Hạ Đình
Nguyên
07/09/2014
Có ba vấn nạn cho Việt Nam hôm nay:
– Trung Quốc Cộng sản đang là một đe dọa nghiêm
trọng chủ quyền Việt Nam.
– Thể chế nhà nước Việt Nam đang là một thể chế bất hợp
lý, độc tài và tham nhũng.
– Ý thức hệ mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang theo
đuổi, chính xác là một ảo tưởng.
Vận nước cũng giống quy trình của một đời người:
“Một thời để yêu, một thời để chết” (tên một tác phẩm của Maria Remarque). Nói
theo phong cách triết học hiện đại thế kỷ 20: Một thời dấn thân (s’engager),
một thời tháo gỡ (desengager).
Việt Nam đang tuột vào con dốc ứng với vế hai của
quy trình, một thời để chết, hoặc một thời tháo gỡ. Do đó, các từ ngữ thoát
Trung, thoát Cộng, hay thoát Ảo… xuất hiện, và có chỗ đứng chính đáng của mình,
nó biểu hiện nổi trăn trở của một giai đoạn có nhiều nguy cơ biến động, mà Việt
Nam đang đối diện.
Đó là những từ ngữ đang nhảy múa trong đầu mỗi người
dân hôm nay. Cái nào trước cái nào, cái nào chính, cái nào phụ đang là sự tính
toán của những người làm chính trị, hoặc là những người quan tâm đến thời cuộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam với khoảng ba triệu cái đầu sáng tối khác nhau, cũng
không dễ có sự thống nhất đơn giản.
Thoát
Trung
Chiếc giàn khoan HY 981 đã mở tung nắp đậy chiếc
quan tài lịch sử, từ đó bật lên tiếng kêu thất thanh “thoát Trung” của dân
Việt. Tiếng kêu ấy ngày càng trở nên khẳng định và quyết liệt, nhắm vào kẻ xâm
lược, đồng thời liền theo đó, xuất hiện một câu hỏi lớn của nhân dân về vai
trò và trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay.
Câu hỏi đó vừa có tính chất lịch sử, vừa là dự báo
cho một chuyển biến mới, mà Đảng Cộng sản Việt Nam không thể không tự trả
lời mình, và trả lời cho dân chúng, cũng là cho quá khứ và cho tương lai.
Thoát Trung là một nhận thức đã trở thành ý chí, gần
như một khẩu hiệu tự phát của các tầng lớp nhân dân được lan truyền nhanh chóng
trong cả nước, kề từ sau ngày 2 tháng 5, khi chiếc giàn khoan HY981 xuất hiện,
hạ neo ở vùng lãnh hải Việt Nam.
Sự kiện giàn khoan minh chứng một cách công khai,
trắng trợn âm mưu của Tàu chiếm đoạt Biển Đông, uy hiếp chủ quyền Việt Nam. Từ
đây, Tập Cận Bình cũng đã mặc nhiên công khai xé toạc “thông cáo chung” giả dối
mà Hồ Cẩm Đào ký kết với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một cách đáng mỉa mai
thay, qua đó xác định Tàu là nước đối tác “chiến lược và toàn diện”. Với nó,
Tàu đã trùm bóng đen lên đầu Việt Nam.
Thì ra, những sự thật lịch sử đau lòng ẩn bên dưới
các “thông cáo chung” đã từng úp mở và che đậy, nay đã được phơi bày: Công hàm của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, các thông tin tiết lộ về hội nghị Thành Đô, từ hồi
ký của cố Thứ trưởng Trần Quang Cơ, từ Wikileaks, từ báo Hoàn Cầu và truyền
thông nhà nước Trung Quốc, đã hội tụ và khắc họa nên một bức tranh sự thật, dù
Đảng Cộng sản Việt Nam chưa công khai bạch hóa cho dân chúng biết, nhưng sự
thật có vẻ ê chề ấy được minh chứng và lý giải qua các thực tế diễn ra hơn hai
thập kỷ trên khắp đất nước Việt Nam.
