Câu hỏi
đã được các học giả tham gia "bàn tròn BBC" đặt ra, sau khi Tòa CPA
ra phán quyết ngày 12-7 về vụ Phi đơn phương kiện TQ về các cách diễn giải và
áp dụng bộ Luật Biển 1982.
Kết quả
phán quyết ra rao mọi người đều biết. Phi đã thắng lớn trong vụ kiện.
Đường
chữ U chín đoạn, yêu sách của TQ về "quyền lịch sử" (và trong chừng mực
"danh nghĩa lịch sử") ở khu vực Biển Đông đã bị Tòa bác bỏ. Đơn giản
vì các yêu sách về lịch sử này đã không được TQ chứng minh. Dầu vậy, theo Tòa,
ngay cả khi các yêu sách (lịch sử) này được chứng minh, chúng cũng không còn ý
nghĩa, vì nó đi ngược lại tinh thần Công ước về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Tòa
cũng cho rằng các đảo thuộc TS không có cái nào được xem là "đảo" để
có thể yêu sách vùng "kinh tế độc quyền" 200 hải lý. Phán quyết
12-7-2016 vì vậy hạn chế yêu sách của TQ thể hiện qua tấm bản đồ (đường 9 đoạn)
gởi lên LHQ năm 2009.
Trên lý
thuyết, yêu sách đường chữ U chín đoạn của TQ không còn lý do hiện hữu (ở vùng
biển TS) nữa. VN vì vậy cũng thắng lớn.
Nguyên
nhân thất bại của TQ, dĩ nhiên đến từ các yêu sách vừa phí lý, vừa quá lố của
nước này. Nhưng chính yếu là do TQ đã không tham gia vụ kiện. Các động thái của
TQ, ngay vừa khi Tòa bắt đầu nhận đơn của Phi, như cho bồi đắp, xây dựng các đảo
nhân tạo tại các bãi cạn, đá... mà họ chiếm được của VN năm 1988... đối với Tòa
là một sự khiêu khích trắng trợn, coi thường luật pháp quốc tế. Phán quyết ngày
12-7 của Tòa là một cái tát vào mặt TQ (và là một bài học cho VN). Đáng lẽ phán
quyết đã không đến đỗi nặng nề như vậy. Nguyên lý là kẻ vắng mặt lúc nào cũng bị
thiệt thòi.
VN kiện, hay đàm phán, về cái gì với TQ ?
Phán
quyết của Tòa CPA ngày 12-7 đã không chỉ giải quyết những tranh chấp giữa VN và
TQ tại khu vực TS mà còn mở cho VN nhiều cơ hội pháp lý (và ngoại giao) để giải
quyết Hoàng Sa, vấn đề đã bị "đông lạnh" ít ra từ năm 1975 đến nay.
Cho rằng
VN thắng lớn không phải là quá lố. Vấn đề Trường Sa coi như "không đánh mà
thắng", không mua mà được. VN còn có thể khai thác "chiến thắng"
này cho khu vực Hoàng Sa, tranh chấp giữa VN và TQ. Bao gồm : tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ và khác biệt lập trường phân định biển (đến từ các việc đối
kháng về cách diễn giải về Luật Biển như vùng nước quần đảo, tình trạng pháp lý
các thực thể ở Hoàng Sa...) .
Kiện, vấn
đề thuộc "pháp lý", đàm phán thuộc ngoại giao.
Vấn đề VN có thể kiện, hay đàm phán, TQ về
cái gì tại Hoàng Sa ?
Tranh
chấp về chủ quyền Hoàng Sa giữa VN và TQ đã kéo dài hơn thế kỷ.
Từ thập
niên 30-40 của thế kỷ trước, nhà nước bảo hộ Pháp, đã hai lần thách thức TQ giải
quyết tranh chấp HS trước một trọng tài quốc tế. Cả hai lần TQ đều khước từ. TQ
cũng không hề "đàm phán" với nhà nước bảo hộ Pháp về Hoàng Sa. Họ chờ
dịp thuận tiện thì ra tay. Tháng giêng 1974 mở ra cho TQ cơ hội ngàn năm: VNCH
đang bị VNDCCH uy hiếp về quân sự trong khi "đồng minh" Mỹ đã rút lui
theo Hiệp định Paris 1973. TQ đưa quân chiếm trọn HS, qua một cuộc chiến bất
cân xứng về lực lượng giữa hải quân TQ và hải quân VNCH.
Sau
1975, VNDCCH thắng trận và "thống nhứt đất nước", không thấy hai bên
VN và TQ đá động gì đến HS. Chỉ đến tháng giêng 1979, chiến tranh biên giới
bùng nổ, VN ra tuyên bố về chủ quyền của VN tại HS và TS cũng như giải thích lại
nội dung các tuyên bố đơn phương trước đây của VN liên quan đến chủ quyền HS và
TS (như công hàm 1958).
Hòa
bình được thiết lập, bang giao hai bên Việt-Trung được hàn gắn, từ đầu những
năm 90, qua hệ quả của Hội nghị Thành Đô.
Từ đó đến
nay không hề nghe có "đàm phán" nào giữa hai nước về Hoàng Sa. Việc
phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt, tiếp nối theo việc phân định Vịnh
Bắc Việt (hiệp ước ngày 25-12-2000), vẫn trong tình trạng bế tắc mặc dầu công
trình phân định Vịnh Bắc Việt đã kết thúc từ lâu. Nguyên nhân dĩ nhiên đến từ
tranh chấp chủ quyền cũng như hiệu lực các đảo HS.
Cho đến
khi TQ kéo giàn khoan HY 981 đặt trên thềm lục địa VN, cách đảo Lý sơn của VN
khoảng 100 hải lý, cách đảo Tri Tôn (thuộc HS) khoảng 20 hải lý. Mâu thuẩn giữa
hai bên VN và TQ mới được biểu lộ ra trước công chúng. Đối với VN, hành vi TQ đặt
giàn khoan HY 981 nhằm thám hiểm, thăm dò thềm lục địa là xâm phạm đến quyền chủ
quyền, quyền tài phán của VN, được thiết lập theo Luật Biển 1982. Lập luận của
TQ là giàn khoan HY 981 hoạt động trong khu vực biển và thềm lục địa của quần đảo
HS.
Khủng
hoảng đem đến do giàn khoan HY 981 hiển nhiên bắt nguồn từ việc đối kháng cách
diễn giải bộ Luật Biển 1982 về "hiệu lực các đảo" thuộc quần đảo
Hoàng Sa theo điều 121. Ngoài ra còn có quan điểm của TQ về "vùng nước quần
đảo", thể hiện qua hệ thống đường cơ bản của quần đảo HS mà TQ đã công bố
từ năm 1996.
Khủng hoảng do giàn khoan HY 981 đem lại ít nhiều hệ quả trong xã hội VN. Dầu vậy vẫn không có "đàm phán" nào giữa hai bên VN và TS về vấn đề Hoàng Sa.
Tin tức
từ trong nước cho biết, từ lâu, TQ không nhìn nhận "có tranh chấp với VN về
HS". Đối với TQ, HS là chuyện đã rồi, đã thuộc về TQ. TQ không chấp nhận bất
kỳ một "đàm phán" nào với VN về vấn đề này.
Sau vụ
giàn khoan HY 981, ta có thể khẳng định rằng tin tức nói trên là đúng.
Không hề có "đàm phán" nào giữa VN với TQ về vấn đề HS. Vị trí mà TQ đặt giàn khoan cho ta biết yêu sách về biển của TQ.
Vì vậy,
ý kiến các học giả VN trên "bàn tròn BBC" hết sức là "bồng bột"
khi cho rằng VN "không đàm phán song phương với TQ".
Chưa
bao giờ TQ muốn ngồi vào bàn đàm phán với VN về vấn đề HS cả.
Nhưng từ
phán quyết ngày 12-7 của Tòa, VN có thể "ép" TQ ngồi vào bàn
"đàm phán" với mình về tranh chấp Hoàng Sa.
VN có thể vịn vào 3 khoản : 1/ các đảo
HS, tương tự như TS, không có cái nào phù hợp cho đời sống một cộng đồng dân
chúng cũng như có thể có một nền kinh tế tự tại. 2/ không hiện hữu vùng nước quần
đảo và 3/ ngư trường Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của ngư dân VN.
Từ những
luận điểm này VN có thể "đàm phán song phương" với TQ để thực hiện
các điều:
1/ phân
định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt và xác định đường phân định giữa bờ biển
VN và đảo Hải Nam. 2/ Trong vùng lãnh hải 12 hải lý các đá thuộc HS là ngư trường
lịch sử của VN.
Đàm
phán "song phương", bởi vì các việc phân định biển và việc xác định
ngư trường truyền thống các đá ở HS là chuyện "riêng" giữa VN và TQ.
Chỉ khi
nào TQ một mực từ chối "đàm phán", lúc đó ta mới có thể nghĩ đến việc
đi kiện.
Bởi vì,
việc "đi kiện" (trước Tòa án về Luật Biển) chỉ được một bên áp dụng
khi mà mọi phương án "ngoại giao" (tức đàm phán) đều cạn kiệt. Luật
Biển 1982 xác định rõ việc này ở các điều 281 và 282.
VN bị
ràng buộc bởi các tuyên bố chung VN-TQ, theo đó hai bên giải quyết các tranh chấp
thông qua thủ tục "đàm phán" và (việc đàm phán) dựa lên căn bản:
" tuân thủ những nhận thức chung quan trọng
đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước... nghiêm túc thực hiện những
Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt
Nam - Trung Quốc".
Do đó,
ngay khi cả việc "đàm phán" đã kiệt, vì TQ không chấp nhận đàm phán,
như vụ giàn khoan 981, việc đi kiện đối với VN vẫn không dễ.
Chúng
ta đâu ai biết được "những nhận thức của lãnh đạo" về HS và TS là gì
? Lãnh đạo này là ai ? (Nếu là ông Hồ hay ông Đồng, thì VN xem như mất HS và
TS).
Những "thỏa thuận" giữa hai
bên về "nguyên tắc cơ bản" gồm những nguyên tắc nào ?
Vì vậy,
theo tôi, nếu ta không làm sáng tỏ những chi tiết ghi trên thì việc "lo liệu
hồ sơ" đi kiện cũng hoài công.
Bởi vì,
tranh chấp giữa VN và TQ về HS đã trên 100 năm, tranh chấp TS bắt đầu từ sau Thế
chiến Thứ hai, cũng đã tròn 70 năm. Từ 1975, VN đã có vô số cơ hội đi kiện TQ để
giải quyết vấn đề mà VN đã không đi kiện.
Tranh
chấp giữa TQ và Phi chỉ bộc phát mới đây. Phi chỉ bắt đầu yêu sách một số đảo
TS từ thập niên 50, mà nguyên tắc về thụ đắc chủ quyền lãnh thổ của Phi cũng
không tuân thủ theo tập quán quốc tế. Phi chỉ kiện TQ qua sự việc TQ chiếm các
đá Scarborough, uy hiếp quân Phi ở bãi Cỏ Rong, cho xây dựng đảo nhân tạo ở bãi
chìm Vành Khăn... Tức những sự kiện chỉ xảy ra mới đây, không quá 5 năm.
VN không kiện TQ hẵn nhiên có một số lý do tiềm
ẩn. Và có thể VN sẽ không bao giờ kiện được TQ, cũng bởi những lý do tiềm ẩn
này.
Nhưng từ
phán quyết 12-7 của CPA, VN có thể vịn vào một số phán lệnh làm cơ bản, từ đó
"ép" TQ ngồi vào đàm phán với mình về Hoàng Sa. Khi TQ chấp nhận đàm
phán, tức là TQ đã nhìn nhận "có tranh chấp" ở HS.
Vì vậy
lý lẽ của các học giả "không đàm phán song phương với TQ ở HS" không
chỉ "bồng bột" mà còn thể hiện sự phi lý.
Nếu đi
kiện, VN cũng không thể kiện ra ngoài nội dung các bảo lưu của TQ (về chủ quyền,
về phân định biển). VN chỉ có thể kiện ở các nội dung tôi đã liệt kê ở trên. Mà
theo các điều 282, 283 của Luật Biển, VN chỉ có thể kiện khi "đàm
phán" đã kiệt.
Ý kiến
của các học gia không chủ trương VN đàm phán với TQ, vậy thì VN có thể làm cái
gì ?
Nếu kiện
thì kiện cái gì ? kiện ở đâu ?
No comments:
Post a Comment