Chuyện
bây giờ mới kể:
Chủ Nhật, ngày 17 tháng 8 năm 2014
Bức tượng “Thương Tiếc”, nặng 10 tấn, cao hơn 6m,
được đặt tại cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa (Hình: vnrozier)
Khi cuộc chiến leo thang khốc liệt, năm 1966 Nghĩa
trang Quân đội tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, bắt đầu không còn đủ đất để các tử
sĩ VNCH yên nghỉ. Chính phủ nền Đệ nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
phải tính đến việc thành lập một nghĩa trang mới và địa điểm được lựa chọn nằm
dọc theo phía tay trái của xa lộ Biên Hòa (nay là xa lộ Hà Nội) nếu từ hướng
Sài Gòn đi Biên Hòa.
Kiến trúc sư kiêm điêu khắc gia, Đại úy Nguyễn Thanh
Thu, được lệnh của Tổng thống Thiệu lên đường đi Phi Luật Tân để nghiên cứu mô
hình xây dựng Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila (American Cemetery in
Manila), được coi là một nghĩa trang đẹp nhất Á châu.
Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila (Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila, năm 2003, https://www.flickr.com/photos/nguyen_ngoc_chinh/837204065/in/photolist-2gYTAR-2gYTze)
Năm 2003, tôi đã có dịp đến Phi Luật Tân và viếng
Nghĩa trang Hoa Kỳ tại thủ đô Manilla [1]. Nghĩa trang có tên American
Cemetery, đây là nơi chôn cất thi hài quân nhân Mỹ và đồng minh đã nằm
xuống trong cuộc chiến ở Thái Bình Dương vào thời thế chiến thứ hai.
Nghĩa trang mằn trên một khu đất rộng 615,000 mét
vuông, trồng cỏ xanh rì vây quanh là những hàng cây rợp bóng mát. 17,206 ngôi
mộ chiến sĩ được đánh dấu bằng các thập tự giá và xếp hàng thẳng tắp như một
đội quân thầm lặng. Điểm xuyết cho nghĩa trang là một vài tượng đài kỷ niệm ghi
những dòng chữ tưởng nhớ công ơn những vị anh hùng “vị quốc vong thân”.
Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila (Hình tác giả chụp tại thủ đô
Manila, năm 2003)
Sau chuyến đi tham khảo tại Phi Luật Tân, Đại úy Thu
sẽ phải trình đề án lên Tổng thống Thiệu để giao cho công binh xây dựng một
nghĩa trang mới mang tên Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Ông còn gợi ý phải có
một tác phẩm điêu khắc tại cổng vào nghĩa trang để nói lên sự tri ân của mọi
người tại hậu phương trước những tử sĩ được chôn cất tại đây.
Đại úy Nguyễn Thanh Thu xin 1 tuần để suy nghĩ về dự
án và trước khi ra về anh còn được Tổng thống Thiệu nhắc nhở bằng những lời rất
thân tình: “Anh cần chú ý đến ý nghĩa của nghĩa trang phải xoay quanh “cục
nhưn” là bức tượng… Tôi đặt nhiều hy vọng vào anh…”.
Tất cả mọi chuyện chỉ bắt đầu một cách giản dị như
vậy. Tuy nhiên, đối với nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu đó là thời gian anh trăn
trở nhiều nhất với những ý tưởng của một nghệ sĩ sáng tạo cho một công trình
mang tầm vóc quốc gia nói lên lòng tri ân của mọi người đối với những chiến sĩ
đã bỏ mình ngoài chiến trường.
Trong suốt một tuần lễ, hầu như ngày nào anh cũng có
mặt tại nghĩa trang Hạnh Thông Tây để chứng kiến những cảnh tang tóc, đau
thương của vợ con tử sĩ. Nhà chứa xác đầy nghẹt, những chiếc hòm chưa chôn còn
mịt mù nhang khói tại những khu phải căng lều bạt chờ chôn… trong khi trực
thăng vẫn hàng ngày tiếp tục chở xác về nghĩa trang.
