12:12:pm 16/06/14
Ðã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí
Minh (HCM) riêng cuốn Trần Ðức Thảo Những Lời Trăng Trối là cuốn rất ðặc biệt
vì sách ðã “phân tích sư thật về những hành ðộng khủng khiếp” của họ Hồ bởi một
triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế giới”. Nãm 1951 ông bỏ Paris về bưng,
qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng chiến chống Pháp; ðã từng “trải nghiệm gian
khổ trong chiến tranh, trong cách mạng” suốt 40 nãm. Nhà triết học họ Trần
trước khi mất ðã khẳng ðịnh, Marx ðã gây ra mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói,
chính “cuồng vọng lãnh tụ” ðã khiến “ông cụ” là một con người “cực kỳ vị kỷ,
bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của ðạo lý”. Theo ông, ðây là “một Tào
Tháo muôn mặt của muôn ðời” và “là một con khủng long ba ðầu, chin ðuôi”.
Lời trối trãng của nhà triết học Trần Ðức Thảo cho
biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám ðưa
ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra ðược tình trạng bế tắc
chính trị ðộc hại như hiện nay ở nước ta”. Theo ông, quá khứ cách mạng của Viêt
Nam ðã tích tụ quá nặng ðầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427 trang là những
lời tâm sự sống ðộng của một nhà tư tưởng giúp ðộc giả hiểu rõ nguồn gốc của
thảm kịch ðang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên ðất nước ta. Ông cảnh báo xã hội
Việt Nam “ðang bị ung thối bởi cãn bệnh xảo trá, cãn bệnh thủ ðoạn của ðảng”.
Ông bị tống ði ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé ði một chiều, bị ðuổi
khỏi Saigon, buộc phải ði Pháp, không ðược trở về Hà nôi.
Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Ðức Thảo
(1917-1993) ðã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ”
mang tính sinh tử với ðất nước và dân tộc, ðã ðể lại di sản vô cùng trầm trọng:
“chọn chủ nghĩa xã hội của Marx ðể xây dưng chế ðộ, chọn chiến tranh xoá hiệp
ðịnh hòa bình ðể bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất ðất nước, chọn Mao
và ðảng Cộng sản Trung Quốc làm ðồng minh, ðồng chí”. Sách có 16 chương, một
chương chỉ ðể giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng ðược ðề cập tới. Ông
xác nhận, hễ nói tới thảm kịch VN thì “không thể không nhãc tới ông cụ”. Cố
giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao ðã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và
“Trung Quốc muốn nhuộm ðỏ Việt Nam theo ðúng màu ðỏ ðậm của Trung Quốc”.
Đãi
ngộ hay bạc đãi
Triết gia Trần Ðức Thảo (TÐT), nổi tiếng về hiện
tượng luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre ðược ðảng Cọng Sản Pháp vận
ðộng ðể ðược cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cưú sâu
rộng cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của
Karl Marx”. Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng”; bị nghi là “siêu
gián ðiệp trí thức”. Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Nãm
1991 ông “bị ðẩy trở lại Paris”. Thế nhưng, sau khi qua ðời ngày 24/4/1993, nhà
cầm quyền Hà nội lại truy tặng ông huy chưong Ðộc Lập; ca tụng ông là nhà triết
học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tưởng HCM” ðã có ảnh hưởng với nhà
triết học số một Việt Nam và lúc sinh thời ðảng, nhả nước rất mực trọng ðãi
ông.
Có thật thế không? Trong chương Ðãi ngộ hay bạc ðãi,
ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che dấu một ðối xử nghiệt ngã và
tồi tệ”. Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn
ðứng giữa ruộng dưa”. Sự thật “họ chỉ ðể cho sống; cho tôi khỏi chết ðói; chỉ
toàn là bạc ðãi”. Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập
nhân dân nghĩa là phải cúi ðầu tuyệt ðối vâng, nghe lời ðảng”. Ông tiết lộ, tuy
có chức phó giám ðốc trường Ðại Học Vãn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề ðược tham
dự bàn bạc gì vào việc tổ chức, ðiều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy cũng không
hề có”. Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay ði theo các phái ðoàn thanh
tra là chỉ ðể “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng”.
