02:32:am 07/09/14
Tôi đã đọc Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối qua
lời ghi chép lại của Tri Vũ- Phan Ngọc Khuê với nhiều trăn trở, nhiều đêm mất
ngủ, buồn cũng có và thương tiếc cũng có và cuối cùng chỉ còn biết thở dài với
một thứ triết lý bi quan: Quả đúng là một kiếp người-. Quả đúng là một hành
trình chữ nghĩa đầy gian lao và khổ cực phải đối đầu với nỗi sợ thường trực hầu
như suốt đời. Cái đói no vốn là thiết thân với sự sinh tồn của con người, vậy
mà so với nỗi sợ hãi bị theo dõi và ám hại xem ra còn nhẹ nhàng hơn nhiều.
Đọc từng đoạn, từng trang. Mỗi trang mỗi đoạn là mỗi
vấn đề-vấn đề của vấn đề- mà rất khó để tổng kết lại.
Cuộc đời triết gia Trần Đức Thảo là khổ lụy trăm
chiều. Vẫn biết rằng người ta ai cũng khổ, làm sao tránh được. Nhưng nỗi khổ
của Trần Đức Thảo là những cặp đối kháng như đen với trắng, giữa lý tưởng và
thực tế, giữa nhân cách và quyền lực, giữa bản năng sinh tồn và lý trí, giữa
điều thiện và tội ác, giữa dối trá và sự thật, giữa ta và người. Và cuối cùng
giữa mình và chính mình.
Cuộc đời triết gia Trần Đức Thảo phải nói là đầy
những năm tháng khốn cùng. Sự khốn cùng ấy bắt đầu từ chính cái nhân cách con
người ông. Nếu ông là hạng người chịu uốn lưng, chịu cúi đầu, chịu quỳ gối,
chịu uốn lưỡi thì cái khổ chỉ có một phần. Nhưng chết nỗi ông sống thẳng, sống
trung thực giữa một xã hội của bầy thú, gian manh, dối trá, lừa bịp, tàn bạo,
bất nhân, ác độc, kìm kẹp nên nó đã nghiền nát ông.
Nó không để cho ông có cơ hội làm người sống trung
thực. Nhiều lúc, ông cũng đã bị buộc phải nói tiếng nói của người phi nhân
cách, phi ngã.( Impersonnalité).
Ở đây, tôi chỉ xin đưa ra một nhận xét của ông Hoàng
Hoa Khôi phản ánh đúng con người Trần Đức Thảo, trước đó cũng ở trong nhóm Trôskyt
vào những năm 1944-1946 khi ông Thảo còn ngụ ở nhà số 10 Sorbonne, quận 5,
Paris, ông Khôi viết:
‘Những ai quen biết ông đều biết ông là người ‘kiêu
hãnh’(fier), tự tin, tự trọng. Ông không kiêng sợ ai và không ai làm ông phải
khâm phục. Con người ngang tàng và thông minh ấy đã bị bộ máy Stalinien bẻ gẫy,
nghiền nát. Con người ấy đã phải sống khuất phục hàng chục năm, dưới một chế độ
đầy quyền lực, tôn ti trật tự, sùng bái lãnh tụ’. [1]
Chính cái cá tính con người Trần Đức Thảo đã là
nguyên cớ cho những hệ lụy cuộc đời ông. Và đó cũng là cuộc chiến đấu không
ngừng nghỉ của riêng ông với chế độ để sống còn.
Và cuối cùng vào lúc cuối đời, vào lúc mọi hy vọng
đều tắc nghẽn, ông đã vượt thắng được tất cả, vật ngã kẻ thù- vật ngã cái trục
của điều xấu. Ông đã hối hận vì đã sai lầm, vì đã đồng lõa với điều xấu trong
nhiều năm.
Và để chuộc lỗi lầm, ông đã dùng sự thông minh, tài
nhận xét, sự lý luận để xô ngã được thần tượng Hồ Chí Minh và chà đạp dưới chân
ông chủ nghĩa Mác xít mà ông từng đeo đuổi trong suốt cuộc hành trình chữ nghĩa
của ông.
Cuộc sống của ông ngoài chuyện cầm bút, có thể chưa
chắc ông đã làm được điều gì ích lợi cho bản thân mình, cho gia đình mình.
Nhưng chết, ông đã chết xứng đáng, để lại cho đời sau một thông điệp rất rõ
ràng: Hồ Chí Minh là một tên đại bịp như Tào Tháo và chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa
phi nhân, không có con người.
Theo tôi, chừng đó đủ rồi. Đừng đòi hỏi thêm nữa.
Nhưng nhiều lúc tôi tự hỏi một người thông minh trác
tuyệt như ông, phải đợi đến cuối đời mới nhận ra mình sai lầm? Ông có bằng một
tên thợ nề vô học không? Tôi còn nhớ bản thân tôi khi di cư vào miền Nam, tôi
mới chập chững bước vào trung học. Chẳng bị ai tuyên truyền, chẳng bị ai xúi
giục, chẳng tôn giáo nào rỉ tai vô Nam.. Vậy mà như một sự thúc đẩy bên trong- không
phải bằng sự thông minh- mà bằng một bản năng sinh tồn- thúc dục phải đi thôi.
Đi bằng mọi giá. Thầy tôi do dự không muốn đi có thể vì tiếc của. Phần tôi nhủ
thầm, nếu gia đình không đi thì tôi sẽ một mình ra đi một mình.
Điều gì khác biệt giữa một trí thức cỡ Trần Đức Thảo
và một thằng nhỏ 12-13 tuổi đầu như tôi. Ai là người sáng suốt, ai là người
chọn đúng con đường phải đi?
Vào những năm 1950 sống ở bên Tây, lẽ nào ông không
biết đến những biến cố chính trị xảy ra giữa Đông Đức- Tây Đức?[2]
Cho đến bây giờ, những câu hỏi ngờ vực này vẫn lẩn
quẩn trong đầu chưa có một lời giải đáp thỏa đáng. Phải chăng ông sinh ra nhầm
thời đại và chọn nhầm chỗ cư ngụ, nhầm chế độ? Nhiều người cũng hỏi giống như
tôi. Tác giả Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê cũng hỏi bác Thảo một câu tương tự. Câu trả
lời của ông Thảo thật đơn giản: vì tôi có một lý tường muốn về để phục vụ đất
nước.
Đã bao nhiêu trí thức, nhân tài của đất nước hy sinh
và chết cả cuộc đời vì hai chữ yêu nước ?
Nói cho cùng, đó là cái dại của ông- chỗ đáng sống
ông không chọn như Paris hay Saigon- lại chọn Hà Nội. Chọn Hà Nội là tự chọn
vào cái chỗ chết.
Đúng như bố của ông than thở: Về như vậy là mày
tự giết mày rồi! Mà cũng là giết cả mẹ mày và tao nữa. Thảo ơi! Phải chi mà mày
học được cái nghề như thợ nề, thợ máy, thợ mộc gì.. thì đỡ khổ cho tao biết
mấy…(..) Chúng nó đã xúi mày đi vào chỗ chết. Có là điên mới đi theo chúng nó.
Mày về đây là mày giết mày giết cả tao đấy Thảo ơi là Thảo ơi! [3]
Chính cái mà ông gọi là lý tưởng đã hại chẳng những
mình ông mà hại cả trăm, cả ngàn, cả vạn người sau này. Họ đã viết lên những
lời tự thú tội mà danh sách những người này mỗi ngày mỗi dài. Người chót trong
danh sách ấy hiện nay là một ông già 85 tuổi tên Trần Đĩnh trong cuốn Đèn Cù. [4]
Giả như ông cứ ở Paris hay về Sài Gòn thì cuộc sống
và tương lai chữ nghỉa của ông sẽ như thế nào? Sẽ có 10 cuốn Phénoménologie
thay vì chỉ có một cuốn.
Nếu ông ở lại bên Pháp, ông sẽ được chào đón bởi
những người trí thức hàng đầu của Pháp về triết học như J.P Sartre và nhóm Les
Temps modernes, hay nhóm chủ thuyết Hiện tượng luận như Merleau Ponty hay nhóm
cộng sản trong Les enjeux, Révolution và nhất là người học trò đã nhận ông là
bậc thầy duy nhất về triết thuyết cộng sản Althusser.
Chữ nếu ấy đã không bao giờ xảy ra mà chỉ vì lòng
thương tiếc ông mà ta tự đặt ra thôi.
Và nếu ông về Sài gòn thì sao? Lại nếu. Thật là quá
trễ để nói về điều ấy. Nhưng qua vài dòng ông thố lộ sau đây cho thấy Sài Gòn
vẫn là mảnh đất dung thân cho đủ loại trí thức của dòng chảy di cư sau 1954.