Ngày cuối cùng của một tuần tìm ý tưởng là vào một
buổi trưa Thứ Sáu trên đường từ Nghĩa trang Hạnh Thông Tây anh Thu ghé vào một
quán nước gọi ly đá chanh. Và đây chính là giờ phút “định mệnh” khi anh nhìn
thấy một người lính thuộc binh chủng Nhảy dù ngồi trước những chai bia và hai
cái ly…
Anh lính ngồi nói chuyện với cái ly thứ hai trước sự
ngạc nhiên của chủ quán lẫn khách uống nước. Hình như anh lính là người vừa
thăm bạn được chôn cất tại Nghĩa trang Hạnh Thông Tây. Một ly anh cúng bạn và
một ly anh uống. Anh ngồi vừa uống vừa nói chuyện với chiếc ly!
Cảm động trước hình ảnh một người lính khổ sở khi
phải mất bạn, anh Thu cầm ly nước chanh bước qua bàn lảm quen. Anh lính ngước
lên nhìn anh Thu với vẻ khó chịu vì sự riêng tư của mình bị người lạ làm phiền
và tiếp tục trở về với ly bia “cúng” bạn.
Anh Thu cũng bị lúng túng vì thái độ “bất hợp tác”
của anh lính nhảy dù. Mấy cô bán hàng lại cười khúc khích, có lẽ các cô nghĩ nãy
giờ có một người “điên” ngồi uống bia nói chuyện với cái ly và bây giờ lại thêm
người “điên” nữa lân la đến làm quen.
Người lính tiếp tục gục đầu ngồi độc thoại, phớt lờ
những lời xã giao làm quen của anh Thu. Dường như anh tưởng bị quân cảnh hỏi
giấy nên lẳng lặng móc bóp giấy tờ cho anh Thu mà không hề ngước mắt nhìn và
tiếp tục uống!
Anh Thu cầm bóp trở về bàn mình và ghi lại tên anh
lính: Võ Văn Hai, cấp bậc Hạ sĩ, binh chủng Nhảy dù, cả tên tiểu đoàn lẫn KBC
(Địa chỉ Khu Bưu Chính của quân lực VNCH). Khi anh Thu trả lại giấy tờ, Hạ sĩ
Võ Văn Hai nhét vào túi với vẻ bất cần, cũng không thèm ngước mặt nhìn lên.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu
Khuya Thứ Sáu anh Thu mới bắt đầu vẽ để sáng Thứ Bảy
trình Tổng thống. Từ 8g tối đến 6g sáng anh phác thảo được 7 bản vẽ trong tiếng
súng và bom thỉnh thoảng vọng về Sài Gòn. Những ý nghĩ ở một hậu phương yên
bình trong khi những người lính ngày cũng như đêm xả thân ngoài chiến trường
khiến anh Thu dồn hết tâm trí vào những nét vẽ của anh.
Anh Thu hôm đó chỉ ngủ 2 tiếng thì bị đánh thức bởi
tiếng chó sủa, thì ra theo lời của vợ anh: “Có người đến nhà mời anh đi
trình dự án!”. Họ đến sớm để mời anh đi ăn sáng trước khi gặp Tổng thống
Thiệu. Lần trước đây anh gặp Tổng thống để bàn về dự án tại Bộ Tổng tham mưu
nhưng lần trình dự án lại là tại dinh Gia Long.
Lịch gặp Tổng thống vào lúc 9 giờ sáng nhưng
vì Tổng thống còn đang tiếp khách nên anh Thu trong lúc đi lại trên hành lang
dinh Gia Long bỗng nảy ra câu hỏi “Tại sao lại không vẽ Võ Văn Hai?”.
Nghĩ là làm ngay. Anh tưởng tượng một bố cục dựa trên hình ảnh Hạ sĩ Hai ngồi
nhớ bạn tại quán nước.
Anh trở ngay vào phòng Đại tá Cầm, tùy viên của
Tướng Thiệu, chụp một cây bút nguyên tử, lấy trong giỏ rác một bao thuốc lá và
rút mảnh giấy bọc bao thuốc trở ra hành lang ngồi vẽ lại hình ảnh Hạ sĩ Hai.