Đó là vấn đề “xét lại” – một từ ngữ từng
nhuộm máu đó đây – toàn diện, mang tính đồng loạt, hay đúng hơn, là sự bừng
tỉnh cộng đồng sau cơn mê dài, là cái phần đuôi còn lại của một thời kỳ
xã hội chủ nghĩa đã sang trang. Nó trở thành nỗi lo âu và giận dữ chính đáng,
cấp bách, rộng lớn, của nhiều thành phần dân chúng, cả cán bộ, đảng viên trong
bộ máy công quyền. Nó không hề là một “phản ứng” cục bộ, sự vụ, lẻ tẻ để có thể
đáp ứng dễ dàng, hay là lời giải thích dễ dãi, hoặc là bị bóp chết từ trong
trứng nước nếu ai đó muốn.
“Thoát Trung” mang ý nghĩa cụ thể: thoát ra khỏi
vòng vây chiến lược “đại cục” của Trung Quốc về các hình thái xâm lược bằng sức
mạnh mềm, và sức mạnh bạo lực đang diễn ra, được thể chế hóa, công khai hóa qua
các “thông cáo chung” và các ký kết khác của hai bên, bao gồm mọi mặt, từ tư
tưởng Đại Hán mang danh chủ nghĩa xã hội, hình mẫu thể chế chính trị, các âm
mưu hợp tác để phá hoại kinh tế, hợp tác chiến lược để bao vây cô lập quân sự,
kiềm chế quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước khác, v.v. (như lời “mật
truyền” của Mao).
Thoát Trung là sự tháo gỡ ra khỏi các ràng buộc thâm
căn cố đế về mặt trái của nó, từ lúc khởi đầu cuộc chiến tranh đến nay, và giờ
đây, sự tháo gỡ không phải là dễ dàng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, vì cơ chế
của bộ máy, vì gắn liền với tư duy ý thức hệ đã từng thấm sâu, và các ràng buộc
vật chất khác. Thoát Trung là giành lại quan hệ bình đẳng của một Quốc gia có
chủ quyền, không lệ thuộc. Thoát Trung không có ý nghĩa là chống lại nhân dân
Tàu, tuyệt giao về văn hóa, hay lập tức cắt đứt về kinh tế, như một thế lực nào
đó muốn suy diễn quá đà, nhằm kín đáo chống lại xu thế “thoát Trung”. Cũng như
tư tưởng “cảnh giác” phương Tây và Mỹ, là nhằm mục đích níu kéo quan hệ 16 chữ,
tiếp tục thực hiện khẩu hiệu “thế lực thù địch” rất mập mờ, để trấn áp phong
trào chống xâm lược Tàu và đòi hỏi dân chủ. Đó là luận điệu yêu nước ngụy
trang, nêu cao tinh thần tự chủ giả vờ, thực chất là bảo thủ, không muốn dân
chủ, sợ hãi thay đổi, vì đặc quyền đặc lợi của một nhóm thế lực ẩn danh.
Không người Việt Nam nào còn mơ hồ về âm mưu bành
trướng Đại Hán khi nhìn vào thực tế, khi hiểu “Giấc Mơ Trung Hoa” mà Tập Cận
Bình đang ra sức thực hiện, và hiểu rõ lời của Mao Trạch Đông truyền cho hậu
duệ của họ, qua tài liệu mật được bạch hóa. “ …chúng ta phải tìm mọi cách làm
cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yếu mới có thể buộc họ ở trong
tình trạng hiện nay. Về bề ngoài chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình,
nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta…” (Xem:
“Từ văn kiện tuyệt mật chống VN đến 600 ngày tăm tối của Mao” – Một
thế giới, ngày 19–8–2014)
Thoát Trung là vươn lên ý thức độc lập, làm chủ lấy
mình, mở rộng liên kết thế giới với tư cách đầy đủ của một Quốc gia, không để
rơi vào con đường độc đạo u ám dẫn đến lệ thuộc Trung Quốc như nó đã diễn ra.
Thoát Trung là nhu cầu thực tế có ý nghĩa sống còn của Việt Nam hôm nay.