Thật vậy, khi được Trần văn Giàu và Trần bạch Đằng
thu xếp vận động cho ông Thảo vào sống ở Sài Gòn. Ông đã ngạc nhiên không ít
khi nhìn thấy Sài Gòn lần đầu- một Sài gòn đã bị bần cùng hóa và tha hóa sau
1975- mà cái ông nhận ra chỉ là những rớt lại như những mảnh ván trôi bập bềnh
trên biển sau khi con thuyền đã chìm:
‘Mới đặt chân xuống cái thủ đô của miền Nam này, mọi
sự đã làm tôi kinh ngạc. Qua bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ mà sao Sài Gòn
nó lại khang trang hiện đại như vậy? Tôi cứ ngỡ cả miền Nam đói khổ vì bị Mỹ-Ngụy
bóc lột đến nỗi miền Bắc đã phải ‘cắn hạt gạo làm tư’ để cứu giúp miền Nam cơ
mà.. Và mọi người ở đây nói năng cởi mở thoải mái như vậy? Ngay những cán bộ
Đảng ở đây cũng có thái độ tự do quá. Họ đãi đằng, giễu cợt tôi, coi tôi cứ như
anh mán, anh mường ở rừng mới được về thành phố. Phải nói thẳng ra là có một
điều của Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng đến cùng cực. Đó là những bài hát của
một anh chàng nhạc sĩ trẻ của miền Nam, nói đúng ra là của Mỹ-Ngụy chứ không
phải của Đảng. Tên anh ta là Trịnh Công Sơn. Các bài hát của anh ta mang nỗi
niềm day dứt, oán trách chiến tranh. Cứ như anh ta khóc than thay cho cả dân
tộc ở cả hai miền Nam Bắc. Giữa những năm tháng chiến tranh một mất một còn ác
liệt như thế mà sao anh ta dám cất lên tiếng kêu than như vậy. Những lời ca của
những bản nhạc đã làm tôi xúc động bồi hồi không cầm được nước mắt. . [5]
Cả một đất nước, cả một dân tộc đã bị nhiễm độc vì
những lời tuyên truyền dối trá như thế- trước đây và bây giờ vẫn tiếp tục.- Tội
cho con người, tội cho thế hệ mai sau mà chưa biết đến lúc nào, đến bao giờ
chúng ta giải trừ được cái nọc độc ấy.
Có thể nói trong toàn bộ cuốn Những lời trăng trối,
đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất chỉ một lần thôi, Trần Đức Thảo có những
lời khen trân trọng với niềm xúc động đối với miền Nam Việt Nam!!
Miền bắc cộng sản trong toàn bộ cuốn sách hầu như
tuyệt đối không có trong mắt của Trần Đức Thảo.
Và nếu sự việc xảy ra chỉ khác một chút thôi- cái
giây phút chóng vánh gặp Hồ Chí Minh- nếu ông đã nhận ra được cái dã tâm của
con người ấy trong lần tiếp xúc đầu tiên- may ra ông sẽ tránh được những nghịch
cảnh đau lòng sau này.
Làm gì sau này ông phải sống cái cảnh giữa chuột và
Người. Cả một đàn chuộc đủ loại con lớn con nhỏ đã rúc rỉa ông, sói mòn ông
sống như thằng điên, thằng khùng, tiêu tan sự nghiệp, mất cả vợ vào tay ngưới
khác.
Ông nhớ lại như một hồi ức đau thương ở Hà Nội vào
những năm ấy, họ nhất loạt tố cáo ông như trường hợp Phạm Huy Thông với bài:
Mặt thật của Trần Đức Thảo.
Ông Trần Đức Thảo với nhân cách cao vời đã không chấp
đám học trò. Nhưng được cật vấn về trường hợp Phạm Huy Thông, ông bất đắc dĩ
bày tỏ như sau:
‘Anh chàng ấy hồi ở Pháp thì tôi có biết, nhưng
không thân..Sau này nhân vụ đấu tố nhóm Nhân Văn Giai Phẩm thì Phạm Huy Thông
đã ngả theo phe Tố Hữu để tố khổ tôi một cách hằn học thật là tồi tệ bất ngờ.
Cách thức tố cáo, buộc tội tôi như thế đã làm cho y sau này bị xấu mặt cả đám
văn nghệ sĩ cán bộ. Bởi lúc ấy, những gì mà mỗi trí thức đã viết ra, thì đều
phơi bầy cái mặt trái, mặt thật xấu xa, hèn kém của họ’. [6]
Hay bội bạc hơn nữa, cảnh trò tố cáo thầy như trường
hợp nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến. Nguyễn Đình Chú. Và chua chát nhất là bài của
của một môn sinh phản thày: ông Khắc Thành trong bài Quét sạch nọc độc Trần Đức
Thảo trong việc giảng dạy triết học.
Cảnh chuột và Người chỉ có thể xảy ra ở Hà Nội. Và
chỉ ở Hà Nội. Ai là chuột ai là Người trong những tên tuổi sau đây trong giai
đoạn đấu tố Trần Đức Thảo:
Có cả một chiến dịch nhằm đánh phá vào một mình ông
với các tên tuổi như: Bác sĩ Hồ Đắc Di, giáo sư Phạm Hữu Tước, giáo sư Nguyễn
Lân, giáo sư Nguyên Hoán. Trường Giang, Thiều Quang, Ngô Vi Luật, Chu Thiên, Lê
Dân.
Cả một danh sách dài biên niên mà Lại Nguyên Ân đã
ghi lại. Nay thì những đàn chuột ấy ở đâu?
Đấy là món nợ của trí thức Hà Nội mà không một ai
trả nổi dù đây đó đã gióng lên những lời xin lỗi. Bởi vì ai là kẻ gây ra món nợ
này? Cứ hỏi và cứ hỏi đi và câu hỏi cứ ‘ trèo “ lên cao mãi, phải chăng là Tố
Hữu? Cũng không phải, Trường Chinh cũng không nốt mà trèo lên đến đỉnh điểm thì
còn trơ trọi có một người. Người đó là Hồ Chí Minh- Đẹp mãi tên Người-. Chính
con người ấy mới là thủ phạm chính- thủ phạm trù dập Trần Đức Thảo đến tận đất
đen-. Hồ Chí Minh có thể tha tội chết cho ông, chứ không tha tội sống. Cũng
chính Hồ Chí Minh là người đã dẫn đưa đất nước đến hố sâu của sự bần cùng và
tụt hậu, phá sập trật tự pháp luậ, trật tự xã hội và trật tự đạo đức như hiện
nay. Sau này, muốn khôi phục lại có thể mất hàng thế kỷ vị tất đã xong.
Trần Đức Thảo là người đã nhân danh con người tố cáo
và vạch trần thủ phạm Hồ Chí Minh ngày hôm nay.
Vì thế nay chính quyền cộng sản muốn trả món nợ ấy
cho Trần Đức Thảo thì thật không đơn giản và nhẹ nhàng thoải mái như khi trả nợ
cho Lê Đạt, Trần Dần, ngay cả Nguyễn Hữu Đang hay bất cứ ai khác. Với Lê Đạt,
Trần Dần, có khi chỉ cần cho họ trở lại biên chế, trả lương bổng, cấp cho vài
cái bằng khen và cho phép cầm bút trở lại thì họ đủ bằng lòng và xóa nợ tất cả.
Nhưng đối với Trần Đức Thảo khi ông đã nhiều lần gọi
tất cả lãnh đạo cộng sản là chúng nó- chúng nó tính từ Hồ Chí Minh trở xuống
đến Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn- thì những nhân sĩ, trí thức, nhà văn miền Bắc lấy
tư cách gì mà đòi trả nợ cho Trần Đức Thảo? Cho dù nay ông còn sống, ông cũng
không cần ai trả vì theo ông những kẻ tố cáo ông thì tự họ làm xấu mặt họ..
Kẻ tố cáo bỗng nhiên trở thành kẻ bị cáo.
Nhưng đối với ông chết là để sống trung thực. Và ông
đã làm được điều ấy. Vậy thì có đáng gì một cái huân chương để trên nắp quan
tài nhà triết học? Một thứ nghi lễ trang trí, dối trá và bịp bợm. Một thứ văn
hóa cộng sản theo nghĩa hôm nay nó giết mình, mai nó cho người mang vòng hoa
đến phùng điếu!! Hãy đọc đoạn văn sau đây của nhà văn Phùng Quán về tính bi hài
kịch của thứ văn hóa cộng sản. Bài viết với nhan đề: Hành trình cuối cùng của
một triết gia.
Lần này triết gia trở về Tổ Quốc trong khoang hành
lý máy bay, chiếm một chỗ hết sức khiêm nhường. Triết gia đã hóa thân thành tro
nằm trong cái bình bằng kim loại sơn mầu xanh thẫm hơi giống một chiếc cúp bóng
đa và cũng to bằng cỡ đó…(..). Về đến Hà Nội vì không có gia đình vợ con, không
có cơ quan nào nhận để thờ, hoặc để quàn….nên triết gia phải tạm trú dưới cái
gầm cầu thang của nhà tang lễ thành phố 125 , đường Phùng Hưng Hà Nội.
Tôi được biết triết gia là người chiếm kỷ lục thời
gian tạm trú ở đây. Năm mươi ngày đêm.Và mỗi ngày đêm tiền thuê phòng là 5000
đồng..Nhưng Trần Đức Thảo thuê phòng mà diện tích tranh thủ chưa đầy một mét
vuông..Khách thuê phòng này lại không dùng đến giường, đệm, chăn màn, tivi, tủ
lạnh, điện thoại riêng, máy điều hòa nhiệt độ, toa lét, nhân viên phục vụ..
tính chi li theo tôi còn đắt hơn cả khách sạn 5 sao.
