Posted on February 15, 2014 by Jonathan London
Tuần qua, chính trường Việt Nam
đã hướng về Geneve, nơi mà những hành động chính trị diễn ra sôi nổi
xoay quanh cuộc gặp gỡ Phiên Điều trần Kiểm điểm Định kỳ phổ quát (UPR:
Universal Periodic Review) của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hợp Quốc. Đến nay, đã
có khá nhiều thảo luận, tranh luận, và trận “ném đá” về UPR, một cụm từ mà
trước đây vài tuần đại đa số người quan tâm đến chính trị ở Việt Nam chẳng bao
giờ biết đến.
Nếu chúng ta đã biết từ trước
các phiên UPR gần như không thể mang lại một kết quả cụ thể nào chính vì những
hạn chế của LHQ, thì những sự kiện ở Geneve có ý nghĩa gì? Theo tôi, “tuần
UPR”của Việt Nam tại Geneve sẽ được ghi nhận như một sự kiện quan trọng, trong
sự phát triển chính trị đương đại của đất nước. Ít nhất có hai lý do.
1. Một cơ hội để nhìn rõ và suy ngẫm về tình hình trong
nước
Trong những năm qua, tình hình
nhân quyền ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ theo quan điểm chính thức của nhà
nước Việt Nam. Tôi rất hoan nghênh lời phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Hà
Kim Ngọc, khi khẳng định rằng: “Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là
tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người,
coi đó là nguyên tắc cơ bản của các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước”. Nhưng, nếu những lời này thực sự phản ánh chính sách
của nhà nước Việt Nam thì chúng ta chỉ có thể có hai kết luận: hoặc là có một
số vấn đề trong quá trình thực hiện các chính sách đó; hoặc là có sự nhầm lẫn
giữa ý tưởng với thực tế.
Tôi khá thông cảm với cách tiếp
cận khái niệm về nhân quyền, nó bao gồm những yếu tố cả về chính trị, xã hội,
kinh tế, và dân sự. Và đại đa số những người lo ngại về nhân quyền ở Việt Nam
không hề phủ nhận thực tế rằng, dù còn quá nhiều bất cập, Việt Nam đã có được
nhiều tiến bộ quan trọng trong các vấn đề về kinh tế xã hội có liên quan đến
nhân quyền và chất lượng đời sống của nhân dân. Song, các vấn đề về mức sống,
dù rất quan trọng, không phải là những vấn đề trung tâm đối với tình hình nhân
quyền ở Việt Nam. Nói cách khác, việc chúng ta nhìn thấy những tiến bộ hứa hẹn
trong một số lĩnh vực không có nghĩa là chúng ta nên “tha thứ” hay phủ nhận
những vi phạm về nhân quyền từ trước đến nay ở Việt Nam.
Thay vì nói nhiều đến những
thành tích tưởng tượng, những luật lệ theo hình thức này, hình thức kia, và
những con số thống kê nghe thì hay ho nhưng vô nghĩa, nhà nước nên nỗ lực để
làm những gì mà họ nói. Nếu muốn bước vào một tương lai mới, thái độ chân thật
là bước đầu. Số người bị đánh đập, đe dọa, bỏ tù tại Việt Nam đã và đang ở một
mức độ kinh tởm. Mặc dù số người bị bỏ tù theo điều 88 đã giảm, xu hướng con số
đó không nói lên điều gì, nhất là khi có nhiều biện pháp áp chế khác, cả chính
thức, như những điều 58, 72, 79, lẫn không chính thức, như hiện tượng sử dụng
côn đồ và dùng luật rừng.
Những nhận xét trên có lẽ không
có gì mới lắm đối với người Việt Nam. Song, qua báo cáo của nhà nước Việt Nam,
sự quan tâm của công đồng quốc tế, và nhất mọi sự quan tâm và những nỗ lực của
các nhóm xã hội dân sự Việt Nam và quốc tế, cả thế giới đang thấy rõ hơn tình
hình về nhân quyền ở Việt Nam. Đó là một kết quả tốt dù chỉ là một sự bắt đầu.
Ngay trong tuần sau UPR đã có những người bị đàn áp rồi, làm cho mọi người nghi
ngờ về câu “Nhà nước Việt Nam là tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy tất cả các quyền
và tự do cơ bản của con người.”
2. Một thành tích to lớn
Dù chưa thấy một thay đổi hứa
hẹn trong hành vi và cách cư xử từ phía nhà nước, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tích to lớn trong lĩnh vực nhân quyền. Ở đây tôi không nói đến những báo
cáo bóng bẩy như: “bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp quyền” hay việc có
“997 cơ quan báo chí, in 1.084 ấn phẩm” hay việc số người dùng Internet đang
tăng cao hay việc “có khoảng 460 hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp có phạm vi
hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố” hay việc đã “cho phép” bà Trần Thị
Ngọc Minh sang Mỹ và chia sẻ thông tin về tình trạng của con gái trong Gulag
hay Guantanamo của Việt Nam.
Dù tôi không coi nhẹ những nỗ
lực của nhiều quan chức mà thực sự muốn có tiến bộ về nhân quyền, song những
thành tích to lớn nhất về nhân quyền ở Việt Nam lại xuất phát từ các nỗ lực của
nền xã hội dân sự đang phát triển đầy hứa hẹn.
Nếu trước đây tôi chưa sẵn sàng
coi những nỗ lực vì nhân quyền ở Việt Nam là một phong trào xã hội thực sự,
theo định nghĩa đúng của nó, thì bây giờ tôi có cái nhìn khác. Những nỗ lực vì
nhân quyền ở Việt Nam đã và đang phát triển một cách rất ấn tượng, bất chấp
những điều kiện khó khăn phải đối mặt mỗi ngày. Như chính ĐCSVN cách đây tám
mươi mấy năm đã nhận thấy, yêu nước, muốn công lý thì phải có một tổ chức hữu
hiệu. Dù bị đe dọa, bỏ tù
liên tục, những nhóm, cá nhân, và mạng lưới đang đấu tranh tích cực vì một Việt
Nam pháp quyền và văn minh là những người anh hùng của Việt Nam đương đại. Cả
nước Việt Nam nên nhiệt liệt hoan nghênh những nỗ lực dũng cảm của những con
người này.
Việc chỉ có thể có những thảo
luận sâu và tự do về nhân quyền ở Việt Nam tận Geneve, một nơi rất xa Việt Nam,
có nhiều ý nghĩa. Câu “[Nhà nước] Việt Nam sẵn sàng mở cửa cho đối thoại
và hợp tác với các nước khác” là ý rất hay. Song, rất nhiều người muốn
chính quyền cũng nỗ lực xây dựng một nước pháp quyền và “mở cửa cho đối
thoại” với chính người dân Việt Nam hơn là những tuyến bố chung chung. Tiếc
rằng đến bây giờ vẫn chưa có một đối thoại nào (ngoài đồn công an và trên mạng)
giữa các bên của Việt Nam, gồm “bên trên” (chính quyền), “bên dưới” (xã hội dân
sự), và “bên ngoài” (cộng đồng người Việt hải ngoại). Thay vì coi những nỗ lực
về nhân quyền từ xã hội dân sự – trong và ngoài bộ máy – một lực lượng cần
“chống”, hãy mở đối thoại với họ. Hãy có đủ thâm nhình, dũng cảm, tự tin, và
lương tâm để có một bước tiến cần thiết trên đường phát triển của một đất nước
Việt Nam thực sự văn minh.
No comments:
Post a Comment