Thoát
Cộng
Có câu hỏi, tại sao phải thoát Trung? Việt Nam đã tự
mình “theo Tàu”, tựa gối gá vai vào Tàu, chứ từ lâu Việt Nam đã đứng riêng một
cõi Trời Nam, qua bao sóng gió vẫn quyết giữ nền độc lập của mình. Chính vì ý
thức hệ Cộng sản mới dẫn dắt đến sự lệ thuộc ngày nay, mới có tình nghĩa giang
hồ anh em khắng khít, mới có phương châm 16 chữ, mang ý nghĩa sự đồng hóa, như
trải thảm vàng để đón mời. Nó xóa bỏ sự riêng biệt tất yếu để một Quốc gia có
thể tồn tại, phản bội Tuyên ngôn độc lập qua Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
Phương châm 16 chữ (thập lục tự phương châm) của Giang Trạch Dân (tặng cho Đảng
Cộng sản Việt Nam, 1991) là một bài thơ xâm lược, thông qua “lý tưởng” Cộng
sản. Nó được nâng lên thành “16 chữ vàng”, phản bội dân tộc, mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đồng thuận tung hô, bộc lộ tính tự nguyện, khó thể biện hộ!
Nếu những thế hệ Cộng sản tiền phong của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nóng lòng vì giải phóng dân tộc, mà “ngộ” phải chủ nghĩa Vô sản
Quốc tế, thì có thể lấy trào lưu thời cuộc mà biện minh. Nhưng nay thời đại đã
khác, lạc hậu văn minh đã rõ, sao còn bám theo? Soi vào tấm kính chiếu hậu,
thấy hàng loạt các nước Cộng sản đã giã từ sân khấu. Còn soi vào hiện tại thì
kìa, Trung Quốc, cấp “Đảng Lãnh Đạo” đang no nê và nghiêng ngã, dân chúng của
họ thì khốn cùng và phẫn nộ – một lò lửa đang chờ bùng nổ.
Còn gì nữa mà mơ hồ về cái gọi là chủ nghĩa xã hội?
Việt Nam Cộng sản là một dấn thân tự nguyện, đâu thể
đổ hết cho Tàu? Cái âm mưu đành rằng của họ, nhưng cái mê lầm là của ta.
Thoát Trung, lại có nghĩa là thoát Ý thức hệ Cộng
sản, là nguồn cơn dẫn đến lệ thuộc. “Lý tưởng tương thông” là chiếc cầu cho
quân xâm lược bước qua. Thoát Trung là cấp bách nhưng căn nguyên chính là thoát
Cộng, đâu phải là không quan trọng!
Thoát
ảo
Có người cho rằng, cũng không có Cộng sản đâu để mà
thoát! Tự xưng là Cộng sản, nhưng trong lòng không tin vào ý thức hệ này, và
thực tế, nó đang tồn tại như một tấm bảng hiệu.
Có phải dân Việt Nam có bản chất là mơ mộng? Là ưa
thích cái mà mình không có? Việt Nam thoát thai từ một xã hội phong kiến lạc
hậu, chưa từng là nước phát triển, làm gì có “công nhân” để gọi là giai cấp
“tiên tiến”, rồi đến đội ngủ “tiền phong”? Đảng Cộng sản Việt Nam ban đầu có
bản chất và sức mạnh là yêu nước, “ý thức hệ” là chuyện mơ màng tạm thay cơm áo
trong lúc khó khăn. Niềm tin mơ mộng đó là biểu hiện của khát vọng tự do, đã có
vai trò hỗ trợ cho cuộc chiến đấu thành công, nhờ đó có thêm súng đạn và lương
khô. Về bản chất của “ý thức hệ’ là giai cấp, thì Việt Nam cũng đã trải qua
kinh nghiệm đẫm máu về cải cách ruộng đất, cũng như “ba ngọn cờ hồng” của Trung
Quốc, cũng như hàng triệu đầu lâu của phong trào Cộng sản Polpot tại xứ Chùa
Tháp.
Trên thực tế, từ trước đến nay, chỉ có “Đảng Cộng
sản” yêu nước chứ không hề có chủ nghĩa Cộng sản, dù là một chút mầm mống khả
tín. Cái quả có trước cái nhân, nó từ trên trời bay xuống, không có nền tảng,
nó nằm chơ vơ trên chiếc đệm rơm sơ sài dễ cháy. Đấu tranh giai cấp thực sự là
tai hoạ gây hận thù, chứ không thể động lực cho tiến bộ.
Cuộc trường kỳ kháng chiến đã đi đến kết thúc “thắng
lợi”. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang làm gì với thắng lợi đó, cho hiện
tại và tương lai, với cái thành tựu duy nhất làm hành trang mang theo, là những
nhịp đập rực lửa chủ nghĩa “anh hùng” đẫm máu?