Triết gia phải tạm trú lâu như vậy là phải chờ quyết
định trên, có được đưa vào Mai Dịch hay phải về Văn Điển..
Sau 50 ngày chờ đợi, tốn mất 250 ngàn tiền phòng,
triết gia đã được trên quy định đưa về mai táng tại khu A Văn Điển, khu vĩnh
viễn hưởng thụ đúng tiêu chuẩn quy định.
Mộ của ông khá đặc biệt. Bình tro được đặt trong
tiểu sành, tiểu sành được đặt dưới khuôn huyệt bên trên có nắp bê tông đậy kín.
Như vậy là ông được mai táng theo quy cách các nhà giàu cổ xưa: trong quan
ngoài quách.
Đây có lẽ là sự xa xỉ độc nhất trong cuộc đời triết
gia quá ư thanh bạch của ông, mà nếu biết được, tôi tin chắc ông sẽ kịch liệt
phản đối. [9]
Đoạn văn trên của Phùng Quán nói đến hành trình cuối
cùng của triết gia- một hành trình được diễn ra với kịch tính, thô bỉ và không
thiếu sự đểu cáng.
Nhưng sau đây là Hành Trình khởi đầu cho một cuộc
đời bất hạnh với đầy gian khổ.
Con đường Paris-Luân Đôn-Praha-Moscou-Bắc Kinh- Việt
bắc là con đường không bằng phẳng-chông gai, gập ghềnh ngay từ đầu- mà Trần Đức
Thảo đã tự chọn. Hồ Chí Minh đã từ chối không cho ông về. Ông phải cậy cục đảng
cộng sản Pháp đến cả lãnh đạo Liên Xô để được về chiến khu Việt Bắc. Đây là
khúc nhạc khởi đầu cho một liên khúc kéo dài trong suốt 40 năm. Chọn ai không
chọn lại chọn một người mà sau này chính ông gọi là một thứ gian hùng chẳng
khác gì Tào Tháo..
Ông đã sống như thế- sống vất vưởng, tủi nhục- vì
chính những chọn lựa của mình. Khó mà trách ai được. Nhiều lúc tưởng ông như
một người đi trên mây, dở khùng, dở dại. Nhiều lúc tưởng chừng bộ máy nghiền
cộng sản đã bẻ gẫy ông. Trong vụ Nhân Văn Giai phẩm, rõ ràng đảng sai ông đúng.
Vậy mà ông cũng đã có lần cúi đầu thú tội: Ông đã xin lỗi trước đảng và trước
nhân dân. Ông cũng đã thú nhận là trong nhiều lần học tập, ông cũng đã phải dơ
tay như mọi người hô: Nhất trí, nhất trí.
Ông cũng biết nhẫn nhục, cũng biết sợ chết và hầu
như cả đời ông bị ám ảnh về nỗi sợ hãi bị ám sát.
Nhưng khi chết, ông đã để lại một di sản tinh thần
vô cùng quý báu- không phải những sách như Phénoménologie et matérialisme
dialectique(1951)- Sách này đã làm nên danh phận ông- mặc dầu vậy nó có cũng
được không có cũng không sao.
Bời vì, thứ chủ nghĩa mà ông đeo đẳng gần như suốt
cả cuộc đời nay ông đã rũ sạch. Nó chỉ còn là một món hàng bị phá sản mà chính
chủ nhân của nó đã tìm cách bán tống bán táng đi rồi.
Cuối cùng một điều tối quan trọng. Sống có thể ông
không làm được gì-.
Ông đã tỏ ra ‘vô ích” khi còn sống.
Nhưng cái chết của ông chỉ đến lúc ông nằm xuống,
người ta mới biết được tất cả sự thật. Đảng tưởng rằng đã loại trừ được một tên
cộng sản quấy rầy- un communiste dérangeant. -Đảng mới bật ngửa ra là đã không
khai trừ nổi được ông.
Lúc ông chết mới thật sự là lúc ông sống thật với
ván bài lật ngửa.
Ông đã có thể thất bại suốt cuộc đời dù rất có thể,
ngay cả cái cái chết của ông đã bị nghi ngờ là người ta đã ám toán ông bằng
thuốc độc. Cứ như đọc diễn tiến mấy ngày cuối đời trong Những lời trăng trối
của ông thì phải đi đến kết luận là ông đã bị đầu độc đến thượng thổ, hạ tả và
khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu thì ngày hôm sau, ông đã tắt thở.[10]
Mặc dầu vậy, vượt mọi toan tính đê tiện của những kẻ
thù, ông đã để lại được chúc thư cuối đời qua cuốn Những lời trăng trối.
Đây là sự bất ngờ vượt mọi dự đoán của kẻ thù ông.
Ông đã đánh lừa được tất cả mọi người. Đánh lừa bằng cách gỉả điên, giả ngu
ngơ, giả khờ dại, giả câm điếc. Từ những kẻ muốn ám hại ông đến những người quý
mến ông, những trí thức ở Paris đều tưởng ông đã hết thời, đã ăn nói lẩm cẩm.
Nhưng mọi người có thể đã lầm. Ông đóng kịch khéo
quá, khéo đến như thật.
Nay tất cả mọi người đều ngỡ ngàng về tập sách Những
lời trăng trối…
Ngỡ ngàng là phải, vì những lời trăng trối chết
người này; những lời tâm huyết có thể quyết định sinh mạng Trần Đức Thảo và
cũng có thể trở thành lưỡi liềm phạt cỏ dưới chân của Hồ Chí Minh và đảng cộng
sản.
Đáng nhẽ, những lời trăng trối này phải được trao
cho những trí thức thiên tả như Nguyễn Ngọc Giao mới phải. Nguyễn Ngọc Giao là
người đã giúp đỡ ông nhiều trong thời gian trước đây ở Sài gòn trong việc in
sách. Nguyễn Ngọc Giao cũng là người đã tìm nơi ăn chốn ở và tiền tài trợ mỗi
tháng 10.000 fr cho Trần Đức Thảo- một mối giao tình vừa là tình bạn vừa theo
nghĩa ‘đồng chí’. Hoặc chị X, cũng thuộc cánh trí thức tả thường đến thăm ông
thường xuyên tại phố Le Verrier..
Tôi tự hỏi tại sao ông không chia sẻ tâm sự với các
đồng chí của ông?
Không!! Trần Đức Thảo không tin ai cả, nhất là những
thành phần cùng phe phái như cánh tả, dù có liên hệ bạn bè. Ông sợ họ và sợ lây
lan đến những kẻ cầm quyển.
Trớ trêu và oái ăm thay! Ông lại tin và trút hết tâm
sự cho hai người xa lạ, một người kể như chưa hề quen biết ông. Đó là giáo sư
Canh và Tri Vũ- Phan Ngọc Khuê.(Tôi không được rõ Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê là hai
người hay một người)
Tôi đã tìm được câu trả lời. Với thói quen quán
tính, cả đời ông chỉ gặp những kẻ thù lúc nào cũng sẵn sàng rình mò để sẵn sàng
tố cáo ông.
Còn hai người khách lạ này đến với ông bằng một tấm
lòng. Và nhất là họ là người Sài Gòn- người quốc gia-.Xin đọc:
‘Canh và tôi –(một người gốc gác ở Quy Nhơn, một
người ở Sài Gòn)-đều rất xúc động khi phải chứng kiến cảnh một vị giáo sư từng
một thời vang danh ở Paris, mà nay phải hạ mình bàn cách bán tiếng nói, bán chữ
để kiếm sống qua ngày(…)Canh cũng bỏ vào túi áo nhà triết học một chút tiền.
Chúng tôi rất ngạc nhiên và cũng rất ái ngại khi nhìn thái độ ngượng ngùng của
bác Thảo khi tiếp nhận sự trợ giúp ấy. Phải cố cầm nước mắt, để gượng cười với
nhau. Những tâm sự u buồn ấy đã làm chúng tôi im lặng khá lâu khi cùng nhau đi
ra xe. [11]
Ở một chỗ khác, ‘Bác Thảo lắc đầu mỉm cười tê
tái, mắt ngấn lệ. Chúng tôi nhìn bác thấy thảm thương quá, không cười theo
được. [12]
Chính ở những tình tự con người xuất phát từ những
con tim mà có tương giao con người mà có chia sẻ, có tín cẩn và có chỗ giãi bầy
tâm sự mà cả cuộc đời 40 năm ở xã hội cộng sản, bác chưa hề một lần bắt gặp.
Cũng chính ở chỗ đó mà có được tập sách này. Xin cám
ơn con người. Cám ơn tác giả gốc gác miền Nam.
Trong khi đó, phần đông trí thức thiên tả ở Paris
chỉ muốn tìm lại ở Trần Đức Thảo – một cái hào quang quá khứ như chỗ dựa cho sự
suy tàn của cánh tả- hoặc tìm lại một con người thông minh sắc sảo của thập
niên 1950 như một đồng chí, như một niềm vinh hạnh.[13] Nhưng Trần
Đức Thảo đã làm họ thất vọng. Họ lẳng lặng bỏ rơi ông như một thứ món hàng bị
phế thải. Sau khi nghe ông Thảo thuyết trình về Triết học của Staline ở trường
đại học Denis Diderot thì mọi người đều thất vọng. Ông Lê Thành Khôi bỏ về nửa
chừng. Nguyễn Ngọc Giao, một người có lòng muốn giúp đỡ ông Thảo nhiều trong
việc tìm chỗ ăn, chỗ ở cho ông Thảo than:
‘Ông trình bày xong thì tôi ra về, không ở lại nghe
phần hỏi đáp..(…) Nghe ông nói bữa ấy, tôi buồn quá. Dường như tôi không phải
là người duy nhất cảm thấy buồn…[14]
Nay nếu có dịp đọc tập sách Những lời trăng trối thì
Nguyễn Ngọc Giao sẽ buồn hay vui?
