Chủ Nhật, ngày 24 tháng 8 năm 2014
Gần
đây, các thế lực thù địch, cận thù địch và kể cả chưa phải là thù địch (sau đây
sẽ gộp lại gọi chung là thế lực chống đối cho nó gọn) nhao nhao lên đòi nào là
bạch hóa, nào là giải mật, rồi thì làm rõ … Hiệp nghị Thành đô.
Chu
choa trời đất ơi! Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, Vo Văn Ve tôi tuyền chỉ nghe,
xem, đọc các ấn phẩm của nền báo chí chính thống, chẳng bao giờ nghe thấy rằng
thủ phủ Thành Đô của Trùng Khánh – Trung Quốc có liên can gì đến đường lối cách
mạng của nước ta. Có chăng Thành Đô chỉ là nơi một thời cặp vợ chồng Thái tử đỏ
Bạc Hy Lai – Cốc Khai Lai tung hoành trong sự nghiệp Cướp – Giết – Hiếp để đến
bây giờ chồng bị chung thân, vợ bị tuyên án tử hình.
Vì
thế nên phản ứng đầu tiên của Vo Văn Ve tôi là nóng ran cả mặt và cả toàn thân
vì cái sự lu loa ấy: Cái bọn chống đối lại định bày trò gì nữa đây?
Thế nhưng khi đã bình tĩnh trở lại, Vo Văn Ve tôi chợt nghĩ: Hay là mình Gu-gồ cái thử xem? Thông qua cái anh Gu-gồ chấm Thành Đô, mình được biết Hội nghị Thành Đô là có thật, hơn nữa lại là một Hội nghị vô cùng đặc biệt nữa kia.
Thế nhưng khi đã bình tĩnh trở lại, Vo Văn Ve tôi chợt nghĩ: Hay là mình Gu-gồ cái thử xem? Thông qua cái anh Gu-gồ chấm Thành Đô, mình được biết Hội nghị Thành Đô là có thật, hơn nữa lại là một Hội nghị vô cùng đặc biệt nữa kia.
Cũng
qua Gu-gồ chấm Thành Đô, mình được đọc thêm nhiều bài vở, trang viết liên quan
đến cái hội nghị này như Hồi ký Trần Quang Cơ, Bên Thắng Cuộc, Hồi ký Trương
Đức Duy (đại sứ TQ tại VN lúc đó), Nhật ký Thành đô của Lý Bằng (Thủ tướng
TQ lúc đó)…
Ái
chà, nan giải đây!
Vui
cười hể hả, người mua kẻ bán đều hài lòng
Nhưng
với truyền thống “Chẳng có gì mà không nói được”, Vo Văn Ve tôi đã nhanh chóng
phản ứng nhanh, hội ý chớp nhoáng với các đồng bọn thân tín trong băng Dư Luận
Viên “Còn Tiền Còn Mình”, quyết định bấm nút và đưa ra ý kiến chính thức của
Hiệp hội Dư Luận Viên như sau:
1)
Hội nghị Thành Đô là có thật. Văn bản mà các thế lực chống đối gọi là Hiệp nghị
Thành Đô là có thật.
Ấy
là vào sáng ngày 3-9-1990 (1 ngày sau dịp kỉ niệm 45 năm Quốc khánh nước CHXHCN
Việt Nam, chính vì thế Hiệp nghị Thành Đô càng có ý nghĩa về chính trị và về
lịch sử), các đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn
Phạm Văn Đồng đã kín đáo bay sang Trùng Khánh chuẩn bị cho Hội nghị Thành Đô
ngày 3, 4-9-1990. Trên máy bay có người dẫn đường là Đại sứ TQ Trương Đức Duy.
Sở
dĩ phải nói kín đáo là vì cái gì bí mật mà chả kín đáo, nếu không có mà lộ bem
ra hết à? Còn cái bọn chống đối thì cứ khăng khăng không phải ‘kín đáo’ mà phải
gọi là ‘lén lút’. Thử hỏi kín đáo và lén lút thì có khác nhau chỗ nào, chẳng
qua là do cái tính chất phong phú của ngôn ngữ Việt mà thôi. Đấy, cứ xem cái vụ
Lê Chiêu Thống sang cầu viện nhà Thanh đánh Quang Trung Nguyễn Huệ năm xưa, gọi
là kín đáo cũng được mà lén lút cũng là xứng đáng hoàn toàn.
2)
Hội nghị Thành Đô đến bây giờ không còn bí mật, nhưng Hiệp nghị Thành Đô thì
hãy còn bí mật, đặc biệt ở các điều khoản về bình thường hóa quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc.