Tương lai là hướng đến hình mẫu Đại Hán xã hội chủ
nghĩa, hay gương sáng siêu độc tài, siêu phong kiến Bắc Triều Tiên? Hay là mô
hình xã hội chủ nghĩa vừa siêu thực, vừa bí hiểm mà “đến cuối thế kỷ cũng chưa
chắc hoàn thiện”? Và liệu rằng cái anh hùng trong quá khứ có còn không? Và nó
có thay khoa học làm động lực tiến lên “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” được
không?
Đảng Cộng sản Việt Nam lại đang có niềm tin với
những khẳng định tự hào rất cần xem lại:
– Cuộc chiến đấu gian khổ, giành từng mảng rừng
xanh, từng cái buôn làng, từng con suối nhỏ đến con sông lớn, rồi giành được
nửa nước, rồi cả nước. Thế là hoàn thành “giải phóng đất nước”? Công
thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam vinh quang, lại quên rằng nhiều triệu thanh
niên đã ngã xuống và cả dân tộc đã chịu đau thương mất mát trong suốt cuộc
chiến tranh khốc liệt, bất kể là giai cấp nào?
– Nhân danh giai cấp vô sản, làm đại diện cho giai
cấp vô sản, đã tiến lên thành hữu sản, cũng là đại diện giai cấp
vô sản theo nghĩa di truyền. Thế là hoàn thành đấu tranh giai cấp? nghiễm
nhiên quay lại khai thác triệt để nhân dân – ngay thành phần nông dân và
công nhân nghèo khổ mà mình xưng là đại diện – bằng những chính sách có lợi cho
tầng lớp cầm quyền.
– Tiến hành thể chế “chuyên chính vô sản” với
mục tiêu gì? Để kiềm giữ lâu dài không cho giai cấp “tư sản ngóc đầu dậy”? Để
cho chủ nghĩa tư bản “tiếp tục giãy chết”, bằng cách dắt dìu con cháu mình nối
nghiệp, cũng lâu dài là đại biểu giai cấp vô sản theo nghĩa di truyền? Với
nhiệm vụ “cao cả và khó khăn” của chuyên chính vô sản, là phải tiếp tục kiên
trì dù cho đến cuối thế kỷ, dưới sự dẫn dắt bởi một đội ngũ tiên tiến và tiền
phong do Đảng chọn lựa, cũng trên cơ sở “truyền thống” của mình?!
Với những niềm tin trên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trở thành chủ nhân ông đích thực, rất chiến lược và toàn diện của đất nước!
Nhưng tất cả đều là ảo tưởng, vì nó phản khoa học,
nghịch với thời đại, và không đúng với thực tế. Vì thế phải thoát ảo tưởng này.
Việt Nam ngày nay, với thân phận tủi nhục và đắng
cay, đang ngước nhìn lên Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,
Malaysia, Indonesia…, họ không cần đến một thứ chủ nghĩa siêu phàm viển vông
nào. Người Việt hôm nay còn đang mơ ngày được hít thở bầu không khí của
Campuchia, Myamar, tuy là còn rất nhiều bụi bặm nhưng không độc hại bằng không
khí ở Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, Hà Nội.
Nay Đảng Cộng sản có nên tiếp tục mang bảng hiệu
“cộng sản” nữa không, khi mà chẳng có cái “chủ nghĩa cộng sản” ở đâu cả? Không
có đâu cả! Hay là tự mình bất chấp thời đại, dựng lên một cõi trời riêng xã hội
chủ nghĩa?
Giờ đây, không còn băn khoăn là thoát cộng, mà là thoát
ảo tưởng của chính mình.
Thoát
hệ lụy
Có nhận xét rằng, hiện tại Đảng không hề có ảo
tưởng, nên chuyện “thoát ảo” cũng là viển vông. Ngược lại, Đảng Cộng sản Việt
Nam rất thực tế, dù rằng không còn mấy ai thực lòng – ngay ở cấp lãnh đạo – tin
vào lý tưởng có bản chất là ảo tưởng của ý thức hệ, gọi tên là Mác–Lênin. Một
số lãnh đạo Đảng từng nói, phải “tập trung bảo vệ Đảng”, ấy là cái cụ thể, tức
là bảo vệ cơ cấu quyền lực và lợi ích hiện hữu của mình, tệ nhất cũng là cái
“sổ hưu”. Vấn đề là quá thực tế, chứ không phải ảo.