Bẽ bàng hơn cả có thể là viên Đại sứ Trịnh Ngọc Thái
ở Pháp đã bị Trần Đức Thảo qua mặt sau cái chết có thể do chính y đạo
diễn..tưởng rằng đã tịch thu được mọi tài liệu tại ngôi nhà số 2 Le Verrier
ngay sau khi ông Thảo chết vào 2 giờ sáng ngày 24 tháng tư năm 1993. [15]
Y đã nhầm và tính sai một nước cờ. Nước cờ của ông
Trần Đức Thảo đi xuất phát từ lòng nhân ái mà y không thể tiên đoán trước được.
Y quen thủ đoạn, y quen lừa lọc nên không hiểu thế nào là tình con người.
Và tại Sài gòn, một nhân vật quyền thế nắm sinh mạng
Trần Đức Thảo là Sông Trường, y chính là người đã trục xuất Trần Đức Thảo ra
khỏi Việt Nam với một vé máy bay có đi mà không có về. Y bị Trần Đức Thảo lừa
một cách tủi nhục. Hãy nghe y nói với Trần Đức Thảo:
‘Chúng tôi đã bố trí, đã chuẩn bị cho anh một lối
thoát vừa danh dự vừa lý tưởng. Vì anh chưa nghĩ thấu đáo đấy thôi. Tất cả đã
sẵn sàng rồi! Nhất định là anh không thể lưu lại cái đất Sài Gòn này như vậy
nữa đâu! Đảng đã quyết định, nhất định là anh sẽ phải ra đi thôi!!! [16]
Sự thật theo lời ghi lại của ông Trần Đức Thảo thì
ông đã bị trục xuất ra khỏi Việt Nam như một thứ vật dư thừa, thứ đồ phế thải.
Nhưng họ lại gọi đây là một chuyến đi công tác.
Vì thế, mới có bài viết: Về chuyến đi công tác tại
Pháp của giáo sư Trần Đức Thảo tháng 3- năm 1991- 24 tháng 4 năm 1993 của ông
Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà.[17] Chuyến đi công tác này có nhiệm vụ đi
giải độc về những gì Georges Boudarel được coi là đã viết sai về Nhân Văn Giai
Phẩm tại Việt Nam. Từ ông Phạm Văn Đồng đến Nguyễn Văn Linh và ông Hồng Hà đều
bằng lòng bố trí cho Trần Đức Thảo sang Paris. Chính ông Hồng Hà đã ký công văn
số 624-CV-TU cử giáo sư Trần Đức Thảo sang Pháp để nghiên cứu khoa học. Sau đó
ông Thảo đã được cấp vé máy bay và ăn ở tại Paris trong thời gian 6 tháng..
Đọc những thông cáo chính thức trên cho thấy tính
cách bịp bợm của lãnh đạo cộng sản. Một mặt gọi là chuyến công tác giải độc
những điều viết sai trái của G. Boudarel. Nhưng trong công văn chính thức lại
ghi là đi nghiên cứu khoa học!!
Khôi hài. Ông Trần Đức Thảo là triết gia biết gì về
lãnh vực khoa học- khoa học gì mới được- mà nghiên cứu?
Phần Đức Thảo khi được hỏi về vấn đề này đã giải
thích như sau:
- Thế bác không lo làm công tác vận độn sự ủng hộ
cho chính sách của đảng và nhà nước à?
- Lúc mới qua thì buộc lòng phải nói thế thôi! Chứ có vận động khỉ gì đâu, Hôm ấy cứ bị chất vấn: vận động cái gì, vận động như thế nào, vận động những ai… làm tôi bối rối.(..). Chẳng lẽ lại nói tôi trở qua Paris là không có mục đích gì sao? Hoặc nói là qua đây để ngồi viết sách, để người ta cười cho à? [18]
Ông tiến sĩ Cù Huy Chử- một cánh tay của đảng-. Ông tự cho mình là người được ông Trần Đức Thảo tín nhiệm và đã trao hết di sản tinh thần cho ông nắm giữ. Và mới đây, vì chưa có cơ hội đọc cuốn Những lời trăng trối, ông đã tổ chức vinh danh Trần Đức Thảo theo kiểu ‘nhổ ra rồi lại liếm’.
- Lúc mới qua thì buộc lòng phải nói thế thôi! Chứ có vận động khỉ gì đâu, Hôm ấy cứ bị chất vấn: vận động cái gì, vận động như thế nào, vận động những ai… làm tôi bối rối.(..). Chẳng lẽ lại nói tôi trở qua Paris là không có mục đích gì sao? Hoặc nói là qua đây để ngồi viết sách, để người ta cười cho à? [18]
Ông tiến sĩ Cù Huy Chử- một cánh tay của đảng-. Ông tự cho mình là người được ông Trần Đức Thảo tín nhiệm và đã trao hết di sản tinh thần cho ông nắm giữ. Và mới đây, vì chưa có cơ hội đọc cuốn Những lời trăng trối, ông đã tổ chức vinh danh Trần Đức Thảo theo kiểu ‘nhổ ra rồi lại liếm’.
Cho đến ngày hôm nay, cuốn sách của ông Trần Đức
Thảo gây được tiếng vang lớn trên thế giới thì ở bên nhà, ông Cù Huy Chữ vẫn
giữ im lặng.
Nội dung cuốn sách Những lời trăng trối bàng bạc
từng chi tiết, từng sự việc, dù là chuyện lớn, chuyện nhỏ, dù là chuyện liên
quan đến Trần Đức Thảo hay không chỉ tóm tắt vào hai chủ đề lớn: Hạ bệ thần
tượng Hồ Chí Minh bằng chứng minh, bằng lý luận, bằng những nhận xét sâu sắc để
vạch trần bộ mặt thật của Hồ Chí Minh.
Về điểm này, từ xưa đến nay, chưa ai có đủ tư cách
cũng như can đảm làm được như ông.
Điểm thứ hai, ông chứng minh và cho thấy rằng Marx
sai lầm. Staline sai lầm và trong chuỗi lý luận ấy Hồ Chí Minh chỉ là kẻ ăn
theo hiển nhiên là sai lầm.
Theo tôi, cho dù có theo đuổi chủ thuyết Mác Xít thì
qua những trải nghiệm đau thương về Cải cách ruộng đất, về Nhân Văn Giai Phẩm,
Trần Đức Thảo nói cho cùng là một triết gia gia Mác Xít nhân bản( Humanisme
Marxiste) theo như một số nhận định của nhiều người.
Với quan điểm nhìn ấy, dù ông không còn nữa, ông đã
xóa sổ đảng cộng sản Việt Nam!!
Nói cho cùng sự trả giá của ông không phải là vô
ích.
(Còn nữa)
© Đàn Chim Việt
————————————————–
Chú
thích:
[1] Hoàng Hoa Khôi, Một nhận định về Trần Đức Thảo,
Paris, tháng 8.1993, Thông Luận 64, tháng 10.93
[2] Vào những năm 1950, có khoảng ba triệu
người Đông Đức bỏ trốn sang Tây Đức. Bỏ trốn bằng mọi cách như nhảy lầu, chui
đường ống cống, đào đường hầm, chui qua hàng rào thép gai. Chả nhẽ Trần Đức
Thảo chỉ chúi đầu vào sách?
[3] Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid,
trang 160
[4] Trích Trần Đĩnh, Đèn Cù: Một hôm
Trần Ðức Thảo được thư ký của Lê Duẩn là Nguyễn Ðức Bình đến đón, bằng xe hơi,
trong khi nhà triết học đang sống trong cảnh nghèo nàn, túng thiếu, bị cả bạn
bè bỏ rơi vì đã tham dự nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, viết những điều ngược lại với
chủ trương văn hóa của Ðảng. Nguyễn Ðức Bình nói ông tổng bí thư muốn đọc cho
giáo sư nghe để xin ông góp ý kiến về một bài đang viết: “Ðề cương về vấn đề
con người.” Ngồi trong phòng khách, chỉ có ba người, Lê Duẩn độc thoại được mấy
phút thì Nguyễn Ðức Bình nhắc Trần Ðức Thảo hãy ghi những lời ông tổng bí thư
nói. Trần Ðĩnh cho biết một thói quen của các quan chức, cán bộ là khi nghe cấp
trên nói gì thì họ cũng ghi chép chăm chú những lời vàng ngọc, chứng tỏ lòng
kính cẩn và trung thành. Thấy triết gia cứ ngồi im, Bình chạy đi lấy giấy, bút
đến đặt trước mặt. Triết gia vẫn không ghi chép gì cả. Khi Duẩn ngưng, Nguyễn
Ðức Bình nhắc: “Tổng bí thư đã nói xong, xin giáo sư góp ý kiến.” Trần Ðức Thảo
ngơ ngác một lát, rồi thú thật: “Tôi không hiểu gì cả.”
