VÕ PHIẾN
Như Cây Tre Việt Nam’s Blog
THỨ BA, NGÀY 29 THÁNG 9 NĂM 2015
VÕ
PHIẾN, một trong rất ít những nhà văn Việt Nam bén nhạy về
chính trị, vừa qua đời.
(20/10/1925 – 29/09/2015)
Bắt
trẻ đồng xanh, nhận định có tính
tiên tri của Võ Phiến xuất bản trên Bách Khoa tại Sài Gòn
tháng 10/1968. Như Cây Tre
Việt Nam trân trọng giới thiệu:
Dưới đây là một bài
viết của nhà văn Võ Phiến, viết vào năm 1968, nói về việc chế độ miền Bắc đưa
trẻ em ra Bắc để huấn luyện rồi đưa trở về miền Nam. Bài viết này được đặt dưới
tựa đề Bắt Trẻ Đồng Xanh. Phần đầu, Võ Phiến nhắc đến việc tập kết bộ đội và
các thiếu nhi ra Bắc sau khi ký kết Hiệp Định Genève năm 1954. Sau đó Võ Phiến
nói đến việc vào thời đó, năm 1968, nhiều toán thiếu nhi cũng được đưa ra Bắc
theo lối đường mòn Hồ Chí Minh giống như thời 1954. - Minh Đức
*
Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những
xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa nhỉ? Làm gì bây giờ?
Trong bao nhiêu năm trời, chúng ta đã quen
với nếp sống chiến tranh đến nỗi hòa bình làm chúng ta bối rối. Nhưng thiết
tưởng ngưng chiến không đáng làm chúng ta bận tâm đến thế. Chiến
tranh này sắp kết thúc, bằng cách này hay cách khác, hoặc sớm hơn một ít
hoặc chậm hơn một ít. Chuyện phải đến rồi sẽ đến, nó xảy đến
ra sao dường như cũng đã được trù liệu.
Cái đáng bận tâm là những điều tiếp theo
cuộc ngưng chiến ấy.
— Thì các vị lãnh đạo của chúng
ta đã tiên liệu rồi: đấu tranh chính trị chứ gì? kinh
tế hậu chiến chứ gì?
Đấu tranh chính trị, nó hiển nhiên quá,
nó sờ sờ ra đấy, tưởng như rờ mó được. Nói rằng
trong giai đoạn tới ta với cộng sản phải đấu tranh chính trị với
nhau, nói thế gần như không phải là tiên liệu
gì ráo. Đó là đối phó. Chuyện ấy đến ngay trước mắt
rồi, ta buộc lòng phải đối phó tức khắc, thế thôi.
Nhưng nói thế còn là khá. Hầu hết mọi người
chỉ chăm vào những cái gần hơn nữa: hàng mấy trăm ký giả mỗi tuần
bu đến phòng họp báo của các phái đoàn Hoa Kỳ và Bắc Việt để ghi
lấy dăm ba câu tuyên bố loanh quanh, các bình luận gia khét tiếng của báo
này báo kia, đài này đài nọ bóp trán suy đoán xem lúc nào
thì ngưng oanh tạc dưới vĩ tuyến 19 v.v… Thiên hạ theo
dõi ý kiến của họ.
Trong lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội
lặng lẽ lo liệu công việc mai sau: tức một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc
chiến tranh quân sự hẳn hòi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị,
ngoài sự chú ý của dư luận: các bình luận gia có tiếng,
khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến chuyện ấy.
Thế mà đó mới là chuyện đáng
quan tâm. Thiết tưởng là chuyện đáng quan tâm hơn cả vào lúc
này. Bởi vì nếu ta mù tịt về ý định của đối phương trong
tương lai thì trong cuộc đối thoại thương thuyết với họ hiện thời
ta làm sao biết đặt ra những điều kiện cần thiết?
Cuộc bắn giết sắp tới giữa Miền Nam và Miền Bắc đã được
cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm
mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước
ngày đình chiến theo hiệp định Genève.
Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble
buộc Hoa Kỳ vào tội gây chiến tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia
tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại Sài Gòn cãi lại: Mặt trận Giải
phóng Miền Nam đã thành lập từ năm 1958 và ra mắt ngày
20-12-1960, còn người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử trận trên lãnh
thổ Miền Nam ngày 22-12-61.
Người của pháp luật, họ cãi lý với nhau, họ bắt
bẻ nhau như thế. Không hiểu sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải
phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều người đã đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc,
và xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng
Lao động đã đẻ ra Mặt trận này.