Những ðiều nói ðó phù hợp với bài báo của nhà thơ
Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Ðức Thảo ðãng trên báo Tiền phong ngày
11/5/1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều người
trong nước ðược biết rằng ðất nước chúng ta ðã từng sinh ra một triết gia tầm
cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì lôi thôi
nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa
nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su ðứt quai,
ðầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe ðạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà ðồng nát cũng
chê. Thật ðúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, ðạp xe thỉnh thoảng
lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người”.
Mưu
thần chước quỷ
Nhiều người tự hỏi bị ðối xử cay ðắng như vậy sao
“bác Thảo lại hay có lúc bật cười như ðiên”; và bị chung quanh chê bai, chế
giễu “bác là người khùng”? TÐT cho hay, ông bắt ðầu “hết cười rồi lại khóc” sau
khi tham gia ðợt thì hành cải cách ruộng ðất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên
Quang nãm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh ðạo “chọn con ðường hành ðộng
nặng tính cuồng tín, dã man”. Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng
ðểu, thằng ác, thằng lưu manh”. Về giai thoại TÐT ði chãn bò, theo ông, ðó là
một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của một chính
quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu “trí
thức không bằng cục phân” của Mao.
Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất
sùng bái Trung Quốc, ‘cứ như là con ðẻ của ðảng Cộng sản Trung Quốc”. Là một
nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, ðánh giá lại, ông thấy “nước ta trồng cây
tư tưởng của Marx, cho tới nay cây ðó chỉ cho toàn quả ðắng”. Chính “cái thực
tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự ðau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ”
khiến ông muốn “ðặt lại vấn ðề từ học thuyết”. Triết gia TÐT nói, nhiều lãnh tụ
“từ lầu ðài tư tưởng Marx bước ra ðã trở thành những ác quỉ”. Theo ông, “quỉ ấy
là ý thức ðấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rut” tư tưởng ðộc hại vô cùng; nó phá
hoại xã hội, nó thúc ðẩy con người ðam mê tìm thắng lợi, bằng ðủ thứ quỉ kế, ðể
mưu ðồ củng cố cho chế ðộ ðộc tài, ðộc ðảng.
Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ” là
một nhà ảo thuật chính trị ðại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì biến
không thành có”. Ðúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành ðộng muôn hướng, muôn
mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!” Bác Hồ ðánh
lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói ðầu bản tuyên bố ðộc lập của Mỹ; ðánh lừa
các ðảng trong nước khi thành lập chính phủ ðại ðoàn kết và mời cựu hoàng Bảo
Ðại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản ðộng; ðẩy
Bảo Ðại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn ðược triết gia TÐT gọi là một nhà chính trị
“thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao ðể ðược
ðưa về xứ làm lãnh ðạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.
Cố Giáo sư TÐT kể lại rằng, biết mình bị Ðệ Tam Quốc
Tế tức Liên Sô loại ðuổi khéo về Viễn Ðông và biết Mao là thủ lãnh các phong
trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ gia
nhập ðảng Cộng sản Trung Quốc; ðược Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng bước
loại bỏ tất cả ðối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn vãn Cừ… ðể
rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước nãm 1945. Dù sự tấn phong “ông
cụ” ở các ðại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các khu uỷ, xử uỷ và của
“Ðê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên ðã qua mặt những sự phản ðối này vì họ là
những kẻ ðã từng nhận ðược sự nâng ðỡ của cộng sản Trung Quốc. Triết gia họ
Trần nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt cơ hội”.
Huyền
thoại “bác Hồ”
Vẫn theo nhà tư tưởng TÐT, các nhà nghiên cứu nước
ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của bộ
máy tuyên truyền; họ xử dụng sản phẩm chính thống của ðảng thì làm sao họ hiểu
hết ðược mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất chính gốc, bộc lộ
rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Ðó là những tên
giả chính “cụ Hồ” ðã tự ðặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẻ, phải phân tách
những chuyện biến tư tưởng qua từng giai ðoạn ðổi tên, ðổi họ; từ những cái tên
“Tất Thành”, rồi “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”. Ðấy là
những biểu hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành
lãnh tụ cách mạng sau khi không ðược cho vào học Trường Thuộc Ðịa ðể ra là
quan.
Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách
ðề cao mình, như cuốn “Những mẩu chuyện về cuộc ðời hoạt ðộng của Hồ chủ tịch”
và “Vừa ði ðường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân ðược.