Ngay lập tức ông tổng bí thư chạy ra đằng sau Trần
Ðức Thảo, hay tay quàng ôm lấy ngực triết gia, xốc lên, dội xuống mấy lần, rồi
“buông thịch” xuống một cái cho ông giáo sư rơi xuống ghế ngồi. Lê Duẩn bỏ đi
vào phòng trong. Bình trách mắng ông giáo sư tại sao “nói không hiểu gì cả,”
rồi cũng đi vào. Trần Ðức Thảo còn một mình, không biết lối ra, phải hỏi mấy
người hầu trong nhà đường nào đi ra cổng, rồi về nhà mình.
Trần Ðức Thảo nói thật lòng. Ông không hiểu Lê Duẩn
nói cái gì. Trần Ðĩnh hỏi tại sao không hiểu. Triết gia trả lời: “Khái niệm
không chuẩn gì cả!”
[5] Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê, Trần Trần Đức Thảo,
Những lời trăng trối, trang 210
[6] Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Những lời
trăng trối, trang 346, Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ.
[7] Hoàng Ngọc Hiến, trong bài viết Cách cho của
giáo sư Trần Đức Thảo, phần chót của bài viết, ông thú nhận:Năm 1958, trong
đợt đấu tranh tư tưởng ở trường Đại Học Tổng Hợp, tôi đã phê phán Trần
Đức Thảo hết sức gay gắt trong một bài tham luận. Cũng như mọi triết gia, ông
Trần Đức Thảo là người độ lượng. Ở nhà trí thức lỗi lạc này, tôi còn cảm nhận
một điều gì đó lớn hơn sự độ lượng. Trích trong báo Văn Nghệ, số 1, Bộ mới,
tháng 7-1993, trang 2
[8] Lại Nguyên Ân, Món nợ với giáo sư Trần Đức
Thảo, 5-5-2013
[9] Bút ký của Phùng Quán, Hành trình cuối cùng của
một triêt gia, báo Người Hà Nội, trang 1-2 số 32 ( 332), ngày 8-8 đến ngày
14-8-1993.
[10] Ông Hoàng Hoa khôi viết :Theo lời kể lại
của những bạn bè xung quanh ông Thảo, đảng vẫn cảnh giác đề phòng những việc
ông làm, những bài ông viết tại quán trọ LeVerrier. Thậm chí nhiều người còn
đặt nghi vấn về cái chết bất ngờ và nhanh chóng của ông. Ibid, Thông Luận 64
[11] Trần Đức Thảo Ibid, trang 38-40
[12] Trần Đức Thảo, Ibid, trang 195
[13] Đám trí thức thiên tả này đã chót bám theo
Đảng. Nay biết rõ bộ mặt thật thối tha của Đảng. Bỏ thì không nỡ, chống thì
chống nửa vời thành ra một đám người lạc loài, một loại trí thức ‘cánh tả
Caviar’ con nhà giàu ngồi nói thánh nói tướng, bất kế thực tại đất nước bên nhà
ra sao..
[14] Nguyễn Ngọc Giao, Với Trần Đức Thảo, một chút
duyên nợ, Diễn Đàn Xuân Tân Mão
[15] Trong bài Mort d’un philosophe militant,
Jean-Paul Jouary tiết lộ cho biết Thảo đã kín đáo chuồn tất cả tài liệu viết
bằng tiếng Pháp cho họ mà nay chưa có điều kiện để đăng lại tất cả.
[16] Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid,
trang 236
[17] Cù Huy Chử, Cù Huy Song Hà: Về chuyến đi công
tác tại Pháp của giáo sư Trần Đức Thảo( tháng 3 năm 1991- 24 tháng tư năm
1993). Viet- Studies ngày 18-9-11
[18] Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid,
trang 31
---------------------------------
*
04:28:pm 10/09/14
I-
Giải mã bộ mặt thật của Hồ Chí Minh
Ngày 5 tháng sáu, năm 1946 đánh dấu lần đầu tiên ông
Trần Đức Thảo được gặp Hồ Chí Minh tại Paris. Trong buổi chiêu đãi ‘phái bộ cụ
Hồ’, ông Thảo đã hồn nhiên vội vã thân mật ra nắm chặt tay Hồ chủ tịch và nói:’
Tôi rất hân hạnh gặp cụ chủ tịch. Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: Chào chú Thảo.. Vào
cuối bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng chiến.
Trần Đức Thảo hăng hái nhận lời ngay và nói ông Hồ: Tôi rất mong ước được về
nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp tại quê hương
ta. Và để đáp lại lời ông Thảo: ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt
thì vẫn lạnh lùng khi nhìn tôi. Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt
mọi người. Khi bắt tay tôi thì ông cụ nói với tôi một cách nghiêm nghị:
- Còn chú Thảo này thì cách mạng chưa cần tới chú
lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris thì có lợi cho cách mạng và cho chú hơn. [19]
Và kết quả là có bốn Việt kiều cùng về với ông Hồ
là: ba kỹ sư Phạm Quang Lể, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh và bác sĩ Trần Hữu Tước.
Sự loại trừ ông Trần Đức Thảo của ông Hồ rõ ràng đến
như thế mà xem ra ông Thảo vẫn không nhận ra.
Hồ Chí Minh khi sang Pháp hẳn đã nắm hồ sơ Trần Đức
Thảo trong việc ông cộng tác với nhóm Troskyt để thành lập Ủy ban Đại diện Việt
kiều( Delégation Générale des Indochinois en France), đại diện cho 20.000 Việt
kiều ở Pháp..Và năm 1946, ông cũng là người tuyên bố công khai bất đồng ý kiến
với Hiệp Định sơ bộ mà ông Hồ ký. [20]
Số phận ông Thảo không giống số phận của Nguyễn An
Ninh, Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu thuộc nhóm cộng sản đệ tứ được kể là điều may
rồi. Tạ Thu Thâu còn dại dột vì câu nói: Ngoài bắc có cụ trong Nam có tôi. Trần
Đức Thảo cũng dại dột không kém khi nói với Hồ Chí Minh: Tôi rất mong về nước
để cùng cụ xây dựng thành công.
Nói như thế là tự cho là ngang hàng với Hồ Chí Minh,
một xúc phạm đến lãnh tụ đến không tha thứ được. Anh là cái thá gì mà đòi cộng
tác, cùng cụ xây dựng!!
Ông Thảo cũng đã thừa nhận rằng, ông cụ phải là trên
tất cả và không cho phép ai tỏ ra ngang hàng với Người.
Trong khi đó TS Cù Huy Chữ đã viết lại kỷ niệm ngày
27-7-1946 trong buổi gặp gỡ giữa ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng có phần khác
hẳn[21]. Ông không có dù một chữ nói về cuộc gặp vắn vỏi giửa Hồ Chí
Minh và Trần Đức Thảo.
Sự che giấu ấy nay trở thành sự thật lộ liễu quá.
Điều gì các ông ấy không nói ra, điều đó mới là sự thật.
Sự thật như Trần Đức Thảo tiết lộ là Hồ Chí Minh đã
có ác cảm với ông ngay từ buổi gặp gỡ lần đầu tiên với Việt Kiều tại nhà ông
Raymond Obrac, người đã có nhã ý cho mượn nhà để làm buổi tiếp tân.
Trần Đức Thảo cảm thức được rằng kể từ nay, thân
phận người trí thức như ông sẽ bị bóng ma Bác Hồ phủ lên. Từ đó, Trần Đức Thảo
suy luận thêm rằng trên bác Hồ có bóng ma của Mao Trạch Đông, trên Mao Trạch
Đông có bóng ma của cụ tổ Marx.
Và dân chúng ở ngoài bắc cùng một lúc chịu bị đè bởi
hai bóng ma: Bóng ma Liên Xô và bóng maTrung Quốc. Đấy là thảm cảnh đi căng
giây cũng là thảm cảnh của cả dân tộc.
Trần Đức Thảo nói thêm: Vậy mà ông cụ cứ tưởng mình
tài giỏi, cứ tưởng mình đã tạo ra những trang sử oai hùng cho dân tộc, cứ tưởng
mình có tài khuynh đảo các nước lớn, tưởng mình xoay vần được lịch sử… theo ý
mình, nhưng cuối cùng mới nhận ra là nước mình vẫn nằm trong vòng cương tỏa của
mấy thế lực nước lớn.[22]
Mặc dù cả đời Trần Đức Thảo, ông chỉ được gặp Hồ Chí
Minh một vài lần. Nhưng ông là một trong những người hiếm hoi nhận ra con người
thực của Hồ Chí Minh. Chỉ cần một chút quan sát, một chút trải nghiệm, Trần Đức
Thảo đã nhìn ra nhiều mặt trái của con người ấy. Đó là một con người tự tôn
mình, tự coi là trên hết biến sự sùng bái cá nhân như một thứ giáo điều. Từ
cách ăn mặc theo kiểu lãnh tụ áo bốn túi, có cổ, cái mũ đội đầu, chòm râu, cái
gậy chống, phong cách đi đứng, nói cười giả lả bề ngoài, mặc cái áo mưa, cách
xưng hô bác cháu, cách phát biểu, ngay cả cái phong cách bề ngoài xem ra bình
dân đều là có chủ đích, có tính toán rất kỹ càng. Trần Đức Thảo kể lại trong
lần gặp ra mắt Hồ Chủ tịch, cán bộ nghi lễ đã dặn kỹ ông, phải đứng cách xa bác
ba thước, không được nói, khi nào Bác hỏi mới được nói. Phải xưng hô bác, bác,
cháu cháu. Lê Duẩn có thể còn hơn tuổi Hồ Chí Minh cũng không ra ngoại lệ nói
chi đến những Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp.