Mục
đích cao nhất của chuyến đi ‘kín đáo’ của các đồng chí lãnh đạo nhà ta là xin
được bình thường hóa quan hệ với Trung Hoa vĩ đại. Muốn vậy thì phải nhất trí
với Trung Quốc phương án giải quyết vấn đề Cam pu chia. Và đã nhất trí. Trước
thành công rực rỡ của Hội nghị, mọi người trong đoàn ta đều rất vui vẻ hân hoan
trên máy bay khi trở về (theo Hồi ký Trương Đức Duy).
3)
Cho dù những điều khoản liên quan đến vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc chưa được công bố, nhưng những lợi ích của việc bình thường hóa này trong
hơn 20 năm đối với nước ta và nhân dân ta đã rõ như ban ngày. Vo Văn Ve xin
được tóm lược những lọi ích mấu chốt:
Một
là:
Việt Nam lại được kề vai sát cánh với Trung Hoa vĩ đại trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, được nước bạn bảo bọc che chở bởi kim chỉ nam (mà bọn chống
đối xấu mồm độc miệng gọi là vòng kim cô) 4 tốt và 16 chữ vàng của Lãnh tụ
Giang Trạch Dân kính yêu.
Hai
là:
Việt Nam được Trung Hoa vĩ đại hết sức quan tâm về mặt chính trị. Trước mỗi kỳ
Đại hội Đảng đều có các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc sang để ‘tư vấn giúp đỡ’
về công tác tổ chức nhân sự, đúng y như nguyện vọng của Ban lãnh đạo Trung
Quốc. (Đối với các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng và an ninh, xin được bàn vào
dịp khác).
Ba
là:
Về lãnh thổ, chúng ta được nương tựa vào một đất nước to lớn đến mênh mông. Dẫu
có bị mất ít đất, ít biển thì có xá gì, miễn là giữ được môi trường hòa bình và
ổn định để phát triển, và quan trọng nhất là phải giữ được quan hệ hữu nghị anh
em đồng chí Việt-Trung đời đời bền vững.
Vừa
qua có xảy ra một số tranh chấp trên Biển Đông. Là anh em trong nhà, xảy ra cãi
cọ tranh chấp là chuyện bình thường. Nhưng với tinh thần “Thằng em phải nhịn
thằng anh, nhịn đến chết cũng phải nhịn”, chúng ta đã xử lý rất tốt vấn đề này.
Chúng ta kiên quyết nhịn cho đến chết!
Bốn
là:
Chúng ta được Trung Quốc chăm lo đầu tư phát triển kinh tế. Chỉ có những người
anh em chí tình chí nghĩa như các đồng chí Trung Quốc mới giúp đỡ nước ta một
cách tận tụy và vô tư như thế mà thôi. Cụ thể là: Trung Quốc đã đưa ra những
giá rất rẻ, rất hời để trúng thầu và được đảm nhận hàng trăm công trình kinh tế
quốc gia trọng điểm của Việt Nam. Nhờ có việc Trung Quốc thuê 400.000 hecta đất
và rừng đầu nguồn mà kinh tế nhiều tỉnh nghèo mới có điều kiện tăng thu ngân
sách. Nhờ có Trung Quốc đầu tư khai thác bô-xít Tây Nguyên – nóc nhà Đông
Dương, nên trong tương lai chắc chắn Việt Nam sẽ là nước xuất khẩu nhôm (dưới
dạng quặng) hàng đầu thế giới. Nhờ có quan hệ kinh tế với Trung Quốc mà nhập
siêu sang Trung Quốc ngày càng tăng chóng mặt (năm 2013 là 24 tỉ USD, năm 2014
dự báo 26 tỉ USD), góp phần tích cực về tài chính để Trung Quốc củng cố thành
trì xã hội chủ nghĩa.
Bên
cạnh đó, các bạn Trung Quốc còn tỏ ra vô cùng rộng rãi và hào phóng trong việc
cung cấp hàng hóa, lương thực, thực phẩm, thuốc thang sang Việt Nam. Bây giờ ra
chợ, đâu đâu cũng thấy tràn ngập hàng Trung Quốc đủ các kiểu loại, đủ màu sắc
và mùi vị vô cùng hấp dẫn. Đến lúc nào đó, có lẽ người dân Việt Nam ta chẳng
cần phải làm gì mà vẫn có cái ăn, cái mặc, hơn thế, còn ăn ngon mặc đẹp, bởi
tất thảy đã có hàng hóa do Trung Hoa vĩ đại cung cấp. Thế là tự nhiên, ta đã có
thiên đường cộng sản chủ nghĩa, còn gì đẹp bằng?