Một lần nữa, “định mệnh” lại ra tay: trong 7 bản vẽ
mang theo, anh Thu thấy bản cuối cùng, một “tốc họa” trên bao thuốc lá tại dinh
Gia Long, là bản anh ưng ý nhất. Đến khi vào gặp Tổng thống, anh trải 7 bản vẽ
lên sàn nhà trước bàn làm việc, bản vẽ cuối cùng trên bao thuốc lá anh vẫn còn
cầm trên tay.
Tổng thống Thiệu sau khi đi tới, đi lui ngắm 7 bản
vẽ, ông nói: “Anh là “cha đẻ” của dự án này nên theo ý anh, bức nào làm anh
hài lòng nhất”. Phải nói, anh Thu là người thật thà, chất phác, anh thẳng thắn
trình bày:
“Thưa Tổng thống, nếu Tổng thống cho tôi chọn lại
thì bản vẽ mới đây tôi vừa nghĩ ra và vẽ vội trên bao thuốc lá lại là bản vẽ
tôi ưng ý nhất… nhưng tôi sợ mình quá vô lễ để đưa ra tại đây”.
Tổng thống Thiệu vui vẻ và đồng ý xem “tốc họa” trên
bao thuốc lá. Ông cầm bản phác thảo Hạ sĩ Võ Văn Hai về ngồi trên ghế ngắm
nghía, một lúc sau ông nói: “Anh Thu à, người nghệ sĩ hay lãng mạn lắm mà
chiến sĩ của mình thực tế hơn, họ cần một cái tên cho đề tài, anh cho tôi biết
đề tài của bức hình là gì đây?”.
Anh Thu lần lượt đề nghị các tên: (1) Khóc bạn, (2)
Tình đồng đội, (3) Nhớ nhung, (4) Thương tiếc và (5) Tiếc thương. Cuối cùng
Tổng thống chọn tên “Thương Tiếc” cho bức phác họa Hạ sĩ Võ Văn Hai ngồi nhớ
bạn. Tổng thống còn nhắc nhở phải làm sao nói lên được ý nghĩa vừa thương tiếc
bạn bè nằm xuống nhưng cũng phải thể hiện tinh thần chiến đấu của người lính
VNCH lúc nào cũng vững tay súng.
Bất ngờ, Tổng thống yêu cầu anh vẽ một bản thứ hai
lớn hơn, vẽ tại chỗ, ngay ở dinh Gia Long. Thế là với dụng cụ giấy vẽ, bảng đen
và các loại màu được cung cấp ngay theo yêu cầu, anh Thu bắt đầu… “ra tay”
trước mặt Tổng thống Thiệu và một số sĩ quan thân cận của ông.
Anh Thu có thêm yêu cầu cần một người ngồi làm mẫu…
và trong số các sĩ quan hiện diện, chính Đại tá Cầm “xung phong” làm… người
mẫu! Thực ra thì hình ảnh Đại tá Cầm mặc quân phục chỉnh tề, “ủi hồ láng cóng”,
không thích hợp với hình ảnh người lính thật sự nhưng đó chỉ là một hình ảnh
gợi ý để sáng tác cấp tốc.
Anh Thu còn xin thêm thêm 1 khẩu súng trường cho Đại
tá Cầm để trên đùi, đó là khẩu Garant M1 đang được quân đội sử dụng trên chiến
trường… Anh cũng đề nghị trong lúc anh vẽ, tất cả mọi người miễn đặt câu hỏi,
vì nếu như thế anh sẽ mất sự tập trung trong sáng tác và sẽ thất lễ nếu anh
không dừng vẽ để trả lời.
Khó khăn của anh Thu là phải hoàn thành tác phẩm
trong một thời gian gấp rút, anh tâm sự: “Lúc bấy giờ, không biết có một
điều xui khiến vô hình nào đó mà tôi xuất thần phóng bút vẽ lại Hạ sĩ Hai…
Không biết là tôi vẽ hay là ai nữa!”.
Nguyễn Thanh Thu
Sau khi Tổng thống Thiệu ký tên vào bức “tốc họa”,
anh Thu chỉ có 3 tháng để hoàn tất công trình tượng đài trước ngày 1/11/1967,
ngày Quốc khánh của VNCH. Vấn đề trước mắt là đi tìm “người mẫu” Võ Văn Hai
trong quán nước ngày trước tại Gò Vấp. Anh đã tìm đến đơn vị của Hạ sĩ Hai và
gặp vị Thiếu tá phụ trách đơn vị.