Đó là cả một màn kịch mà đạo diễn chính là Hồ Chí
Minh.
Ông tạo ra một phong cách của một lãnh tụ duy nhất,
không giống ai và ở trên mọi người. Mọi quyết định lớn nhỏ đều do ông cả. Một
việc nhỏ như kê khai lý lịch của Trần Đức Thảo, dưới không dám quyết định cũng
phải trình lên lãnh tụ. Kiếm một việc làm cho Trần Đức Thảo, người nọ đùn người
kia đến Phạm Văn Đồng cũng phải hỏi ý kiến Bác. Một chân thư ký cho Trần Đức
Thảo cũng bị Hồ Chí Minh bác không cho. Cứ để cho nó đói rã họng mới hết kiêu
căng. Việc cải cách ruộng đất làm chết hàng vạn người cũng do Hồ Chí Minh quyết
định cả. Theo Trần Đức Thảo, Hồ Chí Minh đã che bộ râu, giả dạng làm người dân
thường và đi dự những buổi đấu tố để xem xét và đưa những chỉ thị cần thiết như
chỉ đấu tố vào ban đêm dưới ánh lửa bập bùng tạo ra không khí huyền bí, sợ hãi,
gây được sự căm thù giai cấp, biến những nông dân hiền lành chất phác thành thứ
côn đồ của đảng. Cho nên việc bắn một người phụ nữ có công với cách mạng như bà
Nguyễn Thị Năm không thể không có sự đồng ý của Hồ Chí Minh. Chính Hồ Chí Minh
quyết định giết bà Nguyễn Thị Năm, nhưng sau này cứ đổ thừa cho Tầu cộng sản.
Về điều này, ông Trần Đĩnh trong Đèn cũ cũng đã nói
rõ.
Dự những cảnh đấu tố hãi hùng với tiếng hò hét của
đám đông, ánh lửa bập bùng, thân người quằn quại sau một loạt súng cộng với
tiếng kêu khóc, tiếng cầu kinh, tiếng than van của nạn nhân, Trần Đức Thảo rụng
rời tay chân: Bỗng thân xác Thảo run lên lên lập cập vì xúc động, như một
cơn sốt rét mãn tính bất ngờ ập tới, mồ hôi lạnh toát ra từ trán tới chân, nước
mắt tuôn trào, hàm răng run lập cập..(…) Thật ra thì những tiếng súng chát chúa
hạ sát mấy thân xác đồng bào tội nhân ấy đã như bắn vào chính thân xác Thảo, đã
vĩnh viễn đập tan tành giấc mộng trở về góp công sức xây dựng một mô hình cách
mạng mà nhân loại trông chờ. [23]
Nhưng mọi việc làm của Hồ Chí Minh đều được che đậy
và nếu cần đổ trách nhiệm cho người khác. Bác đóng vai một người nhân từ, đóng
vai một lãnh tụ hết lòng với đất nước. Bác chơi gái như mọi người- chơi nhiều
gái mà phải là gái còn trẻ- nhưng vẫn đóng kịch là Cha già dân tộc, hy sinh cả
đời, không vợ con. Đám cận thận từ một tên bảo vệ đến ông Tổng bí thư đều biết
rõ con người thật của Bác: Một thứ gian manh, quỷ quyệt, độc ác, mất nhân tính.
Nhưng bác vẫn dặn đám bầy tôi phải làm thế này, thế kia. Còn Bác làm cái gì thì
kệ Bác.
Rồi tiếp theo từ cách tự đặt tên minh với những ý đồ
đầy cao vọng như : Ái Quốc, Tất Thành, Chí Minhvv đến tự viết Hồi ký khen tặng
chính mình là một thứ cao ngạo, giả dối cao độ. Khát vọng quyền lực, khát vọng một
lãnh tụ được tôn sùng tuyệt đối là có thật noi con người Hồ Chí Minh. Và ông
dùng mọi thủ đoạn, nếu cần, để đạt được. Di chúc viết ra thì như thể Bác không
muốn bày vẽ tốn kém, xuềnh soàng cho xong. Nhưng trong bụng Bác thì biết rằng
chúng nó sẽ làm cho long trọng, ướp xác để đời đời nhân dân nhớ ơn Bác.
Từng chi tiết một, từng lời ăn tiếng nói, từng việc
làm, từng lời tuyên bố của Hồ Chí Minh đã bị Trần Đức Thảo bóc trần. Có thể
nói, từ trước tới nay, chưa một ai dám viết lột tả hết mọi mọi điều gian dối,
nói lên hết những thối tha, những bi kịch làm người như dưới ngòi bút của Trần
Đức Thảo. Người đọc chia xẻ ngầm với những con chữ ấy, cho dù đó là một câu
chuyện rất bình thường có thể chẳng liên quan gì đến Hồ Chí Minh như sau đây:
Thảo đứng nhìn bữa cơm chỉ có một đĩa rau muống duy
nhất, bên cạnh nồi cơm trơ trọi y như bơ vơ, như thiếu vắng, nhớ tiếc một cái
gì vừa mất. Y như Hà Nội đang nhớ tiếc một thời chưa xa, nhưng nay không còn
nữa! Thảo lớn tiếng:
- Mời bố mẹ dạy xơi cơm.. Ông bố vẫn nằm im không
trả lời. Nằm im lặng thêm một lúc, không biết nghĩ sao, ông bố ngồi dậy, từ từ
đi sang một góc chiếu trõng che rồi nói:
- Mẹ ăn cháo chứ chưa ăn được cơm. Lát nữa bố sẽ nấu cháo cho mẹ. [24]
- Mẹ ăn cháo chứ chưa ăn được cơm. Lát nữa bố sẽ nấu cháo cho mẹ. [24]
Câu chuyện bữa cơm trong một gia đình trung lưu như
gia đình Trần Đức Thảo, chỉ bằng một vài việc phác họa đã là một lời tố cáo chế
độ bất nhân không có cách gì bào chữa được.
Và để chấm dứt phần này, xin trích một đoạn mô tả
cái thực trạng miền Bắc những năm sau 54 và ngày nay còn tồi tệ gấp bội phần.
Nơi ấy, không còn ai dám nói tới nhân phẩm, đạo đức nữa. Cứ như thể cả một nền
văn hóa đểu giả càng ngày càng phát triển đã tạo ra một xã hội tàn nhẫn đến mức
thô bạo mà một Hà Nội mới với cảnh vừa bán, vừa chửi, vừa bán vừa xua đuổi
khách hàng. Nói năng thô lỗ, giọng ba que xỏ lá:
- Chỉ có vậy thôi, mua thì mua không mua thì cút.
- Ông cút thì ông ‘đ’ mua!
- Mày về mà ‘đ’ mẹ mày ấy..
Đọc đoạn này không khỏi sót sa cho ông. Trần Đức
Thảo không còn là một triết gia nữa mà là một nhà văn hiện thực phê phán như
một Nam Cao!!
Phần
hai: xoá bỏ chủ nghĩa Mac-Xít- Staline
Cái éo le nhất của cuộc đời cầm bút của Trần Đức
Thảo là ông được nhìn nhận nơi xứ người như một nhà tư tưởng lớn. J.P. Sartre
coi ông là một trong số hiếm hoi những người Mác Xít không chìm đắm trong tụng
niệm mà dám xông pha- một thứ Marxiste combattant- để làm thế nào cuộc đời nhất
quán với triết lý. Đem triết lý vào hành động như một thứ dấn thân của một
người Mác Xít lý tưởng.
Paul Mus, trong Sociologie d’une guerre viết: Ngay
từ 1946, không một ai nói hay hơn nhà tư tưởng có tương lai lớn này..(..) mà
những phân tích tâm lý của ông trong những bài đăng trong Les temps modernes,
dưới mắt tôi, là một thu hoạch hoàn tất.
Sự trở về Việt Nam của ông nằm trong ý nghĩa đó, đem
cái hiểu biết, đem cái lý thuyết Mac Xít về áp dụng vào thực tế Việt Nam.
Nhưng tiếc thay, ông đã không được bất cứ lãnh đạo
cộng sản cao cấp nào đón nhận vì nhiều lý do, trong đó có lý do trình độ quá
thấp kém của họ. May ra có một người là cụ Cao Xuân Huy có thể chia xẻ về những
quan điểm về Hiện tượng học Husserl- một chuyên ngành của Trần Đức Thảo- trong
một chương nhan đề: Do lai của ý thức. [25]
Mặc dầu vậy, tôi khó chia sẻ với những thuật ngữ
triết học có tinh chuyên ngành mà cụ dịch và sử dụng như vật thể kiên xác (
Solides), vật tự nó (en soi), có chỗ cụ dùng vật tự thân, nội chấp
(Intentionnel)vv Những thuật ngữ này ở miền Nam trước 1975 hầu hết đã trở thành
những chuẩn ngữ quen dùng cũa những người dạy và học triết ở miền Nam.
