03:57:pm 11/09/14
Gần đây, một vài cuộc tranh luận về chủ trương hòa
hợp hòa giải đã tạo sự chú ý của dư luận cùng với việc nhiều nguời chuẩn bị
mang phái đoàn thương mại về Việt Nam. Những lời kêu gọi trên, thật ra, không
lạ lẫm gì với nguời Việt hải ngoại. Truớc đây, đã có nhiều nhà văn, nhà báo,
nghệ sĩ, chính trị gia đã từng lên tiếng trực tiếp hoặc gián tiếp về vấn đề này
và đã có rất nhiều nguời đã mang tiền về Saigon, Hà Nội… xin môn bài làm, ăn.
Số nguời thành công lớn hay thất bại thê thảm đều được báo chí tường thuật. Còn
những nguời khác thuộc nhóm kinh tài cho Hà Nội đang âm thầm tung hoành trên
đất Mỹ, mở chợ, mở dịch vụ chuyển tiền, du học, du lịch… Người tị nạn có thể
nghe giọng nói đặc biệt của “các đồng chí” đang chỉ tay năm ngón, và đồn đại
chợ này của Phan văn Khải, chợ kia thuộc “nón cối”, hoặc chỉ suy luận cũng đủ biết
sự hiện diện của Cộng Sản ở khắp nơi. Tuy nhiên, thực tế phũ phàng, những nguời
chống Cộng đã phải chấp nhận Luật chơi “Dân Chủ” ở đất Tự Do, trọng Pháp luật
này nên không thể làm gì khác hơn là lẳng lặng tẩy chay, không đến, không mua,
không giao thiệp với những cơ sở mà nguời ta nói là kinh tài ấy, nhưng cũng có
một số nguời vẫn cứ đến vì nhu cầu buôn bán.
Việc Hòa giải Hòa hợp, như mọi vấn đề tranh luận
khác, có những điểm thuận và những điểm không thể chấp nhận:
A-BIỆN
LUẬN CỦA NHỮNG NGƯỜI MUỐN HÒA HỢP HÒA GIẢI:
Để giải thích cho lời kêu gọi Hòa Hợp này, những
nguời chủ trương thường dựa trên vài điểm thuận lợi như sau:
1-Chiến tranh đã chấm dứt lâu rồi, hiện nay đang hòa
bình, không nên nhắc lại chuyện cũ. Nên quên hẳn ngày 30 tháng 4, coi như không
xẩy ra bao giờ để nhìn về đất nước đau thương, đang cần hàn gắn, mà mau về xây
dựng quê cha đất tổ. Yêu thương tốt hơn là hận thù mãi.
2-Thế kỷ hai muơi mốt là thế kỷ của Toàn cầu Hóa,
nếu không nhanh chân cải tiến, sẽ tụt hậu với thế giới.
3-Người trong nước đang trông chờ chúng ta mang kiến
thức về giúp đỡ họ.
4-Kẻ thù của dân tộc bây giờ là Đói, Nghèo, Lạc Hậu,
không phải Cộng Sản.
5-Chế độ bây giờ đã cởi mở nhiều lắm. Nguời Cộng Sản
rất tử tế, chỉ cần đừng nói chuyện chính trị là tha hồ yên ổn mà làm ăn. Không
có ai theo dõi và bắt nạt Việt kiều nữa.
6-Cả hai miền Nam Bắc đều là nạn nhân của chiến
tranh. Thôi, hãy quên đi quá khứ đau buồn, anh em cùng bắt tay làm lại cuộc
đời…
7-Chế độ Cộng Sản nhất định sẽ chuyển biến, nếu
nguời hải hoại không biết nắm lấy thời cơ, để cho những tổ chức xấu len chân
vào thì mất cơ hội.
8-Tôi chỉ về nước để làm văn hóa, chứ không làm
chính trị.
9-Tôi về để hát cho dân tôi nghe.
B-THỰC
TẾ SAI LẦM:
Nhìn kỹ vấn đề, chúng ta sẽ thấy những lý do để kêu
gọi Hòa hợp Hòa giải của những “Việt kiều yêu nước” là sai lầm nghiêm trọng qua
cả ba phương diện: quan niệm bình dân, quan niệm thuần lý, và thực tiễn kinh
nghiệm.