Mặt trận này, mặt trận nọ…, đó là những
bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho cộng sản đặt tên rõ ràng
các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là
nghĩ tệ về họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp
như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi đã từng xảy
ra nhiều hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động
không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng.
Khi họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước
Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đình với Pháp để giữ lấy
nửa nước, thì họ đã đặt ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia,
phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch “giải quyết”, cùng
lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không
phải năm 1958.
Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa
ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được
họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến
tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Lúc ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo
nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào Miền Bắc. Di
cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức
già thì vào theo nhà nước để lãnh hương hưu, các cụ cố thì theo
con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu
v.v…
Cũng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp
lang:
— Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở Miền
Nam;
— Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một
số cho ở lại: có hạng được bố trí để len
lỏi vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường
dân chờ thời cơ, có hạng đổi vùng để hoạt động,
có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động
v.v…
— Địa chủ, phú nông, trót bị ngược đãi
tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành để xóa
bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu,
vì xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ;
— Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai
trẻ có thể làm việc đắc lực và sản xuất giỏi cùng hạng
có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược
có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ý gây phân ly
chia cách, làm thế nào để mỗi gia đình đều có kẻ đi
người ở;
— Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần
tập kết ra Bắc và dân chúng Miền Nam: đặc biệt là tổ chức
những đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt
cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những
cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi
gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác
v.v… là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết
và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau
phải làm nội tuyến cho chúng.
Ngay từ đầu, tình cảm của những người
này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu. Thái độ và hoàn
cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương lo ngại, đề phòng.
Do đó, họ thành một khối người dần dần sống cách biệt, nếu không
là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp đối xử vụng
về bị khai thác, một vài sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu
thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng. Rồi một ngày kia, chuyện được
tính trước sẽ xảy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đình có đứa
con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó,
có kẻ lạ mặt lẻn vào nhà, lén lút trao cho xem một
lá thư và một tấm hình mới nhất của con hay của chồng từ Bắc
mang vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt,
dù biết họ đang gây loạn. Đã không tố giác được,
tất phải che giấu, nuôi dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc
khác, gia đình nọ dần dần đi sâu vào sự cộng tác với tổ chức
bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn
vào hàng ngũ của họ.
Chính vì như thế mà thư từ hình
bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt quan trọng: những
năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động,
trong người họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, hình
bóng của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng
giúp họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên.
Gây được cơ sở quần chúng, vận động được
sự đóng góp số lương thực tiền bạc cần thiết để nuôi quân rồi,
bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được
thành lập, các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới
có cái Mặt trận Giải phóng ra đời.
Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu
từ những bất mãn chống một chế độ độc tài gia đình trị,
không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài Gòn từ chối
cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai
sanh mặt trận nọ mặt trận kia.
Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc
liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập
kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc
tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau
ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng
cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của
cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959,
mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân chúng Miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn
tới tấp, những công việc bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng
sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc.
Trong hoàn cảnh rộn ràng bấy giờ, nếu không
vì lý do quan trọng, chắc chắc đảng và nhà nước cộng sản
hồi ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh
như thế.
Chắc chắn. Dù tìm trong bất cứ thời kỳ lịch
sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo
vợ cho quan binh túi bụi đến chừng ấy.
Cũng như hiện nay, trong giai đoạn ác
liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do
quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao
giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải
qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy
hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao
mòn suy kiệt dọc đường.
Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản họ nhằm
làm nhẹ một gánh nặng nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng Kinh tế hoặc
Xã hội của chúng ta. Mọi người đều rõ, tại Bắc Việt và Trung Cộng,
người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái.
Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng
sản họ nhằm giúp ông tổng trưởng Giáo dục của chúng ta một tay để giải
quyết nạn thiếu trường ở trong này.
Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt
kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa, họ bối
rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít
ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công nghìn việc, nếu chuyện bắt
trẻ Miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt thì họ không
hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch
bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người
ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt
Nam Cộng hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho,
Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi
cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường
mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp
gáp.
Họ bổ sung quân số đó chăng? — Không đâu.
Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi.
Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm
sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương;
chứ thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng
ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ sung
quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang
tổ chức chiến cuộc mai sau đấy.