Thật khó cho Trần Đức Thảo có thể gieo trồng một cây
triết học dù là triết học Mác Xít ở một vùng đất mà phần đông giới lãnh đạo đều
vừa qua bậc tiểu học.
Ngay như có đủ vốn triết học và thông thạo tiếng
Pháp, vị tất đọc đã hiểu được triết học. Tôi chỉ lấy trường hợp triết gia hàng
đầu về chủ thuyết Mác Xít ở Paris như một thí dụ,- ông Louis Althusser tự thú
như sau, xin lược dịch: Tôi có đọc chút ít về Hégel, đọc chút ít về
Aristote. Kant thì không. Còn những Spinoza, Heidegger, Husserl; tôi đã chẳng
hiểu họ viết gì. Freud cũng thế cũng như phần đông độc giả của ông ta. Nếu tôi
biết chút ít là do suy đoán, tệ hơn nữa cứ nhận đại là mình biết đi.
Trần Đức Thảo lạc lõng giữa đám người ít học ấy.
Ngay cả khi ngồi trước đám môn sinh sau 1954 ở Hà Nội, liệu có ai hiểu được ông
thày muốn nói gì?
Tuy nhiên, cái khó khăn của Trần Đức Thảo không phải
chỉ nằm ở chỗ đọc hiểu hay không hiểu. Một khó khăn đặt ra bây giờ và những thế
hệ sau này muốn đọc là ông sử dụng hai thứ tiếng để biểu đạt tư tưởng của mình:
Tiếng Pháp và tiếng Việt.
Chính ở chỗ này, cần phân biệt có hai Trần Đức Thảo.
Có một con người Trần Đức Thảo viết tiếng Pháp suôi
chảy và con người viết tiếng Việt còn thiếu bộ danh từ triết học. Đã thế viết
tiếng Việt lại phải qua hàng rào kiểm duyệt. Viết cây dừa có dấu huyền mà nó bỏ
dấu huyền thành cây dưa là đời đi đoong rồi. Lại nữa chỗ nào ông viết thật, chỗ
nào ông viết nịnh bợ?
Hai con người ấy phơi bầy hai lối nhìn, nhiều khi
hai tư cách trái ngược nhau.
Viết tiếng Việt, có thể Trần Đức Thảo phải viết theo
đơn đặt hàng hoặc viết sao để vừa lòng chế độ như các bài về: Tìm Hiểu giá
trị văn chương cũ hay Nội dung xã hội truyện kiều. Cái gọi là Tấm biển chỉ
đường của Trí tuệ..Bài Hịch Tướng sĩ của Trần Hưng Đạo và xã hội Việt Nam trong
thời kỳ thịnh của chế độ phong kiến.
Đặc biệt trong đó có bài viết về Thằng Bờm trong Tìm
hiểu giá trị văn chương cũ mà ông yêu cầu mọi người từ nay phải gọi Bờm là anh
Bờm. Vì Bờm biểu tượng cho giai cấp nông dân chống lại địa chủ phong kiến. Hóa
ra tranh đấu giai cấp đã có từ thời thượng cổ thì cần gì đến ông thầy Mác?
Đọc bài này của ông mà muốn chửi thề!! Hình như đây
không phải là Trần Đức Thảo mà là bóng ma Hồ Chí Minh nhập vào Trần Đức Thảo.
Tuy nhiên, số lượng bài viết này không nhiều, cũng
chẳng đáng nói tới so với số lượng các đề tài liên quan đến lãnh vực triết học
mà ông để lại.
Một cái tuy nhiên nữa là trong số những tài liệu
tiếng Việt ấy có cuốn Vấn đề con người và Chủ nghĩa ‘Lý luận không có con
người’ được in và xuất bản khi ông vào ở trong Nam. Cuốn sách mỏng chỉ khoảng
140 trang này có thể được xuất bản là nhờ cái không khí chính trị miền Nam
tương đối khoáng đạt hơn miền Bắc và nhờ có sự yểm trợ tinh thần của những
người như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng. Vậy mà sau này nó cũng bị Hà Nội ra
lệnh tịch thu.[27]
Về phần triết học Tây Phương của Trần Đức Thảo, tôi
chỉ xin trích dẫn ý kiến của giáo sư H.L Van Breda, người có trách nhiệm bảo
quản các tài liệu của nhà Hiện tượng học Husserl ở đại học Louvain bên Bỉ..
Husserl là người Đức, gốc Do Thái nên ông phải tẩu tán tài liệu của ông sang Bỉ
[28] khi Hitler lên nắm quyền. Có bốn trí thức ở Paris có quan tâm
đến triết học Hiện tượng luận là Merleau-Ponty, J.Hyppolite, Lm Geigner và Trần
Đức Thảo vào những năm 1942-1946. Vì thế, họ phải liên lạc với giáo sư H.L Van
Breda để tiếp cận tài liệu Husserl. Chính vì thế mà Trần Đức Thảo mới có điều
kiện viết cuốn triết học làm ông nổi tiếng. Đó là cuốn La Phénoménologie et le
Matérialisme dialectique.( (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng). [29]
Nội dung cuốn sách này là Trần Đức Thảo có tham vọng
muốn trình bày thuyết Hiện tượng luận đem áp dụng vào chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Tham vọng này cũng giống như J.P Sartre muốn đem triết thuyết hiện sinh
vào thuyết Mác Xít. Và đây cũng là đầu mối việc J.P Sartre mời Trần Đức Thảo
trao đổi với J.P Sartre trong năm buổi trao đổi. Việc trao đổi này sau ở miền
Bắc nhiều người phóng lên rằng J.P Sartre đã thua Trần Đức Thảo. Đã có mấy ai
đủ trình độ và có tài liệu để nói đến chuyện thua được. Vả lại, trao đổi triết
học mà nói đến thua được là trẻ con, chưa hiểu gì về tính chất của triết học.
Theo phần đông các triết gia Pháp cho rằng ông Thảo
là người hiểu và trình bầy một cách sâu sắc và tương đối dễ hiểu về Hiện tượng
luận hay phương pháp hiện tượng luận của Husserl.
Tuy nhiên phần hai của cuốn sách- phần áp dụng Hiện
tượng luận vào chủ thuyết biện chứng duy vật biện chứng thì thật bất xứng với
ông(indigne de lui), Có thể phần hai ông Thảo đã triển khai chưa đúng mức và có
phần vội vã.[30]
Tôi chỉ trích dẫn lại ý kiến của các nhà triết học
mà về phần tôi, chưa đủ trình độ để hiểu được đến nơi đến chốn.
Theo ý kiến thô thiển của tôi trong cái hiểu biết có
giới hạn về Trần Đức Thảo, tôi vẫn cảm thấy gần gũi với ông mỗi khi ông cho
rằng triết học dù là Mác Xít-Lênin đi nữa thì vẫn là thứ triết học về con người
và lấy con người làm đối trọng.
Đây là một điều mà tôi cho là đáng trân quý nhất so
với những luận thuyết trừu tượng với những thuật ngữ quá chuyên biệt ngoài tầm
tay của mình.
Có muốn dựa cột mà nghe cũng không được.
Và phải chăng tôi tự hỏi vì thế ông viết cuốn Vấn đề
con người và chủ nghĩa lý luận không có con người, trong đó ông phê phán nặng
nề Louis Althusser. Althusser là một trong những triết gia, nhà tư tưởng cộng
sản hàng đầu của Paris vào các năm từ 1965-1980. [31]
Tôi gọi cái phần ưu vượt của triết lý Trần Đức Thảo
là một thứ chủ nghĩa nhân bản Mác Xít( Un humanisme marxiste). Một thứ chủ
nghĩa hầu như xa lạ và đối nghịch với Staline, với Mao Trạch Đông và Hồ Chí
Minh.
Tôi cũng cảm nhận ông có một bước tới gần với các
triết gia nhân bản xã hội Âu Châu mặc dầu còn rất nhiều khoảng cách giữa họ.
Nhưng tôi cũng không thể đồng tình với tác giả Cù
Huy Chử trong một bài viết Tư Duy triết học Trần Đức Thảo và tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh.
Đây là một gán ghép có tính áp đặt. Cho đến nay,
chưa mấy ai có thể chỉ ra chỗ nào là tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh
nếu có chỉ là tư tưởng thuộc loại Luân lý Giáo Khoa thư hay tư tưởng công dân
giáo dục dạy cho học sinh trong các trường trung-tiểu học.
Xin Tiến sĩ Cù Huy Chử nên từ bỏ những điều nghiên
cứu ngoài lãnh vực của ông để xứng danh với danh xưng tiến sĩ của ông. Xin tha
cho làm phước.
Nhưng nếu căn cứ vào cuốn sách Những lời trăng trối
của ông, tôi nhận thấy Trần Đức Thảo muốn vứt bỏ hầu như toàn cái gia tài triết
học của ông- gia tài sùng bái chủ nghĩa Mác Xít. Và Về phần này, xin nhường để
ông hiển lộ tất cả những sâu kín đã chôn chặt, đã dấu kín và nỗi lòng của ông.
