Hùng Tâm
July
13, 2016
Bắc Kinh trước phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực
Sau
ba năm thụ lý hồ sơ do Cộng Hòa Philippines đệ nạp để khiếu nại việc Trung Hoa
Cộng Sản xâm phạm và cưỡng đoạt chủ quyền của họ trong vùng biển miền Tây, Tòa
án Trọng tài Thường trực (PCA) đã có một phán quyết mang ý nghĩa lịch sử vào
ngày Thứ Tư 12 vừa qua. Phán quyết dày 500 trang của định chế trọng yếu này
trong nền công pháp quốc tế đã bác bỏ mọi luận cứ của Bắc Kinh và mở ra một
giai đoạn có đầy bất ổn khi tham vọng bành trướng của lãnh đạo Trung Cộng bị quốc
tế đẩy lui. Hồ Sơ Người Việt sẽ tìm hiểu chuyện này…
Tòa
Án Trọng Tài Quốc Tế không là tòa án
Ðược
thành lập năm 1899 tại thủ đô The Hague (hay La Haye) của vương quốc Hòa Lan,
qua hàng loạt hội nghị quốc tế từ 1899 đến 1907 gọi là Nghị hội Hòa bình, Tòa
Án Trọng Tài không là một tòa án mà chỉ là một tổ chức pháp lý có nhiệm vụ phối
hợp hoạt động của hệ thống tòa án trọng tài giữa các quốc gia thành viên với
nhau.
Về
bối cảnh, tình trạng chinh chiến liên miên giữa các nước Âu Châu khiến một số
lãnh đạo, trước tiên là Sa Hoàng Nicholas II của Ðế quốc Nga, có sáng kiến lập
ra một định chế hòa giải mâu thuẫn giữa các nước qua một cơ chế có quyền tài
phán, ra phán quyết của một trọng tài, hầu tránh được xung đột và chiến tranh
khi có mâu thuẫn giữa các nước về quyền lợi. Vào giai đoạn ấy, doanh gia nổi tiếng
về ngành thép của Hoa Kỳ là Andrew Carnegie đã tài trợ việc xây dựng một trung
tâm hòa đàm và vì thế, Tòa Án Trọng Tài ra đời như một nỗ lực của Âu Châu và
Hoa Kỳ nhằm giải tỏa nguy cơ chiến tranh. Mặc dù như vậy, Âu Châu vẫn lao vào
hai trận Thế Chiến I và II (1914-1918 và 1939-1945) với những tổn thất đắt đỏ
cho cả thế giới.
Nhìn
theo một cách khác, Tòa Án Trọng Tài là cố gắng hòa giải và hội nhập giữa các
nước Tây phương trước khi có những sáng kiến như việc thành lập Hội Quốc Liên,
Liên Hiệp Quốc hay Liên Âu sau này.
Về tổ chức, sau này Tòa Án Trọng Tài là
một cơ quan chuyên môn quốc tế nằm trong hệ thống Liên Hiệp Quốc.
Và
vào năm 1899, Trung Quốc dưới triều Mãn Thanh đã lụn bại và sắp tan rã mà chưa
thể làm chủ được Ðài Loan chứ chưa nói tới vùng biển họ gọi là Hoa Ðông (tại
Ðông Bắc Á) hay Hoa Nam (tại Ðông Nam Á). Chúng ta cần nhớ lại bối cảnh địa dư
và lịch sử đó. Tính tới đầu năm nay, hệ thống trọng tài ấy có 119 quốc gia
thành viên tham dự, kể cả Trung Quốc từ năm 1904 và Việt Nam từ năm 2011.
Vắn
tắt lại, mọi quốc gia thành viên của hệ thống trọng tài quốc tế có thể đệ nạp hồ
sơ khiếu nại để nhờ các thẩm phán quốc tế khách quan phân xử mâu thuẫn với một
xứ khác. Nhưng mà tương tự như trên một sân banh, người trọng tài không tham
gia trận đấu.
Lưỡi
bò của Hán tộc
Sau
Thế Chiến II, Trung Hoa Cộng Sản còn tối mắt vì những khó khăn chồng chất sau
khi làm chủ Hoa Lục từ năm 1949, và Mao Trạch Ðông lao vào việc xây dựng cộng sản
chủ nghĩa trên lãnh thổ thừa hưởng từ Trung Hoa Dân Quốc, chế độ đã lật đổ nhà
Ðại Thanh. Trên lãnh thổ ấy, ưu tiên của Mao là củng cố khu vực Mãn Châu làm cơ
sở cho kỹ nghệ nặng để công nghiệp hóa xứ sở theo mô thức Xô Viết của Stalin. Về
an ninh, Mao đã thu hồi hai khu vực Nội Mông và Tân Cương và chiếm đoạt Tây Tạng
làm vành đai bảo vệ Trung Nguyên của Hán tộc.