Thế hệ kế thừa đang dùng hình tượng Hồ Chí Minh làm
nền, khỏa lấp hệ thống lý luận đã hoàn toàn đổ vỡ, để làm điểm tựa cho niềm tin
của thể chế. Nhưng sự vay mượn hình bóng Hồ Chí Minh – hay là khai thác, tận
dụng triệt để – không đem lại tác dụng bao nhiêu, vì thời đại này đã vượt qua
giai đoạn của “tệ sùng bái cá nhân”. Nếu là vĩ nhân, hãy để vĩ nhân tự tỏa
sáng. Sự phục chế thô thiển sẽ làm cho bức tượng không còn nguyên trạng. Đảng
vẫn tự hào là đang tồn tại như một thực thể hùng mạnh, nắm trong tay bộ máy An
ninh, Quân đội, hệ thống Tư pháp và Nhà tù cùng với các nguồn lực quốc gia, đủ
sức để dập tắt bất cứ sự đề kháng nào trong nhân dân nếu có. Ngoài ra thì có đủ
các ban bệ, đoàn thể bao quanh, như vây và cánh.
Tuy nhiên, thực tế không diễn ra như ý muốn.
Người anh cả Trung Quốc, vốn đồng sàng nhưng dị
mộng, khi giở tấm khăn vàng ra, là con dao đã kề vào cổ!
Trong nước, quyền và lợi đã làm tha hóa tầm nhìn,
sinh ra “suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống” trong Đảng, với số
lượng “không phải là ít”. Từ đó, đất nước đã phủ kín một màu tham nhũng chứa
đầy xung đột, dưới muôn hình vạn trạng, vừa tinh vi, vừa trắng trợn đã tác động
làm xã hội băng hoại đến mọi ngõ ngách.
Với chiến dịch chống tham nhũng, người dân không tin
ngay từ lúc nó khởi động, vì tham những là con đẻ của thể chế, và thể chế ấy
không thể tự chống mình, nên nó chỉ là cuộc giành giật để thay lớp tham quan
này bằng lớp tham quan khác. “Hạ cánh an toàn” là câu nói trên miệng quan chức,
phổ biến, công khai, có nghĩa như một lời chúc mừng, là sở nguyện giữ thành quả
thu được sau một canh cờ gian bạc lận. Lẽ ra phải được hiểu đó là một câu nói
nhục nhã của cánh làm quan, biểu hiện bản chất một cỗ máy u ám và đầy cạm bẫy.
Đại bộ phận thanh niên thì cam chịu, thờ ơ, mất
phương hướng và không muốn vào Đảng. Một cây tầm vông được hơ quá lửa, uốn
ngược lại, thành ra bị gãy, ví như: “Thanh
niên e dè [vào đảng] là còn kỳ vọng vào Đảng” như lời phát biểu đủ độ vô
duyên của một cựu quan chức từng hãnh tiến một thời, là bí thư Thành đoàn TP
HCM – Nguyễn Chơn Trung.
Khoảng cách giữa Đảng và dân chúng ngày càng rộng,
mặc cho những lời hô của lãnh đạo: “Lấy lại niềm tin của nhân dân”, trong khi
guồng máy tham những cứ vận hành, các công cụ bạo lực không ngớt trấn áp và
truy bức công dân mà không cần một thứ luật pháp nào (mới nhất: vụ án Bùi Minh
Hằn, vụ khủng bố Đại tá Nhà văn Phạm Đình Trọng…).
Ở cấp dưới thường nói khi hành sự: “do trên chỉ
đạo”, trên bảo: “do ở dưới làm”, mọi sự thật chạy vòng quanh như kiến bò miệng
chén. Người dân không thể biết được ai chịu trách nhiệm về cái gì. Chỉ
có một từ ngữ đứng ra thay mặt mọi thứ: “Đảng” cùng với hào quang quá khứ của
nó! Nó vô hình vô bóng, nhưng bàng bạc khắp không gian, nó vừa là kẻ gieo hồng
ân, vừa là bóng dáng thần chết, tùy theo sự phân chia dòng chảy.
