khuôn khổ của tự do, và để bảo vệ tự do.
Cách hiểu này quan trọng và nó xuất phát từ
chuẩn mực của Liên Hiệp Quốc về các quyền tự do. Khi pháp luật nằm trong khuôn
khổ tự do, tức là tự do lúc này là nguyên tắc, hạn chế tự do là ngoại lệ (trừ
các trường hợp hết sức đặc biệt như tình trạng khẩn cấp mà khi thực hiện phải
thật sự rõ ràng, cẩn trọng). Đây cũng là một cách hiểu theo lẽ thường (common
sense) nếu ta chấp nhận với nhau rằng con người sinh ra tự do và tồn tại trước
nhà nước, tạo nên nhà nước, và sinh tồn ngay cả sau khi nhà nước bị thay đổi. Từ
đó thì đúng như Marx nói, nhà nước trở thành công cụ của con người, chứ không
phải là người thầy, người cha để vẽ ra khuôn khổ cho con người chạy trong đó. Tất
nhiên, hoàn toàn có thể thay cụm từ "nhà nước" bằng "xã hội",
bằng "số đông" mà không làm thay đổi quan điểm trên.
Vậy thì, "khuôn khổ" của tự do nếu
có chỉ có thể là trí tưởng tượng và tiềm lực của con người, chứ không phải là
pháp luật. Trong cái "khuôn khổ vô tận" đó, pháp luật có thể đóng vai
trò như những khu vực cấm hoặc khu vực cẩn trọng mà công dân bị hạn chế xâm phạm,
xuất phát vì mục tiêu duy nhất là bảo vệ cho chính sự tự do đó. Và chính vì vậy
mà khu vực cấm cần cần phải rõ ràng, cần phải thoả đáng, và đặc biệt là cần phải
nhỏ hơn sự tự do. Nếu ta tin rằng tự do cần có khuôn khổ, ta sẽ mãi đi tìm cái
khuôn khổ đó và chịu sự siết chặt của khuôn khổ, và khi không có khuôn khổ thì
ta sẽ hoang mang. Ở chiều ngược lại, nếu ta hiểu tự do là nguyên tắc, thì mọi
hành động của chúng ta cũng đều hướng đến sự tự do và những hành vi giới hạn
quyền tự do, hay nói cách khác là đè lên quyền tự do của ta và người khác, cũng
sẽ được cân nhắc một cách e dè hơn. Chính cách hiểu đó cũng giúp giải thích vì
sao Liên Hiệp Quốc yêu cầu việc giới hạn quyền tự do tuy có thoả đáng cách mấy
cũng không được phép xâm hại đến nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử
giữa các cá nhân, và nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm của mọi người.
Không khó để xác định lý do vì sao diễn ngôn
"tự do trong khuôn khổ" vẫn phổ biến. Đôi khi chúng ta đang thay nhiệm
vụ của nhà nước, lo là nhà nước không quản lý nổi. Hoặc đơn giản vì đa số thời
điểm ta là số đông hưởng lợi. Các tài liệu về quyền con người truyền thống vì
thế có vẻ nặng về việc làm thế nào để nhà nước quản lý được mà không vi phạm
các quy định về quyền con người chứ không phải xuất phát từ việc làm thế nào để
con người tự do và không xung đột. Nó dẫn đến đôi khi ta tìm hiểu về những quy
định về giới hạn quyền tự do theo chuẩn mực quốc tế thì lại phải lận đận phân
tích câu chữ của từng quy định trong công ước và tranh cãi không hồi kết như thế
nào là thoả đáng để đảm bảo ta "lách" được chuẩn mực. Thay đổi mục
đích nghiên cứu có lẽ sẽ giúp ta hiểu hơn về tự do, cũng như thay đổi góc nhìn
từ phe đa số thành người thiểu số cũng sẽ giúp ta thấy rõ sự chật hẹp của
"khuôn khổ" mà ta từng ca ngợi.
Tiếc rằng những lời mời như vậy tuy chỉ là số
ít so với diễn ngôn "tự do trong khuôn khổ" nhưng khi nói ra lại thường
bị phê phán là dân tuý, là không chịu nghĩ cho nhu cầu quản lý của nhà nước, là
bỏ qua xã hội đông đảo...
.
No comments:
Post a Comment