“Ông cụ” ðã tạo ra một thời chính trị ðiên ðảo. Ngoài ra, ðám quần thần chung
quanh “ông cụ”, không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “Người”. Họ tôn
vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói
“ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”. TÐT cho biết, nãm 1946 gặp “ông cụ” trong
một buổi chiêu ðãi ở Paris, ông ðã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa
cần tới chú ðâu” của HCM; khi ông tự ý nắm tay “ông cụ” ngỏ lời: “Tôi muốn về
nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt ðẹp tại quê hương”.
Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông
ðược vể nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà nội
và Saigon ðang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp
thống trị mới ðang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TÐT càng thấy huyền
thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hoá trang cao
ðộ”. Cái gì có giá trị là của bác, của ðảng. Họ công kênh “ông cụ” lên làm bậc
thần, bậc thánh. Theo TÐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục tùng
lãnh tụ mới có thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn sùng
HCM. Ông nhấn mạnh, “bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành ðạt về chính trị;
“không thể nào là mẫu mực về mặt ðạo ðức”; vì cách sống muôn mặt của bác ðâu
phải là gương sáng.
Nhà triết học bị kết tội “cầm ðầu âm mưu chống ðảng”
vì hai bài viết trên Nhân Vãn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em vãn nghệ trẻ
chủ xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp ðứng ðầu là Sartre
“tận tình quan tâm, chãm sóc” ðến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác nãm
1946 ðòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch;
muốn ðấu lý với cố vấn Trung Quốc lúc làm ðội viên cải cách ruông ðất và vụ
NVGP, ông có thể “dễ chết`như chơi”. Nãm 1952 triết gia ðược dẫn ði chào “Bác”.
Ban lễ tân dặn ông bốn ðiều cần nhớ: phải ðứng xa “Người” ba mét, chỉ lại gần
khi “Người” ra lệnh; không ðược nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không ðược chào
trước; không ðược nói tôi phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng “bác.
Chư
hầu ngoan ngoãn
Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TÐT thì HCM chưa
ðọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy sổi nên chưa tiêu hóa ðược”; nhưng
lại “ðọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machiavel”, cuốn chỉ bày tận dụng mọi
thứ ðể người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài nặng lý trí
ðến vô cảm; không thiết tha với gia ðình; không có bạn hữu thân tình. “Ông cụ”
rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học ðược
”ông cụ” ðào tạo ðể phục tùng; rồi sau ðề bạt lên làm lớn. “Ông cụ” làm thơ là
“do cuồng vọng chính trị”, là ðể “ca ngợi mình” và “hô hào quyết chiến”. Nhà
triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma quái nó ðè. Ðó là
“ bóng ma ðế quốc bành trướng vô cùng ðộc ðoán, lấn át của Mao.”
Vẫn theo TÐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một
phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên ðẹp “khối các nước xã hội
chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một ðế quốc ðỏ; nó kềm kẹp các dân tộc
nhược tiểu quanh nó. Ðó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”;
muốn biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn”. “Ông cụ” vì tham vọng quyền
lực từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không ðược nên ðã lấy học thuyết “giai
cấp ðấu tranh” làm kim chỉ nam ðể tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà
triết học nói, ðể nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông
thần”, từ bỏ cả vợ con, mất ði tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài.
Lại thêm, Mao ðã cài chung quanh “ông cụ” một ðám cực kỳ cuồng tín.
Trong chương “Hai chuyến di chuyển ðổi ðời” của cuốn
sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông ðược rời cảnh “sống như bị giam lỏng
ở Hà nội” ðể vào Saigon ở là nhờ sự vận ðộng của một số ðồng chí trí thức Nam
Bộ. “Saigon ðã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện ðại; ðâu có
ðói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam ðã có một mức ðộ dân chủ rõ rệt. Miền
bắc bị tư tưởng Mac-Lenine làm nẩy sinh những chính sách ðầy sai lầm. Sĩ quan
của “bộ ðội cụ Hồ” ðã có “thái ðộ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục mạ, gọi
Dương vãn Minh là mày, và bắt cả nhóm phải ðứng cúi ðầu.” Ðấy là những lời thố
lộ của TDT mà nhà vãn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ðã viết lại qua các cuốn bãng thu
những ðiều ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối ðời ông ở Paris.
Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công
Sơn là hai người ðã thúc ðẩy ông phải thoát khỏi thái ðộ hèn nhát ðã ngự trị
trong ðầu óc trí thức và vãn nghệ sĩ Hà nội; giới này ðã ứng xử ðồng lõa với
tội ác của cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho NVGP.
Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở
Saigon sau 1975, nếu ðọc chương “Vẫn chưa ðược giải phóng” ðều nhận thấy những
mô tả của triết gia về Hà nội nãm 1954 rất giống Saigon sau 30/4/75: “cả con
người và xã hội ở ðây ðã không hề ðược giải phóng” và thật là “vô lý và nhục
nhã” khi so sánh với chế ðộ cũ. Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù,
tích lũy mà có ðược; tư hữu kiểu mới do chiếm ðoạt bằng chữ ký và quyền lực.
Cao
vọng hơn “bác Hồ”
Ðược gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10
ngày TÐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận không có
con người”. Ðây là vãn bản phản bác giáo ðiều, ðược ðón nhận như một bông hoa
lạ. Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí thức
khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học ðể nghe những
“lời tiên tri” là “cách mạng ðã biến chất ðể tư bản man rợ tràn ngập”. Trung
Ương thấy số người “phức tạp” ðến gặp “bác Thảo” càng ngày càng ðông, nên Ðảng
ðã quyết ðịnh “anh phải ra ði”. Nhà triết học than “thôi thì ðành mang thân xác
ra xứ người”. Qua Pháp, tuy ðã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn “lâm cảnh
sống nay lo mai”, và còn bị Toà ðại sứ theo dõi kiểm soát chặt chẽ.
Trong cài xui có cái may. Nhà vãn Tri Vũ-Phan Ngọc
Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ ðể kiếm sống qua các buổi thuyết trình
ở kinh ðô ánh sáng mà ðã làm quen thân với ông, ðược nghe ông tâm sự. Quyển
sách ghi lại nỗi hối hận ðã thiêu ðốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc ðời. Nhà
vãn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn bãng cho những ai muốn nghiên cứu về
TÐT”. Trong sách nhà triết học có lần ðã khẳng ðịnh: “tôi có tham vọng cao hơn
của “bác Hồ” nhiều lắm”. Ðấy là xây dựng “một lâu ðài tư tưởng trong ðó toàn
thể nhân loại ðều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá phiếu
của mình”. Nhưng mộng ðó không thành, triết gia lừng danh một thời trời Âu bị
ðột tử. Chúng ta mất ði “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách
mạng”.
Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ,
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là ðể phục hồi danh dự
một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc ðời TÐT xem
như cuộc ðời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào nãm 1951 nên mọi sự
trở nên vỡ lở. Cuộc ðời ðó có thể xem như một bài học –“an object lesson”- với
những ai ðể cho tình cảm, lý tưởng che mờ ði lý trí, kinh nghiệm. Không những
ông mất vợ, không có ðời sống gia ðình, không có tự do trong bóng tối làm những
việc ông muốn làm cho quê hương ðất nước của ông. Sự nghiệp triết học của ông
là một sự nghiệp dang dở.” Sách ðược xuất bản lần ðầu với số lượng ít; tên gốc
là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ ðể thãm dò ý kiến thân hữu.
Những ai yêu “bác Hồ”, những ai coi HCM là tên tội
ðồ hay các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và những ai còn
nghĩ ðến nước Việt nên ðọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác giả nào trên thế
giới – ngoại trừ triết gia TÐT- nêu ra ðược, thật sáng tỏ, những ðiều vô cùng
bi thảm trong thời cách mạng; vì ông ðã trải nghiệm 40 nãm trong cuộc. Ngoài
ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm
về HCM, kẻ ðã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt Nam
TÐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự ðại nhưng
“không gian trá ðến mức tinh quái” ðể có những “hành ðộng muôn hướng, muôn mặt,
trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”.
Phan
Thanh Tâm
Saint Paul, 6/2014
© Đàn Chim Việt
------------------------------
Cuốn Trần Đức Thảo - Những lời trăn trối
của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, một nhà báo sống Pháp được Tổ hợp Xuất bản Miền Đông
Hoa Kỳ phát hành hơn 1 tháng nay. Sách in đẹp, dày 428 trang, gồm16 phần, thêm
phụ lục.