Các hoạt động văn hóa, xã hội thấm đẫm nhang khói
kinh doanh, báo chí Đảng thì rất kiệm lời tử tế, lại đầy khí thế hằn học, mang
chất giọng của quan tòa.
Nếu các thế hệ Cộng sản trước đây thiếu thốn vật
chất, nên lấy tinh thần làm sức mạnh, thì nay ngược lại, vật chất/quyền lực đã
phủ lấp, làm tê liệt tinh thần, đưa lẽ sống xuống mức thô lậu, rơi vào hệ
lụy thảm hại – một sự tha hóa ở quy mô cộng đồng dân tộc.
Bốn “thoát” trên đây đều là yêu cầu của thực tế, là
suy nghĩ của dân chúng, vì họ không chịu nằm yên để cho “Đảng lo”. “Đảng lo”
vốn là não trạng “bao cấp tư tưởng” bị trương phình đột biến, từ khi chiếc lưỡi
bò Trung Quốc xuất hiện. Người dân nghĩ rằng họ phải làm chủ cuộc sống của
mình, bằng cách tham gia vào tiến trình vận hành toàn diện của đất nước, theo
một thể chế phải có sự hiện diện tiếng nói đích thực của người dân, không cam
chịu bị chăn dắt như một bầy cừu, bởi một cỗ máy đã quá lỗi thời, nằm trong tay
độc quyền của một nhóm người ẩn trú trong cái vô hình gọi là Đảng.
Đâu là lý do mà Đảng lo sợ “mất niềm tin” của nhân
dân? Lẽ nào, “mất niềm tin” là do nhân dân tự mình muốn “không tin”?
Trong kinh của đạo Thiên Chúa khuyên tín hữu, hãy
lấy tay chỉ vào mình và nói: “Lỗi tại ta!”. Kinh Phật thì bảo, phải ngẫm lại
tấm thân mình chỉ là một thứ “giả hợp” của ba thứ “Tham - Sân - Si”. Còn “Đức
tin” của người Cộng sản Việt Nam hiện nay thì sao? Xin hãy tự định nghĩa thật
lòng, thử xem mình là gì? Có còn là phẩm chất “anh hùng, dũng cảm, trí tuệ”
trước Tàu? Có còn là “tiền phong, gương mẫu” trước nhân dân?
Ông Tổng Bí thư và ông Chủ tịch Nước vẫn “đều đều”
báo động “mất niềm tin của nhân dân”, nhưng có thể chưa nói đầy đủ ý nghĩa của
cụm từ này. “Mất niềm tin” bao hàm cả nghĩa: không trọng về tài, không tôn về
đức. Mà còn hơn thế, là căm hận, nếu Tàu còn đưa người vào đất nước, thực phẩm
độc hại còn tiếp tục tuồn qua, tài nguyên còn bị lấy đi, đất biển còn bị mất
thêm, kiêu binh còn hoành hành, dân dao búa côn đồ còn nổi lên… với bài hợp ca:
“cướp đêm là trộm, cướp ngày là quan”!
Cái lỗi sẽ không do duy nhất bất cứ một thành viên
nào, mà do trong thể chế không có mặt nhân dân. Cái lỗi của nhân dân là không
có mặt trong thể chế. Nhân dân đang thức giấc về cái lỗi của mình.
Một đòi hỏi vừa phải: Minh bạch – Thực hiện dân chủ
– Cùng nhân dân chấn hưng đất nước, bảo vệ chủ quyền.
Phải biến “một thời để chết”, thành một thời để yêu
chân và thiện.
Việt Nam đang ở trong một cơ may. Cả thế giới đang
tạo vòng vây, cô lập bọn hung hăng Đại Hán, Việt Nam không còn là đối tượng để
trở thành bãi chiến trường như thế kỷ trước.
Nhưng là ở cạnh chiến trường.
Tùy theo sự chọn lựa: Việt Nam độc tài, hay Việt Nam
dân chủ?
Còn nhân dân thì đã chọn, và xu thế thời đại cũng đã
rõ.
Cái thoát cô đọng cuối cùng, là thoát hệ luy
của một thể chế bất hợp lý, độc tài và tham nhũng.
2–9–14
H.
Đ. N.
Tác giả gửi BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:48
No comments:
Post a Comment