Năm
là:
về mặt xã hội, người Việt Nam ta ngày càng quen thuộc với sự có mặt của người
Trung Quốc trong đời sống hàng ngày. Những âm thanh chíu cha chíu chít của ngôn
ngữ Hán, Tiều, Quảng … đã không còn xa lạ mà đã dần trở thành thân thuộc yêu
thương. Các phố Tàu mọc lên như nấm, các biển hiệu chữ Tàu đua chen cùng biển
hiệu Việt làm cho cuộc sống ngày càng có vẻ … Tàu hơn.
Thi
thoảng, một bộ phận dân Việt còn trúng đậm nhờ các phi vụ do ‘bạn vàng Trung
Quốc’ giúp đỡ mối lái: bán móng trâu, bán râu ngô, thu gom ốc bươu vàng bán lại
cho đồng bào anh em mình, bán rắn, bán ong, bán khoai lang, bán hạt nhãn, bán
lá điều…, ôi dào kể không hết.
Cũng
nhờ công lao của người anh em Trung Quốc mà ý thức vệ sinh an toàn thực phẩm
của người dân Việt Nam được tăng lên rõ rệt, dù rằng số trường hợp ngộ độc thức
ăn, ngộ độc thuốc, số ca bị ung thư và bệnh hiểm nghèo cũng không ngừng tăng
lên. Nhưng cần khẳng định những trường hợp không may nói trên hoàn toàn nằm
ngoài tình đồng chí, tình anh em hữu hảo đời đời Việt – Trung một cách biện
chứng và khách quan.
…
Tất
tần tật, những lợi ích mà chúng ta có được như trên đều là những kết quả vô
cùng tốt đẹp, mang đậm dấu ấn của một thời kỳ lịch sử kể từ khi ký kết Hiệp
nghị Thành Đô.
Trung
Quốc, người anh lớn, người bạn vĩ đại, đã rỏ ra hết sức 'tốt bụng' với chúng ta
như thế, và từ hơn hai ngàn năm nay vẫn thế. Cho dù Hiệp nghị Thành Đô có bí
mật thế nào chăng nữa, và bí mật ấy có kéo dài đến đâu chăng nữa thì tấm lòng
bao dung của nước Đại Hán chỉ muốn đứa con hoang đàng Việt Nam mau trở về nhà
cũng không bao giờ thay đổi. Lá cờ đỏ 6 sao sẽ sớm thành hiện thực.
Hơn
thế nữa, những bí mật ấy dược gắn với tấm lòng thiết tha được đứng chung dưới
một bóng cờ với người anh Trung Quốc vĩ đại của các lãnh đạo nhà ta. Bạch hóa
những bí mật của Hội nghị Thành Đô là có tội lớn đối với các vị quá cố như
P.V.Đ, N.V.L*, đặc biệt là với người còn sống như Đ.M. Bạch hóa có mà chết cả
nút à?
Vì
vậy, hiển hiện một tất yếu khách quan là phải “Kiên quyết giữ bí mật của Hội
nghị Thành Đô”.
Kiên
quyết! Kiên quyết! Chết cũng Kiên quyết!
VO VĂN VE
------------------------
*
TSYG: Theo lời cựu Đại sứ Trương Đức Duy, khi về đến Hà nội, ông Nguyễn Văn
Linh còn làm mấy câu thơ tiếng Hán (không biết có phải để tiếp tục vuốt ve đàn
anh hay không?):
Huynh
đệ chi giao sổ đại truyền
Oán
hận khuynh khắc hóa vân yên
Tái
tương phùng thời tiếu nhan triển
Thiên
niên tình nghị hựu trùng kiến.
Dịch
giả Quốc Thanh tạm dịch là:
Anh
em chơi với nhau đã mấy thế hệ
Oán
hận trong khoảnh khắc đã biến thành mây khói
Khi
gặp nhau lại cười rạng rỡ
Tình
nghĩa ngàn năm xây dựng lại.
Như
thế là ông Nguyễn Văn Linh nguyện xây dựng lại “tình nghĩa” từ ngàn năm trước
giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà "tình nghĩa" từ ngàn năm trước, lúc
ấy chẳng qua là thứ “tình nghĩa” giữa người nô lệ và quân đô hộ!
Rõ
ràng, điều này báo hiệu “một giai đoạn Bắc thuộc mới vô cùng nguy hiểm đã bắt
đầu” – đúng như lời của Cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Được
đăng bởi Tâm Sự Y Giáo vào lúc 09:10
No comments:
Post a Comment