1-Quan
niệm bình dân: Khi một nguời bị kẻ hàng xóm dùng sức mạnh xông vào
chiếm lấy tài sản, phải bỏ nhà, bỏ cha mẹ, anh em mà chạy thoát thân, nguời đó
là nạn nhân của một vụ cướp đoạt. Khi nạn nhân đó lên tiếng cầu hòa với kẻ
cướp, xin cho trở về nhà để chia xẻ làm ăn, nạn nhân đó lại là kẻ không tự
trọng, van xin, cầu cạnh. Khi nạn nhân đó nhân danh tình nguời để xin cho vào
nhà đưa thuốc cho bà con còn kẹt lại trong nhà, nạn nhân đó là nguời không hiểu
sự việc. Nếu nạn nhân đó lại đề nghị với kẻ cướp cho về cùng điều hành, cùng
cai trị, quản lý việc nhà, nạn nhân đó là kẻ mê sảng. Trường hợp người Việt Nam
di tản, chạy nạn Cộng Sản còn thê thảm hơn. Bao nguời đã phải liều thân rừng
sâu, núi thẳm, sông ngòi, biển cả, để chạy thoát cho được họa tù ngục, xử lý.
Ngàn nguời khác phải nhắm mắt nghiến răng nhìn mẹ, vợ, em gái, nguời yêu bị hãm
hiếp trước mặt mình, phải che tai để khỏi nghe tiếng kêu cứu tuyệt vọng, tiếng
la hét kinh hồn của những nguời sắp chết.
Hàng vạn kẻ khác nữa chứng kiến cảnh hải tặc Thái
lan, công an Cộng Sản, lính Cam bốt, cướp biển Mã lai giương súng bóp cò liên
thanh cho những thân hình thân quen chìm sâu trong lòng biển cả. Hàng trăm ngàn
sĩ quan, công chức đã bị nhốt vào ngục tù, tẩy não, khổ sai. Hàng triệu nguời
lưu vong còn hàng đêm mê thấy những ngày đói khổ, hãi hùng, chỉ vì chạy loạn
Cộng Sản… Nhà cửa, ruộng vuờn vẫn còn trong tay kẻ chiếm đoạt, thân nhân vẫn
nằm trong tù. Nay lại kêu gọi xin nguời Cộng Sản cho về “hòa hợp” chẳng khác gì
mất lý trí. Xin về kiếm ăn thì còn được phép vì kẻ cầm quyền không mất vốn lãi
gì, chỉ có được lợi về thuế và tham nhũng, nhưng xin về để giữ chức chưởng, nắm
bộ này, chỉ huy bộ kia, thậm chí mong làm Thủ Tướng như có kẻ đã mơ tưởng thì
thật là mê sảng, điên rồ.
Nguời Cộng Sản, khi thấy những kẻ bon chen như vậy,
nhất định phải nổi nóng. Công trạng bao năm chiến tranh chưa hưởng đủ, giờ lại
có kẻ ở nước ngoài, no cơm ấm cật, mưu định “áo gấm về làng”, giành chỗ thu
lợi, hất cẳng tranh phần, thử hỏi nếu không gài cho xe đụng chết, cho cướp đâm
lòi ruột, cũng phải làm cho thân bại danh liệt mới hả lòng! Trường hợp Việt
kiều “biết điều chung góp” thì nguời Cộng Sản chỉ nhẹ tay đôi chút, chứ không
thể tha thứ. Hơn nữa, một khi Việt kiều muốn về nổi đình nổi đám mà lại ở thế
“hạ phong” thì nhất định phải lạy lục van xin, kẻ cầm quyền tha hồ tung hứng.
Việt kiều lúc đó chỉ là quả banh cho các chuyên viên nhồi qua nhồi lại cho đến
khi hết tiền thì một là “tù”, hai là mất mạng, ba là bị đuổi về ngoại quốc.