Tôi đã đọc cuốn sách này một mạch trong 2 ngày. Rồi
đọc lại 1 lần nữa, để rồi suốt 1 tuần lễ ngẫm nghĩ về nội dung của nó.
Trần Đức Thảo (1917 – 1993), con một nhà tư sản Phố
Cổ đất Hà Thành, là một trí thức được đào tạo tại Pháp và cũng là một triết gia
trẻ uyên bác khá nổi tiếng, từng tranh luận tay đôi với nhà triết học Jean Paul
Sartre.
Năm 1951, khi 34 tuổi, Trần Đức Thảo tự nguyện về
nước qua con đường Moscow với thiện chí “mang hiểu biết của mình về góp phần
xây dựng đất nước”. Nhưng tai họa đã sớm đến với ông. Lãnh đạo VN, từ Hồ Chí
Minh đến Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng lúc bấy giờ) đều tỏ ý không cần đến
“một anh trí thức mọt sách do đế quốc đào tạo”, còn coi ông là một kẻ reo rắc
tư tưởng phản động nguy hiểm. Ông suýt chết 2 lần, một lần khi tham gia đội cải
cách ruộng đất ở Chiêm Hóa đã nói lên nhận xét là tòa án nhân dân trong xét xử
địa chủ là không ổn, mang tính cưỡng bức phi pháp, làm cho cố vấn Trung Quốc
phật lòng và ông suýt toi mạng về chuyện này; hai là khi Hà Nội được giải
phóng, ông tham gia bằng 2 bài viết trên báo Nhân Văn cùng Trần Dần, Lê Đạt,
Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, bị coi là “tên đầu sỏ nguy hiểm”. Từ đó ông bị giám
sát, bỏ rơi trong cuộc sống, mất việc, mất vợ, sống lay lắt, lập dị, đi đôi
guốc mộc, nói, khóc và cười một mình, cưỡi chiếc xe đạp trẻ con mang nhãn hiệu
nước Nga giữa phố phường Hà Nội.
Đến nay, khi cuốn sách ra rồi, mọi bí ẩn, đồn đoán
nhiều khi sai lạc về con người ông mới được giải mã khá là đầy đủ.
Thì ra sau khi bị đe dọa, trù úm, cô lập, đầy ải về
cả tinh thần và vật chất, triết gia sinh bất phùng thời này quyết sống một cuộc
sống 2 mặt, một mình mình biết một mình mình hay, cảnh giác cao, và nhiều khi
phải đóng kịch với mọi người để tồn tại. Cái con người mà thiên hạ cho là lẩn
thẩn, có khi như mất trí ấy thật ra vẫn cực kỳ minh mẫn, ghi nhớ, nghiền ngẫm,
suy tư, với chủ tâm sẽ có ngày được phơi bày mọi sự ra ánh sáng, khi bản thân
được tự do.
Và cái ngày tự do ấy đã đến, khi người ta muốn đuổi
ông già 74 tuổi vô tích sự - và có thể là vô hại cho họ - ấy đi xa cho khỏi
vướng víu. Tháng 3 năm 1991, ông được cấp một vé máy bay một đi không trở lại
để sống nốt những ngày cuối đời trên đất Pháp.
Năm đầu trên đất Pháp, ông sống trong cơ sở của sứ
quán đầy công an, an ninh, mật vụ CS, nên vẫn phải mang “mặt nạ”, cả khi họ cho
phép ông nói chuyện về triết học, về phép biện chứng duy vật, về chủ nghĩa Mác.
Để giữ mạng sống, ông vẫn phải đóng kịch, như một anh trí thức sơ cấp mụ mị, dở
hơi, làm cho những anh chị em trí thức chờ đợi ở ông những phản biện sâu sắc
đều ngỡ ngàng thất vọng, trong đó có chính người viết bài này (vào tháng
6/1992).