Ông thố lộ :
‘Từ lúc tôi khám phá ra là tôi đã sai lầm, đã một
thời đứng trong hàng ngũ tội ác, đã mù quáng cả tin vào ý thức đấu tranh giai
cấp của Marx, thì sự tỉnh thức ấy làm tôi sung sướng. Bởi như thế là tôi đã tự
giải thoát chính tôi, đã tự giải phóng chính tôi. Tôi đã trở thành con người tự
do! Tôi đã đạt tới tâm trí thanh thản trong sáng của con người tự do, tư tưởng
không còn bị gông cùm của ý thức hệ.
Và nay dĩ nhiên là tôi phải phủ nhận tất cả những gì
đã viết lúc đang sùng bái Marx..
Xin tiếp tục đọc những lời trăng trối của ông :
Những gì đã viết mà dựa vào Marx thì vẫn bao hàm một
định kiến, một ngộ nhận,một căn bản không tưởng, từ đó có thể dẫn đến những sai
lầm khác, có thể phạm vào tội ác. Bởi vì một phần tư tưởng tranh đấu của Marx,
lúc nào cũng như cái bóng ma quái, muốn thúc đẩy con người lao vào các hành
động quá trớn, quá khích, do hận thù và bạo lực cách mạng, để giải quyết các vấn
đề cơ bản của xã hội, của con người.
Thật sự là trong chiều dài lịch sử nhân loại, bạo
lực cách mạng xã hội chủ nghĩa đã không hề giải quyết được vấn đề bất công
trong xã hỗi loài người.
Và cũng chưa hề giải phóng ai![33]
Ông Trần Đức Thảo vốn là một người cầm bút cẩn thận.
Đọc một vài trang bản thảo của ông, tôi thấy ông xóa gạch, sửa nhiều chỗ, thêm
bớt từng chữ một. Vậy mà trong những dòng tâm sự cuối đời này, giọng văn như vỡ
ra, tuôn trào, không kềm giữ được.. Hình như bao nhiêu nỗi oan ức, nỗi buồn, sự
câm nín bấy lâu nay giống như một cái cửa đập nước được mở ra. Nó tuôn trào như
một dòng thác nước!! Đúng như nhận xét của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê viết :
Nói tới đó, rồi bác Thảo im lặng hồi lâu. Lúc này,
chúng tôi thấy bác Thảo nổi bật như một người, lúc cuối đời, đầu óc nặng trĩu
tâm tư, đầy ân hận, hối hận rất u buồn, đau đớn, và đang tìm cách gì đó để giải
tỏa thảm kịch của chính mình.[34]
Rải rác đó đây trong sách, người đọc thấy đầy những
giọng điệu bi phẫn như thế!
Không phải tôi đa mang đâu, sự thật là mình đã tự
thân bước vào con đường của sai lầm, bế tắc. Nỗi khổ tâm là mình cũng đã làm
cho nhiều người cùng với mình sa vào sai lầm và bế tắc. Nay mình đã tìm ra được
lối thoát nên rất ân hận, phải sám hối, phải chuộc tội bằng hành động. Vào lúc hoàng
hôn, thấy một ngày bị lãng phí là đáng tiếc, đáng buồn, huống chi bây giờ là
hoàng hôn của cả một cuộc đời đã bị lảng phí. Nỗi ân hận, hối hận đang ngùn
ngụt thiêu đốt tâm trí tôi… Bây giờ tôi chỉ thấy tội lỗi của cái thời câm nín
của mình, đã biến thành một tên trí thức đồng lõa khốn nạn, đáng nguyền rủa..[35]
Còn tôi, đã bao phen biết mình phải nói một câu trái
với lương tâm, làm một cử chỉ a dua, ca ngợi tội ác, lúc đó tôi đã ý thức ngay
là mình phạm tội, tội giả dối, tội a dua, hoan hô cái xấu, cái ác, tội hèn nhát
đã phản bội lý tưởng của mình, phản bội chính mình. Đã biết là tội như vậy mà
vẫn cứ nói, cứ làm..[36]
Tôi đã chấp nhận ra đi, lúc tuổi già sức yếu, để có
cơ hội thét lớn cùng thế giới rằng : Thủ phạm gây ra đại bi kịch này cho
nhân loại, chính là Marx.
Tất cả là do đám trí thức hèn như tôi. Buồn lắm! Hèn
lắm! Nhục lắm! Đau lòng lắm.
Phần tôi, xin được chấm dứt bài viết ở đây. Bài viết
của tôi mang tínhcách tìm hiểu về một Con người, một tưởng niệm hơn là nhận
thức. Điều mà tôi tâm đắc nhất khi viết về triết gia này, chính là tính cách
nhân bản của ông. Ông đã sống xứng đáng một con người có nhân cách và trách
nhiệm của một người trí thức.
Ông sống khổ mà chết đẹp và đã để lại cho mọi người
một sứ điệp: chế độ cộng sản và Hồ Chí Minh đã tạo ra một thảm cảnh bất hạnh
cho Việt Nam.
Ta phải tiêu diệt cả hai. Tiêu diệt cách nào? Đó
không phải là công việc của Trần Đức Thảo mà của những người hiện nay đang sống
dưới chế độ bất nhân và vô đạo ấy!!
© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt
——————————————————–
Chú
thích:
[19]Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid,
trang 280
[20]Xem Hoàng Khoa Khôi, Một nhận định về Trần Đức Thảo IBId
[21]TS Cù Huy Chữ: Về mối quan hệ giữa giáo sư Trần Đức Thảo với ông Phạm Văn Đồng, một vài nét chấm phá.
[22]Trần Đức Thảo IBID, trang 350-352
[23]Tri Vũ- Phan Ngọc Khuê, Trần Đứ cThảo, Ibid, trang 142
[24]Tri Vũ- Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trang 162
[25]Paul Mus: Sociologie d’une guerre, nxb Seuil, Paris, 1951, trang 185.
[26]Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương Đông, Gợi những điểm nhìn tham chiếu, do Nguyễn Huệ Chi soạn và giới thiệu, nxb văn học từ trang 147-174
[27]Trần Văn Giàu: Trần Đức Thảo, nhà triết học, tạp chí Văn Nghệ nguyệt san, số 1, bộ mới, trang 2
[28]H.L Van Breda, Maurice Merleau Ponty et les archives de Husserl à Louvain, Revue de Métaphysique et de morale, 1962
[29]Trần Đức Thảo La phénomologie et le materialisme dialectique, Minh Tan, Paris, 1951
[30]Nguyễn Văn Trung, đôi điều ghi nhận về ông Trần Đức Thảo.
[31]Althusser đã giết vợ là Helene bằng cách bóp cổ vào năm 1980. Ong là tiêu biểu thứ tận cùng của thứ điên loạn triết học. Sau khi giết vợ xong, ông ghi lại như sau . Voila ce que j’ai fait, ce que j’ai pense, ce que je fus ( Đó là nhựng cái gì tôi đã làm, cái gì tôi đã suy nghĩ và đó là cái gì là tôi). và năm sau đến lượt ông chết ngồi trên ghế bành về bệnh tim..
[32]Ts Cù Huy Chử, Tư duy triết học Trần Đức Thảo và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
[33]Tri Vủ Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trabg 385
[34]Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trang 337
[35]Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, Trần Dức Thảo, Ibid, trang 390
[36]Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trang 391
[20]Xem Hoàng Khoa Khôi, Một nhận định về Trần Đức Thảo IBId
[21]TS Cù Huy Chữ: Về mối quan hệ giữa giáo sư Trần Đức Thảo với ông Phạm Văn Đồng, một vài nét chấm phá.
[22]Trần Đức Thảo IBID, trang 350-352
[23]Tri Vũ- Phan Ngọc Khuê, Trần Đứ cThảo, Ibid, trang 142
[24]Tri Vũ- Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trang 162
[25]Paul Mus: Sociologie d’une guerre, nxb Seuil, Paris, 1951, trang 185.
[26]Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương Đông, Gợi những điểm nhìn tham chiếu, do Nguyễn Huệ Chi soạn và giới thiệu, nxb văn học từ trang 147-174
[27]Trần Văn Giàu: Trần Đức Thảo, nhà triết học, tạp chí Văn Nghệ nguyệt san, số 1, bộ mới, trang 2
[28]H.L Van Breda, Maurice Merleau Ponty et les archives de Husserl à Louvain, Revue de Métaphysique et de morale, 1962
[29]Trần Đức Thảo La phénomologie et le materialisme dialectique, Minh Tan, Paris, 1951
[30]Nguyễn Văn Trung, đôi điều ghi nhận về ông Trần Đức Thảo.
[31]Althusser đã giết vợ là Helene bằng cách bóp cổ vào năm 1980. Ong là tiêu biểu thứ tận cùng của thứ điên loạn triết học. Sau khi giết vợ xong, ông ghi lại như sau . Voila ce que j’ai fait, ce que j’ai pense, ce que je fus ( Đó là nhựng cái gì tôi đã làm, cái gì tôi đã suy nghĩ và đó là cái gì là tôi). và năm sau đến lượt ông chết ngồi trên ghế bành về bệnh tim..
[32]Ts Cù Huy Chử, Tư duy triết học Trần Đức Thảo và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
[33]Tri Vủ Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trabg 385
[34]Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trang 337
[35]Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, Trần Dức Thảo, Ibid, trang 390
[36]Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Ibid, trang 391
No comments:
Post a Comment