Nhiều kẻ nói “hãy quên quá khứ đi! Chuyện xưa tích
cũ không nên nhớ, chỉ hướng về tương lai thôi! Nhớ làm chi cho khổ sầu triền
miên!” Thật đúng là nhớ nhiều chỉ khổ não, nhưng, thực tế, thân phận một con
nguời lại gồm ba giai đoạn: quá khứ, hiện tại, và tương lai. Thiếu một trong ba
yếu tố trên, con nguời không còn là Nguời Sống nữa mà là Nguời Chết! Hơn nữa,
nếu đã có lúc đến trường học, chắc đã phải học qua môn LỊCH SỬ. Mà, Lịch Sử lại
chỉ gồm toàn Quá Khứ!
Quá Khứ của bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng có
những giai đoạn anh hùng và những khúc quanh bại liệt, đáng xấu hổ. Ngoài những
giai đoạn hưng thịnh, làm cho giặc ngọại xâm khiếp hãi, Nước Việt Nam chúng ta
có nhiều thời kỹ kém cỏi: nô lệ, phục tùng xâm lăng, chia cắt, tranh chấp nồi
da xáo thịt, mà có lẽ giai đọan đau đớn nhất là thời gian vừa qua. Nhưng đau
đớn không phải lý do để cố xóa bỏ những năm tháng đó bằng cách tự lừa gạt mình.
Kẻ có gan tự lừa mình nhất định sẽ lừa thiên hạ. Dù cho kẻ đó có danh vọng thế
nào chăng nữa cũng chỉ là kẻ đáng xa lánh, hoặc đáng khinh bỉ.
2-Quan
niệm thuần lý: Lý thuyết Cộng Sản từ xưa vẫn chủ truơng “chuyên
chính vô sản”, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa Tư bản. Cũng xuất phát từ chủ
nghĩa này, mọi quyền Tự do căn bản của nguời dân đều phải đặt duới quyền kiểm
soát của chính quyền mà đại diện là Đảng Cộng Sản. Bởi vậy, ngay từ khi sinh
ra, một con nguời mới đã trỏ thành một con số đặt duới quyền điều động của đảng
cầm quyền, rồi đi học, lập gia đình, làm việc, rồi chết…tất cả mọi sinh hoạt
của con nguời đó phải lệ thuộc vào ý định của Đảng. Nguời dân không có quyền tự
bảo vệ mình một khi không tuân theo lệnh của Đảng, không nói gì đến việc đối
lập với Đảng. Đảng có toàn quyền giới hạn đi lại, tụ họp, phát biểu, ngôn ngữ,
hành động. Trước mặt nhân dân là Công An, Quân Đội. Sau lưng nhân dân là nhà
tù, là pháp trường, là những nơi lưu đầy biệt tích mà con nguời rơi vào đó sẽ
mất tăm như giọt nước rơi vào trong ly nước.
Duới chế độ Cộng Sản, không có luật pháp hiến định.
Không có Luật Thuơng Mại, Luật Dân Sự, Luật Hành Chánh, chỉ có Luật Hình Sự do
đảng tự đặt ra và bắt dân tuân thủ. Luật sư là những con bù nhìn của chế độ,
chỉ nói cho có lệ vì trình độ của Chánh án nhiều khi thấp hơn thư ký. Có những
Chánh Án mới đi học cấp Ba bổ túc tại chỗ. Do vậy, mà khi những con nguời Việt
kiều quen tự do trở về chắc chắn sẽ trở thành những nhân vật đối kháng nếu
không biết uốn mình theo cung cách của một người dân quen bị đàn áp, lưng còng,
cổ cò, tay luôn giơ ra trước mặt. Trường hợp thứ nhất, nếu bị bắt vì ham làm
giầu thì cả hải ngọai cuời chê, trường hợp thứ hai, tự mình làm nhục mình. Cả
hai trường hợp đều đi đến chỗ mất nhân cách.
Mấy năm gần đây, vì muốn lôi kéo Việt kiều mang tiền về, nên nhà cầm quyền đã nới lỏng vài phần sự theo dõi ráo riết, đã ra một vài điều luật khích lệ nguời về quê, nhưng bản chất của họ không bao giờ thay đổi. Họ chỉ kêu gọi Việt kiều chuyển ngân làm thương mại chứ chưa hề mời ai về làm chính trị! Tự Do là Nước, Độc Tài là Lửa. Lửa chỉ chịu thua nước khi nước mạnh, lửa sẽ làm nước bốc hơi khi không đủ nước.