Đem chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy
nghiệm về lần này, chúng ta thấy trước dăm ba điều họ sẽ làm
sau khi thỏa ước ngưng chiến được ký kết:
— Họ sẽ bỏ lại Miền Nam tất cả những
thương phế binh, những cán bộ lâm nạn, tàn tật v.v… Mang mỗi phần
tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động
tâm lý trong quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại,
họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế Miền Nam;
— Lúc cuộc “chiến tranh chính trị” mà các
nhà lãnh đạo Miền Nam vẫn nói được bắt đầu, thì bao
nhiêu ức vạn gia đình có con cháu ra Bắc (và những
cô gái có chồng lính cưới vội cưới vàng trước khi về Bắc nữa)
hóa ra những thành phần mà chánh quyền ta không sao lôi kéo tranh thủ nổi.
Lòng họ hướng về những con tin ở ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng
họ do nhà đương cuộc Miền Bắc định đoạt. Thái độ của
họ khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài
biện pháp kỳ thị vụng về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất mãn,
chống đối v.v…
— Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc
lại lén lút xâm nhập, mang theo thư từ của con, của chồng họ: họ mừng
như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với những cán bộ nọ,
cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho chồng con họ sớm
trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v…
Cán binh gốc người Miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại
phái trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động,
họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ ra đi
lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao
xuyến gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa
tránh được tác động tâm lý bất lợi; họ lại được mong
chờ đón đợi ở Miền Nam; và họ thông thạo am hiểu
về dân tình cùng địa thế Miền Nam.
Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng
bằng Nam Việt bát ngát, phì nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất
hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến cuộc mai sau
ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao mong ước
ngưng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng
chưa đúng: thực ra các tài liệu về “Vấn đề gửi các cháu ra
Miền Bắc” đã được phổ biến trong hàng ngũ cộng sản từ tháng
4-68, và thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức là liền
ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống
thang chiến tranh để đi tới điều đình.
Điều đình để nghỉ ngơi, đối
với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều đình đối
với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được
keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến thế nầy,
theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc. “Thế này
rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được! Sao có thể quan niệm
một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?”
Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với
một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc
cho Miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào
v.v… Ý tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch
tấn công quân sự. Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai
là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau
thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã chọn
nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà Miền
Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu
từ nửa năm nay rồi.
Trước một đối thủ như thế,
thái độ của những chính khách Việt Mỹ hằng ngày đấm ngực đồm độp,
băn khoăn, tự trách mình cái lỗi không kết thúc được chiến cuộc,
thái độ ấy ngây ngô đã đành. Thái độ của những
người hớn hở với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho
cùng cũng mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm hòa bình trước mắt mà
hí hửng tính chuyện xây dựng, mà mơ cảnh thịnh vượng?
Rồi đến thái độ của những kẻ nhìn xa để báo động về
một cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối phương rồi đây chỉ có hoạt động
chính trị, như vậy không khác gì chỉ vào con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự
lừa mình, như giúp địch ngụy trang.
Dù cho chỉ có chiến tranh chính trị với
nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh nào, phong trào
nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có con
cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết
phục được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn
người, cộng sản Bắc Việt đã có trong tay một lực lượng to lớn
hơn mọi đoàn thể chính trị của chúng ta, lực lượng nằm ngay
trong lòng quần chúng ta, hàng ngũ ta, mà hoạt động. Ấy
là chỉ so sánh về lượng. Mặt khác, trong số các đoàn
viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia v.v… hạng thực sự nhiệt
thành vì lý tưởng được bao nhiêu? Và riêng trong hạng nhiệt
thành có được bao nhiêu kẻ mà lòng thiết tha đối với lý tưởng
có thể mạnh hơn lòng thiết tha với chồng con của những phần tử bị cộng
sản lợi dụng kia?
Dù cho chỉ có đấu tranh chính trị với
nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống
chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán
cho đối phương. Còn họ…, nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới
mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa,
thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu.
Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta
không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược
của ta.
Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi
vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào
lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất
gan đồng dạ sắt.
— Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt
cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe
nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây
trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon
men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. — Thì Hồ Chí Minh
chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.
Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng
vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm
quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên truyền chính trị,
nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải thứ tuyên
truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các nước tự do,
mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử dụng
các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các
quốc gia độc tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xã v.v…
Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên
truyền ấy xóa cho mình cái chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta còn
hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người vì đã tổ chức
giặc giã trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước,
trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài nhất
cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc gia họ với
những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta còn hóa thành chính trị gia
khôn ngoan, thành “cha già dân tộc” dưới mắt nhiều người, trong
khi ở các xứ khác cùng lâm vào tình trạng lưỡng phân không
có chính quyền nào nỡ giải quyết tình trạng một cách vô hiệu
mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực khăng khăng
chủ trương hết cuộc tàn sát này đến cuộc tàn sát nọ, không một mảy
may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm làm cho cả nhân loại đều ái
ngại.
Người như thế, không biết lòng dạ ra sao,
tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người, vừa chứa đầy những kế hoạch
xua ngay đồng bào mình vào chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho tình
yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.
Những lời trên đây không được nhã nhặn.
Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy làm ngượng
về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải
qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mặt một viễn tượng đầy
máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng
bình thản để nói lời tao nhã.
Có thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi
cuộc tàn sát nọ là vì nguyện vọng dân tộc? — Trời, dân
tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đòi
hành động nhân danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một
nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu
là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn
là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi
chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy
về.
Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe
mắt thấy đã nhiều, từng trải việc đời đã nhiều, ông
ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ khoác
lác, những hứa hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa
rõ những gì đê tiện xấu xa xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên
truyền, thừa rõ sống ở Đông Đức đâu bằng ở Thụy-điển,
Hòa-lan, thừa rõ con đường từ Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến
dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.
Mà dù ông ta có không nghĩ như thế, có cho
rằng Tiệp-khắc sung sướng và tự do hơn Thụy-điển đi chăng nữa,
thì sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi
lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông
ta để cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều đọa đày
vì ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống
cho ra sống trong ít lâu.
Đã không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông
ta hành động vì lẽ đảng ông ta nhất định phải thắng
các đảng khác, vì lẽ người như ông ta không chịu thất bại nửa đường?
— Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào
vì tranh hơn tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng bào không
xót thương đến thế? Người ta có thể vì tức khí, nóng giận
mà tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời.
Còn ông, ông dai dẳng quá.
Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng?
Vì cái gì ông ta cũng đáng trách đáng giận quá.
Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận
hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu thị tình cảm: thật vu vơ,
vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động
thích hợp. Lời nói — dù nhã hay bất nhã — rồi sẽ bay đi
theo mây gió. Chỉ có hành động mới sửa đổi được tình thế.
Mà hành động thì…
Thì rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt
tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng hòa bình, rồi tiếp sau đó sẽ bất đồng
cãi cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau
làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến
chiến tranh chính trị. Thế thôi.
Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển
cán bộ của họ ở trong nầy âm thầm nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi
ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh
bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.
Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang
sống an lành bỗng bị quấy rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi
cuốn vào chiến cuộc, lấy làm lo ngại, bực mình, quay đầu về cái xứ lắm
chuyện này nhìn bằng cái nhìn xoi mói, nghiêm khắc, trách vấn: “Rầy
rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử không nên thân.
Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn
giáo v.v… khiến dân chúng bất mãn nổi lên chống chế độ. Dung dưỡng
những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai
hại v.v…”
Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc
phạm, các nhà triết học gọi nhau họp ở Thụy-điển, các luật gia rủ nhau
họp ở Grenoble v.v… trịnh trọng suy tư, trịnh trọng bàn cãi, rồi
lên án, kết tội v.v… Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội họ chỉ cần
khéo che miệng nín cười. Đó là điều quan trọng: họ không được
phép cười. Họ không được phép chế giễu lương tâm
và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ;
họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.
Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu
không nổi những đòn đánh từ bên ngoài và những dằn xóc từ bên
trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau; hoặc
bên phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật chì, cộng sản
liệu ăn không nổi, thế là lại điều đình và lại xếp đặt
một kế hoạch khác… Như vậy không biết đến bao giờ.
Còn ba mươi hai năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI.
Nhiều người xem như bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới:
con người sẽ không chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến
nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực lạc,
nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua
nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ hậu.
Như thể cá vượt Vũ Môn.
Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi hai năm nữa e vẫn
còn đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa nước dìm nhau trong bể máu. Các
dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô nức,
hy vọng ở thế kỷ XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn
có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc
này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ.
Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh
ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi
rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc
này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các
em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho
các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đã sáu tháng
qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, để nghĩ cách
cứu các em, thì cũng đã muộn.
Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng chờ?
Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình, ngày ngày báo
chí chỉ những rập rình từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các
em những ý nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối.○
*Nguồn
văn bản: Minh Đức Blog
Được đăng bởi Pham Hong Son vào lúc 22:14
No comments:
Post a Comment