Một điều may mắn là anh Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, một
người Hà Nội du học ở Pháp, vốn có cảm tình với triết gia Trần Đức Thảo, đã
cùng giáo sư toán học Bùi Doãn Khanh thăm dò được mong muốn thầm kín của ông,
và được ông cho biết ý định viết một cuốn sách trong vòng 6 tháng nhằm trình
bày tất cả những suy nghĩ chân thực của ông suốt 40 năm qua để cống hiến cho
nhân dân VN đau khổ, lầm than. Khi ông đột ngột qua đời ngày 23 tháng 4 năm 1993
trong nhà khách sứ quán CS, cuốn sách tâm huyết ông chưa viết xong, mới chỉ là
những ghi chép, phác thảo, dàn bài, ý vụt đến… đã bị an ninh sứ quán thu lượm
sạch. Nhưng họ đã bỏ sót một kho tư liệu quan trọng: những cuốn băng ghi âm của
ông Thảo.
Suốt trong gần 6 tháng, cứ đến cuối tuần, khi an
ninh và viên chức sứ quán lo vui gia đình, hai ông Tri Vũ và Bùi Doãn Khanh lại
lặng lẽ đón ông Thảo đến một quán cà phê kín đáo, đặt ra những câu hỏi và ghi
âm những câu trả lời của ông. Ngay sau khi ông Thảo đột ngột từ trần - một cái
chết vẫn còn nhiều nghi vấn – hai ông Tri Vũ và Bùi Doãn Khanh đã bỏ công ghi
lại thành 16 đoạn trên máy điện toán, rồi biên soạn lại thành cuốn sách Trần
Đức Thảo - Những lời trăng trối.
Cuốn sách đã giải mã đầy đủ con người và nhân cách
Trần Đức Thảo. Cho đến khi gần vĩnh biệt chúng ta ông đã dùng tư duy bén nhạy
của một học giả và triết gia để soi sáng một đoạn hệ trọng của lịch sử dân tộc,
thay thế cho những trang lịch sử chính thống trong đó con người và sự kiện đã
bị xuyên tạc, bóp méo.
Trong sách, Trần Đức Thảo có nhắc đến ông Hồ vài
chục lần, kể từ cuộc gặp ở Pháp, đến cuộc gặp ở chiến khu Việt Bắc, khi quy
định phải đứng xa Bác 3 mét, khi được hỏi mới được nói, phải gọi ông Hồ là Bác
và nhiều lần gặp sau ở Hà Nội, khi ông chỉ còn là một bóng người vật vờ, tồn
tại mà như không tồn tại.
Xin mời bạn đọc thưởng thức vài đoạn ngắn trong cuốn
sách nói đến “ông Cụ”, để thấy nhà triết học vẫn minh mẫn sâu sắc tinh anh đến
mức nào.
… “ Đáng chú ý là từ khi tự đổi tên là Tất
Thành(1911) (với khát vọng khiêm tốn là sẽ là kẻ thành đạt…) rồi cho đến sau
này bỏ hẳn họ Nguyễn, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái tên cực kỳ kiêu sa,
coi mình là bậc CHÍ MINH (1945)… Nói chung tên giả thường là rất tiêu biểu
tâm thức như thế đã phản ánh chân thực những bước
chuyển biến trong đầu óc của ‘ông Cụ’. Mỗi lần thay tên đổi họ là một bước có ý
nghĩa trong hành trình vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đây là quá trình
diễn biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân tích cặn kẽ từng cái biệt
danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chi mong có cơ hội thành
đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách để đạt tới tột đỉnh của
quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính (‘Ái
Quốc’), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (CHÍ MINH)! Một nhà
túc nho, một người trí thức có đầu óc tỉnh táo, có liêm sỷ, một bộ não minh
triết không bao giờ tự ý xưng mình là ‘Vương’, là ‘Ái Quốc’, là ‘CHÍ MINH’ như
thế…”.
Và đây là một đọan trích nữa nhận định tổng hợp về
“ông Cụ” của triết gia họ Trần:
“Cụ Hồ là một nhân vật vô cùng phức tạp, vô cùng
thông minh, rất mưu trí, một con người sắt đá đến mức vô cảm, vô tình, sẵn sàng
chụp bắt mọi cơ hội để thành đạt. Một ý chí thành đạt không gì lay chuyển. Đấy
là một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời, một con người không có tình bạn, không
có tình yêu gia đình, tình yêu con cái, một bộ óc nung đúc một cuồng vọng, với
một ưu tư duy nhất là phải leo lên đến tột đỉnh quyền lực đê đạt tới mục tiêu
của mình… Vì thế ông Cụ không chấp nhận một ai trong đám chung quanh là ngang
mình. Vì thế mà không cần trợ lý, cố vấn, vì thế không lắng nghe một ai. Bởi
lãnh tụ chỉ chăm chú tìm chiến thắng vinh quang, của giấc mơ thế giới đại đồng,
chứ không cảm nhận được nỗi đau đầy máu và nước mắt của dân trong thực tại. Một
con người chỉ nghĩ và sống với khát vọng chiến thắng, chứ không muốn sống bình
thường như mọi người. Riêng đối với tôi, cái nhìn đầu tiên của lãnh tụ là để
đánh giá tôi trong tương quan chiến thắng ấy, và cách đánh giá ấy là một bản án
không nơi kháng cáo. Vì thế tôi đã suy nghĩ nhiều về nhân vật lịch sử này! Bởi
Người là một cái bóng ma quyền lực đã đè nặng lên thân phận tôi.
“Những điều tôi nói đây không phải để oán trách ‘ông
Cụ’, bởi tôi biết đây là một nhân vật bi thảm, luôn bị chi phối bởi nhiều thế
lực trong và ngoài. Nào là cuồng vọng của một lãnh tụ chính trị, nào là sức ép
của Mao, nào là những ý đồ phức tạp trong Bộ Chính trị với nhiều phe phái kình
chống nhau. Những sức ép ấy đã tiêu diệt hết tình cảm của con người bình thường
nơi ‘ông Cụ’ và ‘ông Cụ’ bị đưa vào thế phải chấp nhận sống cô đơn, phải thủ
vai ông thánh, ông thần, giữa bao thế lực quỷ quái, quá khích, lúc tả khuynh,
lúc hữu khuynh… để đạt tới, để nắm vững đỉnh cao quyền lực…”.
Còn có rất nhiều đoạn lý thú độc đáo khác nói về “Hà
Nội giải phóng” năm 1955 và “Miền Nam giải phóng” năm 1975, về những buổi dự
“hát cô đầu” cùng nhà văn Nguyễn Tuân, nhận xét về lực lượng Công an là bạn dân
ra sao dưới một chế độ CS cảnh sát trị.Trong đọan kết, triết gia Trần Đức Thảo
bộc bạch rằng vào lúc cuối đời ông đã nhận rõ chủ nghĩa Mác là một học thuyết
sai lầm từ gốc, chứ không phải là nó đúng nhưng đã bị vận dụng sai, và nó sai
cả về vũ trụ quan lẫn nhân sinh quan do cổ vũ đấu tranh giai cấp, bạo lực,
chiến tranh, sai cả về phương pháp luận lô gích biện chứng duy vật - hiện tượng
học. Theo ông, Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên đều
là nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa Mác. Rất tiếc là ông đang say mê lý giải thì
tai họa ập đến. Người ta thoáng biết ý định thâm sâu của ông cùng bè bạn thân
thiết, và ông đã bị họ bịt mồm khi đang thổ lộ tâm tình thầm kín nhất. Dù sao
ông đã mãn nguyện phần lớn khi đã trút gần hết bầu tâm sự giữ kín 40 năm ròng.
Chính do những lẽ ấy mà cuốn Trần Đức Thảo -
Những lời trăn trối là cuốn sách quý, rất nên tìm đọc, phổ biến rộng và bàn
luận để tăng thêm hiểu biết về lịch sử và những nhân vật nước ta. Tuy tác phẩm
này đã ra đời chậm hơn 20 năm, nhưng dù sao nó vẫn là một cuốn sách rất có giá
trị với thời cuộc hiện tại.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được
đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập
trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Rất cảm ơn về bài viết của bạn, bài viết rất hay và ý nghĩa.
ReplyDeleteNếu có các nhu cầu về thiết kế, thi công các sản phẩm nội thất như: bàn ghế sofa, giường tủ, thi công trọn gói có thể liên hệ bên Mozza mình nhé.
Click vào đây để xem chi tiết nhé các bạn:
ghế sofa da phòng khách
sofada
sopha da
sofa da dep
ghe sofa da that cao cap
hãy liên hệ cho mình nhé.
Cảm ơn !
_______________________________________________
SIÊU THỊ GHẾ SOFA MOZZA
Địa chỉ: 38 - Tương Mai - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Điện thoại: 093 628 3333 - 04 6674 9999