Viết đến đây, nhiều nguời ngây thơ sẽ lại hỏi: “Như
vậy thì mãi mãi dân tộc mình không hòa hợp được ư? Mãi mãi hận thù sao?” Không
hẳn như thế. Ý niệm Hòa Giải Hòa Hợp là điều mà phần đông những nguời có lòng
tha thiết với đất nước rất muốn đạt tới, không một ai muốn bắn hết, giết hết
nguời Cộng Sản, dù họ đã thủ tiêu, đã cho “mò tôm”, đã giết không biết bao
nhiêu nguời từ 1930 tới nay. Nhưng Hòa Giải hòa Hợp như thế nào mới hợp lý?
Trước hết, phải chính người đã gây ra hận thù (Đảng
Cộng Sản) xin Hòa giải với nạn nhân, chứ không phải Nạn nhân xin hòa giải với
kẻ gây hận. Nếu có việc hòa giải, việc này lại phải được ưu tiên thực hiện với
tám muơi triệu đồng bào trong nước là những nạn nhân trực tiếp, liên tục trong
suốt mấy chục năm qua, sau đó mới đến nguời hải ngoại. Bởi vậy, trong khi Đảng
cầm quyền chưa hòa giải với nguời trong nước mà người hải ngoại đã mong hòa hợp
với Đảng cầm quyền thì chỉ là ước mơ của kẻ thời cơ chủ nghĩa, thấy tình thế có
vẻ thuận lợi liền xung phong đi “cắm dùi”.
Ngòai ra, nếu có trường hợp Đảng cầm quyền muốn nói
chuyện với Việt kiều, chắc chắn họ sẽ chọn nguời có uy tín, có tài năng tại hải
ngoại, được đồng hương thuơng mến, (có thể là nguời lãnh đạo cộng đồng) để có
thể kết hợp cả hai nơi, nhất định không mời kẻ đã bị đồng hương tẩy chay, khinh
rẻ. Vì một khi đã mất tư cách với hai triệu nguời di tản, dứt khoát không có tư
cách với bẩy chục triệu nguời còn lại. Một khi đã bất tài với một cộng đồng nhỏ
bé, không thể chứng tỏ có tài với cả một dân tộc. Những kẻ kêu gọi hòa hợp một
chiều này có lẽ nghĩ rằng họ sẽ dựa vào bằng cấp, tài sản, và sự giao thiệp
rộng rãi. Nhưng, Bằng cấp cao không đồng nghĩa với tài đức.
Tài sản lớn không đồng nghĩa với lương tâm, trách
nhiệm lớn. Một vài nhóm nguời không đồng nghĩa với một lực lượng đủ thế lực
xoay chuyển đại cuộc. Ở trong nước còn hàng ngàn nguời dư tài dư đức đang ẩn
nấp đâu đó, cần chi đến những kẻ áo mũ xênh xang ở nước nguời? Đảng Cộng Sản
chỉ độc tài, tham lam chứ không điên mà phải nhờ đến những phong trào, những cá
nhân có cùng chí huớng tham danh, hám lợi, thiếu cả những tri thức căn bản ở
hải ngoại để làm chuyện đổi mới. Những nguời đòi Hòa giải một chiều đó đã không
nhìn thấy mấu chốt của vấn đề.
3-Thực
tế kinh nghiệm: Đảng và Chính Phủ Cộng Sản luôn thay đổi lập trường
xử dụng nhân lực, không xử dụng những nguời không phải Đảng viên và không tin
những Đảng viên có chiều huớng dung hòa hay đổi mới. Nếu có kết hợp, chỉ là kết
giao tạm, sau đó là bỏ rơi hoặc thủ tiêu. Không nói gì đến lịch sử xa xưa mà
chỉ nhìn ngay trước mắt. Sau 1975, những người thuộc Mặt trận Giải Phóng, từng
vào sinh ra tử, bỏ hết gia đình, tài lộc vào bưng biền chống lại chế độ Dân Chủ
miền Nam, đã bị bỏ phế chỉ vì không phải Đảng viên chính thống. Luật sư Nguyễn
hữu Thọ, một chính trị gia tên tuổi lớn trên nhiều quốc gia, sau 1975, đã giữ
chức vụ vô thưởng vô phạt, ngồi chơi xơi nước. Huỳnh tấn Phát chiến đấu như một
anh hùng của Mặt trận, đã chết trong bất mãn. Nguyễn thị Bình, nguời ký bản
Hiệp định Paris, sau chiến thắng, giữ một Bộ chẳng ảnh hưởng gì đến chính trị.