Khi
ấy, Mao chưa nhìn ra biển. Nhưng khi ấy, lãnh đạo Trung Hoa Dân Quốc là Tưởng
Giới Thạch bị đẩy ra Ðài Loan và vài đảo phụ cận đã sớm nhìn xuống miền Nam.
Chính
Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1946 đã chiếm đoạt đảo Ba Bình có tên quốc tế là Itu
Aba, và cải danh thành đảo Thái Bình, trong vùng quần đảo Trường Sa của Việt
Nam. Ðây là hòn đảo lớn nhất vùng Trường Sa và ở gần các quần đảo kế cận với
Phi Luật Tân. Chi tiết này, ta cũng nên nhớ.
Chẳng
những thế, năm 1948, Trung Hoa Dân Quốc còn đưa ra bản đồ lãnh thổ của mình gồm
các quần đảo quanh Ðài Loan và hình lưỡi bò có 11 khúc bao trùm lên biển Ðông,
kể cả Vịnh Bắc Bộ, các vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Khi ấy, Việt Nam
lâm vào cảnh Nam-Bắc phân tranh trong thế quốc-cộng chìm vào Chiến tranh lạnh
nên miền Nam dưới nền Ðệ nhất Cộng Hòa đã phản đối việc Ðài Loan chiếm đóng Ba
Bình và lè ra lưỡi bò 11 khúc, nhưng không hành động gì vì ưu tiên vẫn là bảo vệ
được nền tự do tại miền Nam. Khi ấy, ưu tiên của Hà Nội cũng vẫn là Cộng Sản
hóa miền Nam, chuyện Ðông Hải còn xa vời. Còn Trung Cộng thì công nhận lãnh thổ
của mình bao trùm lên khu vực cai trị của Ðài Loan lẫn cái lưỡi bò 11 khúc của
Trung Hoa Dân Quốc.
Tới
năm 1953, Trung Cộng mới bỏ hai khúc là Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam và đưa ra bản
đồ chính thức của họ gồm có đường chín khúc, hay “cửu đoạn tuyến.” Là “hậu
phương lớn” của Cộng Sản Bắc Việt tại Hà Nội, Trung Cộng có toàn quyền quyết định
về phạm vi lãnh thổ và Hà Nội gián tiếp xác nhận điều ấy qua bức công hàm nổi
tiếng năm 1958 của Phạm Văn Ðồng.
Khi
miền Nam hấp hối trước sự triệt thoái của Hoa Kỳ và đà xâm lấn của Cộng Sản Bắc
Việt, Trung Cộng mới tiến hành việc chiếm đoạt vùng quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam qua trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Sau đó, Bắc Kinh xuống vùng quần đảo
Trường Sa qua việc chiếm đóng Gạc Ma năm 1988. Từ đấy, Trung Cộng tiếp tục cưỡng
đoạt nhiều khu vực khác trên lãnh thổ và ngoài lãnh hải của Việt Nam và trực tiếp
khai thác nhiều nguồn lợi về năng lượng và thủy sản thuộc về chủ quyền của Việt
Nam mà không gặp phản ứng gì của Hà Nội. Người ta có quyền suy luận rằng Hà Nội
đã có những thỏa thuận ngầm với Bắc Kinh từ mật nghị tại Thành Ðô vào Tháng
Chín năm 1990 và sau đó nữa.
Nhưng
Biển Ðông không chỉ có Việt Nam và Trung Cộng.
Việc
Bắc Kinh nhân danh chủ quyền lịch sử của mình với tấm bản đồ có lưỡi bò chín
khúc mà còn thực tế chiếm đoạt lãnh hải và nhiều quần đảo tại vùng biển Ðông
Nam Á đã xâm phạm quyền lợi của nhiều nước khác, như Phi Luật Tân, Mã Lai Á,
Brunei và Nam Dương. Trong số này, Phi Luật Tân là quốc gia duy nhất chính thức
khiếu nại về ngoại giao và pháp lý nên đã nộp đơn kiện lên Tòa án Trọng tài Thường
thực vào ngày 22 Tháng Giêng năm 2013.
Kết
quả là phán quyết ngày 12 Tháng Bảy vừa qua.
Phán
quyết lịch sử
Qua
nhiều năm tranh chấp về chủ quyền, chính quyền Phi Luật Tân tại thủ đô Manila
đã thử nghiệm nhiều giải pháp ngoại giao và hợp tác khác nhau với Bắc Kinh
nhưng không có kết quả mà chỉ thấy nhiều quần đảo nằm sát lãnh thổ của mình và
rất xa lãnh thổ Trung Cộng bị xâm hại. Vì vậy, chính quyền của Tổng Thống Benigno Aquino III quyết định
kiện Trung Cộng trước Tòa Án Trọng Tài PCA và vận động sự hợp tác kỹ thuật của
nhiều luật gia quốc tế.
Chúng
ta nên chú ý tới vai trò chuyên môn của các luật gia này và đừng nghĩ rằng đây
là mưu ngầm của Hoa Kỳ. Trong suốt giai đoạn có đầy mâu thuẫn và xung đột này,
Hoa Kỳ giữ chủ trương trung lập, không nói ai đúng ai sai, vùng nào thuộc chủ
quyền của nước nào, mà chỉ yêu cầu các nước dàn xếp một cách hòa bình và tôn trọng
quyền tự do lưu thông ngoài biển. Ðã vậy, chính quyền Barack Obama còn chính thức
mời Trung Cộng tham dự cuộc thao dượt quân sự RIMPAC của 22 quốc gia trên vành
cung Thái Bình Dương được tổ chức từ năm 1971 mà chưa hề có Trung Cộng.
Ngay
lập tức, Trung Cộng phủ nhận thẩm quyền của Tòa Án Trọng Tài và tìm cách đàm
phán song phương với Manila mà không thành. Trong khi Manila có một dàn luật
gia tham dự vụ kiện, Bắc Kinh không hề gửi đại diện mà chỉ trả lời bằng chiến dịch
tuyên truyền. Kết quả là phán quyết của Tòa Án Trọng Tài PCA.
Sau
đây là những điểm then chốt của phán quyết PCA (xin tham khảo nội dung trên
trang mạng của PCA: pca-cpa.org).
Tòa
Án Trọng Tài Thường Trực không phân định chủ quyền của từng nước trên từng khu
vực đang có tranh chấp và cũng không có thẩm quyền giải quyết việc tranh chấp.
Hai điều “không” này có tầm quan trọng cho tương lai.
Nhưng,
Tòa Án PCA khẳng định rằng việc Trung Cộng đòi chủ quyền lịch sử về tài nguyên
trên nhiều vùng lãnh hải của biển Hoa Nam mà họ gọi là “đường tuyến chín khúc”
là không có cơ sở pháp lý. Yếu tố quan trọng là chứng cớ lịch sử của Bắc Kinh
không có cơ sở pháp lý. Thứ hai, nếu có thì cái gọi là “chù quyền lịch sử” đã
thực tế tiêu vong, vô giá trị, với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
(UNCLOS) mà Bắc Kinh đã ký kết.
Thứ
ba, về địa dư và sinh thái, trên vùng quần đảo Trường Sa, không hòn đảo nào có
thể nuôi dưỡng cư dân một cách tự nhiên – một tập thể quần cư ổn định – nên
không thể là cơ sở xác định vùng độc quyền kinh tế EEZ là nơi mà chủ quyền kinh
tế tỏa rộng ra phạm vi 200 hải lý. Thứ tư, cũng do thực tế đó, đảo Itu Aba (hay
Ba Bình theo tiếng Việt và Thái Bình theo tiếng Tầu) mà Ðài Loan đang kiểm soát
cũng chỉ là cụm đá nổi trên mực thủy triều, không là nền tảng cho độc quyền
kinh tế. Ðây là lý do khiến Ðài Loan phản đối phán quyết.
Thứ
năm, việc Trung Cộng khai thác tài nguyên năng lượng và thủy sản trên các cụm
đá của Phi Luật Tân là xâm phạm chủ quyền của Phi. Thứ sáu, việc xây dựng các cụm
đá nổi thành đảo nhân tạo không thể đem lại quyền xác định vùng độc quyền kinh
tế EEZ. Thứ bảy, khi phá vỡ các rạn san hô để xây đảo nhân tạo hầu đòi chủ quyền
kinh tế trong phạm vi 200 hải lý, Bắc Kinh còn phá hoại môi trường sinh sống và
vi phạm quy định quốc tế về bảo vệ môi sinh. Thứ tám, vì Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa và Cộng Hòa Phi Luật Tân đều đã ký kết Công ước UNCLOS, cả hai đều phải
tuân thủ quy định của hệ thống quốc tế này.
Tóm
lại, phán quyết của Tòa Án Trọng Tài phủ nhận mọi luận cứ của Trung Cộng về cựu
đoạn tuyến và mặc nhiên kết án Bắc Kinh tội xâm phạm chủ quyền và phá hoại môi
sinh! Dĩ nhiên, Trung Cộng bác bỏ cả thẩm quyền lẫn nội dung của phán quyết và
sẽ coi như không có gì xảy ra, hoặc sẽ có phản ứng khác.
Kết
luận ở đây là gì?
Hệ
thống công pháp quốc tế lập ra để giải tỏa mâu thuẫn và tránh xung đột giữa các
nước.
Một
định chế quan trọng nhất của hệ thống này vừa ra phán quyết hoàn toàn bất lợi
cho Trung Cộng, có lợi cho Phi Luật Tân và nhiều nước khác, kể cả Việt Nam.
Bắc
Kinh có thể phủ nhận tất cả nhưng sự thật là đã bị thất thế về ngoại giao. Các
quốc gia khác, kể cả và nhất là Việt Nam, nên khai thác lợi thế này.
No comments:
Post a Comment