Thoạt đầu khi nghe anh Thu trình bày vấn đề, vị
Thiếu tá có vẻ băn khoăn, suy tính… nhưng khi thấy tận mắt bức họa có chữ ký
của Tổng thống Thiệu, ông lại hãnh diện khi có người lính thuộc đơn vị nhảy dù
của mình được chọn làm biểu tượng cho người lính VNCH tại nghĩa trang…
Vị Thiếu tá còn ra lệnh cho tập họp đại đội với súng
ống đầy đủ để anh Thu chọn “người mẫu”, vì theo ông, trong đơn vị có nhiều
người cao to tới 1,7 hoặc 1,8 mét, còn Hạ sĩ Hai chỉ cao chừng thước 1,6… Chính
ông Thiếu Tá cũng chọn được 4 người lính lực lưỡng trong hàng đầu còn anh Thu
thì chỉ réo tên Võ Văn Hai ở gần cuối hàng quân.
Anh Thu được giao 5 người lính nhảy dù để làm mẫu
cho bức tượng Thương Tiếc trong vòng 3 tháng. Anh cũng nói riêng với các “người
mẫu”, sự thật anh chỉ cần Hạ sĩ Hai, nhưng tất cả đều được nghỉ phép 3 tháng
tại Sài Gòn với điều kiện chỉ được mặc quần áo dân sự để không bị quân cảnh làm
khó dễ.
Anh Thu bên bản sao bức tượng “Thương Tiếc”
Chính hình ảnh Võ Văn Hai ngồi tiếc thương bạn trong
quán nước đã ám ảnh anh Thu để sáng tạo ra bức tượng “Thuơng Tiếc” ngồi trước
cửa Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Ngày ngày, anh Hai trong bộ quần áo dân sự
đạp xe lên nhà anh Thu, tại đây anh thay bộ quân phục, với ba lô, súng đạn đầy
đủ để ngồi làm mẫu.
Một hôm, khi bức tượng gần hoàn chỉnh chỉ còn thiếu
chi tiết khuôn mặt, anh Thu đã cố tình để cho người lính ngồi một mình trong
phòng, còn anh kín đáo quan sát qua bông gió trên tường. Đây là dụng ý của nhà
điêu khắc muốn để anh ngồi một mình nhớ đến người bạn đã qua đời.
Anh Thu có thể thấy từng đường nét diễn biến trên
khuôn mặt lúc anh lính ngồi buồn một mình và nhà điêu khắc đã phác họa lại trên
giấy khuôn mặt anh. Phần mình, Hạ sĩ Võ Văn Hai lại sợ đã làm chuyện gì khiến
Đại úy Nguyễn Thanh Thu phiền lòng nên cho anh về sớm mà không biết ông đã bí
mật quan sát!
Khuôn mặt người lính “Thương Tiếc” bạn được tái hiện
qua bức tượng trong cuộc phỏng vấn
Khoảng 3 giờ sáng anh Thu thức dậy để bắt đầu giai
đoạn hoàn chỉnh cuối cùng của bức tượng: nét mặt của người lính. Anh dùng đèn
cầy để lấy ánh sáng chiếu vào nhiều góc cạnh, qua đó anh có thể sửa lại nét mặt
người lính theo những gì anh phác họa.
Loại ánh sáng nhân tạo qua ánh đèn cầy có tác dụng
điều chỉnh các góc cạnh của tác phẩm theo hướng người nghệ sĩ di chuyển từ
nhiều phía. Anh Thu hoàn toàn bị cuốn hút vào những cảm xúc trên khuôn mặt
người lính. Đó là những giây phút chỉ mình anh và nhân vật của bức tượng trong
ánh sáng mờ ảo của cây đèn cầy.
Sau một giấc ngủ ngắn, anh tỉnh dậy sáng hôm sau để
quan sát và so sánh công trình của mình đêm qua dưới ánh đèn cầy với ánh sáng
ban ngày. Anh mừng vì khuôn mặt của người lính giữa ánh sáng tự nhiên ban ngày
và ánh sáng nhân tạo từ đèn cầy vẫn hiện lên một nét buồn ray rứt.
Như vậy là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu có thể hài
lòng với công trình nghệ thuật kéo dài 3 tháng của mình. Và chúng ta được chứng
kiến pho tượng “Thương Tiếc” ngồi trước cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
từ năm 1967 cho đến sau ngày 30/4/1975.
Bức tượng “Thương Tiếc” được đắp lại cho cuộc phỏng
vấn
***
Chuyện
bây giờ mới kể về bức tượng “Thương Tiếc” được viết lại theo nội dung cuộc
phỏng vấn của Lê Xuân Trường với nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu qua một video
clip dài 36,57 phút vừa xuất hiện trên Youtube, bạn đọc có thể theo dõi qua địa
chỉ:
Cuộc phỏng vấn của Nguyễn Xuân Trường với điêu khắc
gia Nguyễn Thanh Thu
Trong clip này, ở phần cuối dài hơn 5 phút, có đề
cập đến thời gian đi học tập cải tạo của Đại úy Nguyễn Thanh Thu. Anh tâm sự
cuộc đời của mình dính liền với tác phẩm Thương Tiếc, từ “danh vọng” đến “thê
thảm”. Tại trại cải tạo trong thời gian bị “biệt giam” 22 tháng trong “thùng
conex” [2] với lời buộc tội: “Tướng lãnh, sĩ quan xong giặc rồi là hết, còn
anh vẫn lưu lại tư tưởng phản động qua tác phẩm….”.
Cán bộ trong trại chắc cũng chưa từng thấy bức tượng
“Thương Tiếc” mà chỉ nghe đồn qua người Sài Gòn vì bức tượng đã bị giật sập và
nấu thành kim loại sau năm 1975. Khi ở trong trại được khoảng 8 tháng, có lần
“quản giáo” trong trại đề nghị anh Thu khai chỉ đóng vai phụ giúp trong việc
tạc tượng còn tác giả đã ra nước ngoài!
Anh Thu đã trả lời một cách khẳng khái rằng anh đã
“làm” thì anh “chịu”, tàu chìm thì anh chìm theo, máy bay rớt thì anh rớt theo,
tượng chết thì anh chết theo… chứ không thể nào khác được. Anh Thu đã phải trả
giá về sự “ngoan cố” của mình, nhưng một “phép lạ” đã xảy ra trên đường ra pháp
trường sử bắn…
Nguyễn Thanh Thu diễn tả lại cảnh vì sao anh bị…
điếc
Người xem video clip này dễ dàng nhận thấy giữa
người phỏng vấn Lê Xuân Trường và người được phỏng vấn, anh Nguyễn Thanh Thu,
đôi lúc không có sự “ăn ý” trong đối thoại. Chỉ ở đoạn cuối mới có câu trả lời
tại sao anh Thu đã bị “điếc” trong thời gian đi cải tạo khiến cho những đối
thoại trong cuộc phỏng vấn không được “trơn tru” như bình thường.
Nguyên do tại sao xin bạn đọc theo dõi phần cuối câu
chuyện bây giờ mới kể trên video clip đã dẫn.
Bức tượng Thương Tiếc sau 30/4/1975
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu (trái) và mô hình tượng Thương Tiếc - Hình
chụp 2009
***
Chú
thích:
[1] Xem thêm bài viết “Phi Luật Tân thời hậu
SARS” tại:
[2] Thùng Conex: loại thùng bằng sắt để chứa hàng
hóa trong quân đội Mỹ ngày xưa, có kích thước khoảng 3 mét mỗi chiều. Ngày nay
thường thấy loại thùng này lớn hơn được chuyên chở trên các xe container.
[3] Xem thêm bài viết “Nghĩa tử là nghĩa tận:
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” tại:
(Trích Hồi Ức Một Đời Người)
Hồi
Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1.
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ
Quân đội)
5.
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc
gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng
sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống
lỗ)!
Được đăng bởi Ngoc
Chinh Nguyen vào lúc 01:05
----------------------------------
No comments:
Post a Comment