Nguyễn thị Định, Phó Tư Lệnh Mặt Trận, một nữ anh thư cầm súng chiến đấu quên
mình, nay chỉ là một bà chuyên lo chuyện phụ nữ. Lý quý Chung, Nguyễn chánh
Trung, Dương quỳnh Hoa, cả Ngô bá Thành, những nguời góp tay phá chế độ cũ dữ
dội, nay buông thả cuộc đời trong những công việc kiếm cơm. Huỳnh tấn Mẫm, đã
vào tù ra khám, bị tra tấn mờ nguời, giờ chỉ lo bảo vệ cho bà vợ buôn thuốc
phiện lậu. Dân biểu Ngô Công Đức, hãnh diện với tờ báo Tin Sáng sau 75, nhưng
chỉ được ít lâu, thì nhận được thư cám ơn:“Nhiệm vụ chính trị đã chấm dứt,
nay đóng cửa tờ báo.”
Tướng Đinh đức Thiện. Trần Bình, Chu Huy Mân, Chu
văn Tấn… khi chiến đấu thì đuợc Bác ôm hôn thắm thiết, sau đó thì tên tuổi mờ
dần đến khi chết. Hơn muời Tướng tá chết trong vụ nổ máy bay ở Lào giờ vẫn chưa
điều tra ra thủ phạm. Riêng Anh Hùng Điện biên Phủ Võ Nguyên Giáp, vị Tướng nổi
tiếng khắp thế giới, có bao nhiêu năm ôn lại kỷ niệm cay đắng với câu đồng dao
của chính những nguời dân mà ông ta từng bảo vệ:”Ngày xưa Đại Tướng cầm quân,
Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em!” Chức vụ đau đớn nhất mà ông phải nhận là
Phó Thủ Tướng đặc trách sinh đẻ có kế hoạch!
Như thế, những nhóm nguời chỉ có chút đỉnh công lao
là thảo một vài lá thư, tiếp đón một phái đoàn, chiêu đãi ông Đại Sứ, chi tiêu
ăn ở mất vài ngàn đôla, viết bài ca tụng Đảng, hoặc tổ chức kinh tài cho Đảng
không thể nào so sánh với công trạng của cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và
nhất định không có chỗ đứng trong chính giới tương lai. Chức vụ Bộ Trưởng, Thủ
Tướng của Đảng Cộng Sản không thể nào lại quá rẻ đến như vậy.
Nguời Việt tị nạn, tuy vẫn mang trong lòng một mối
hận cho đến khi nhắm mắt, mối hận mất quê hương, mất mồ mả tổ tiên, mất nơi
chôn rau cắt rốn, mất tiếng sáo diều, mất con trâu uể oải, mất bụi tre già, mất
bạn bè, và trên hết là mất đất đứng, nhưng không vì thế mà căm thù người Cộng
Sản chỉ vì họ là người Cộng Sản. Việt Cộng cũng máu đỏ da vàng, cũng cùng tiếng
gọi: “Cha, mẹ, quê hương…” chỉ khác tư tưởng và hành động. Người tị nạn, vì bất
lực bởi hoàn cảnh, môi trường, không thể đem quân về giải phóng quê hương, chỉ
còn biết chờ mong một thời điểm nào đó, một áp lực nào đó, một đổi thay nào đó
khiến nguời Cộng Sản phải sám hối, từ bỏ đặc quyền đặc lợi đã bao lâu nay chiếm
giữ bất hợp pháp, mà xin Hòa Hợp Hòa Giải với chính dân tộc của mình. Như Liên
Xô, như Đông Âu, như Bắc Hàn. Lúc đó, chính những nguời Hòa hợp Hòa giải mới là
Anh Hùng. Như Gorbachev đã một thời là anh hùng của cả Liên Xô vậy.
© Chu Tất Tiến
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment