Hoàng Quốc Hải
Thứ Bảy, ngày 16 tháng 7 năm 2016
Nhà
văn Hoàng Quốc Hải, tác giả hai bộ tiểu thuyết lịch sử “Tám triều vua Lý’ và
“Bão táp triều Trần”, gồm 10 tập, 6.500 trang. Chúng ta có thể “gặp” tại đây những
sử liệu phong phú ở rất xa nhau, trong chính sử và sử ký Trung Quốc/ Việt Nam;
sách thực lục mỗi thời, lịch triều loại chí hay dẫu chỉ là dã sử nằm rải rác
trong ký ức dân tộc, ký ức kẻ thù. Có thể hình dung, với một nhãn
quan sắc sảo trời cho, với một tấm lòng yêu nước sâu nặng và mẫn tiệp,
mọi kho sử liệu Việt – Trung đã bị ông lục tung,chọn lựa rồi sắp đặt dưới ánh
sáng lương trí; Ông trở thành một thẩm quyền khả dĩ bàn bạc, cắt nghĩa thấu đáo
về việc Việt Nam nắm giữ chủ quyền liên tục xuyên 3 thế kỷ trên hai quần đảo
Hoàng Sa-Trường Sa, đồng thời chứng minh một cách thuyết phục “đường 9 đoạn” do
Trung Quốc tự vẽ là hoàn toàn phi lịch sử, phi lý,phi pháp và phi đạo đức cùng
những hành xử hung hăng, côn đồ của Trung Quốc tại Biển Đông mấy năm vừa qua.
Nhân
sự kiện Tòa Trọng tài Thường trực (PCA ) Liên Hiệp Quốc vừa tuyên xử vụ Nhà nước
Philippines kiện Trung Quốc, chúng tôi đăng lại bài viết còn nguyên giá trị so
với tình hình thời sự hiện nay của nhà văn Hoàng Quốc Hải, nhằm giúp bạn đọc
theo dõi sự kiện lịch sử này một cách có hệ thống.
-----------------
Trung Quốc nói, Trung Quốc làm
Việc
Trung Quốc đưa một đoàn tàu cá hùng hậu ( cũng có thể là tàu hải quân trá hình)
diễu võ dương oai trong vùng biển thuộc chủ quyền của nước
ta, thực chất là một hành vi khiêu khích nghiêm trọng. Điều trớ trêu là Trung
Quốc vừa ra lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông ( cấm trái phép cả trên vùng biển
của Việt Nam) từ 16 tháng 5 năm 2012 đến 1 tháng 8 năm 2012 thì 12
tháng 7 năm 2012 chính họ lại vi phạm cái gọi là “ lệnh cấm” đó. Điều này chứng
tỏ cái mà Trung Quốc nói hoàn toàn trái ngược với cái mà Trung Quốc
làm. Đoàn tầu cá 29 chiếc vỏ thép, mỗi tầu 140 tấn cùng với tầu hậu cần kiêm chỉ
huy 3.000 tấn được chia thành 2 biên đội 6 tốp, hình thành một hạm đội đánh bắt.
Thực chất đây là một cuộc diễn tập quân sự trá hình, và cũng là đòn cân não nắn
gân đối phương.
Còn
việc Công ty dầu khí ( CNOOC) Trung Quốc mời thầu 9 lô dầu khí nằm sâu trong thềm
lục địa Việt Nam, lô gần nhất chỉ cách đảo Phú Quý 50km, đó không còn là hành
vi khiêu khích, mà nó nằm trong âm mưu thôn tính thuộc về quốc sách của Trung
Hoa xuyên suốt từ cổ đại tới nay. Cần lưu ý rằng giữa ta và Trung Quốc cùng các
nước như Malaysia, Philippines, Brunei chưa đàm phán để xác định vùng chống lấn.
Chỉ vùng chống lấn đó mới gọi là vùng tranh chấp.
Còn việc Trung Quốc cho ngư dân vào đánh bắt cá và mời thầu 9 lô dầu khí trong vùng thuộc quyền chủ quyền tức vùng đặc quyền kinh tế của ta là hành vi xâm lấn, nếu chưa muốn nói là xâm lược. Đó là một âm mưu thâm độc, tạo ra tranh chấp trong vùng không có nhân tố tranh chấp rồi đòi thương lượng. Thật chả khác chuyện cổ tích kể về một con Sói trong lúc đói rét xin đặt nhờ một chân vào nhà Thỏ để sưởi ấm. Khi đặt được một chân, Sói dùng toàn thân xô cửa vào nhà, liền đó đuổi Thỏ đi và nhận đó chính là nhà của mình. Thỏ cãi lại, Sói chồm lên cắn chết Thỏ rồi ăn thịt.
Còn việc Trung Quốc cho ngư dân vào đánh bắt cá và mời thầu 9 lô dầu khí trong vùng thuộc quyền chủ quyền tức vùng đặc quyền kinh tế của ta là hành vi xâm lấn, nếu chưa muốn nói là xâm lược. Đó là một âm mưu thâm độc, tạo ra tranh chấp trong vùng không có nhân tố tranh chấp rồi đòi thương lượng. Thật chả khác chuyện cổ tích kể về một con Sói trong lúc đói rét xin đặt nhờ một chân vào nhà Thỏ để sưởi ấm. Khi đặt được một chân, Sói dùng toàn thân xô cửa vào nhà, liền đó đuổi Thỏ đi và nhận đó chính là nhà của mình. Thỏ cãi lại, Sói chồm lên cắn chết Thỏ rồi ăn thịt.
Cũng
cần nói rõ: Hầu hết các nước có chung biên giới với Trung Quốc đều bị Trung Quốc
gây hấn và bị mất đất về tay Trung Quốc. Hùng mạnh như nước Ấn Độ mà năm 1962,
Trung Quốc gây ngòi làm bùng nổ cuộc chiến tranh biên giới Trung - Ấn.
Kết thúc chiến tranh, Trung Quốc chiếm được của Ấn Độ 50.000 km2. Cho tới nay Ấn
Độ luôn đòi lại vùng đất bị Trung Quốc chiếm mà vẫn chưa đòi nổi một xăng ti
mét, và hận thù giữa hai nước Ấn – Trung vẫn chưa có cách nào hóa giải.
Lấy
ngay như nước ta làm ví dụ. Rõ nhất là cổng Nam Quan giáp với Đồng Đăng của nước
ta. Cổng đó được người Trung Hoa xây từ thời nhà Minh thế kỷ 15. Trải 5 thế kỷ
nó vẫn tồn tại trấn giữa một đường biên dài và không sảy ra tranh chấp. Nhưng
qua cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đánh Việt Nam vào tháng 2 năm
1979, tới nay chiếc cổng đó đã nằm sâu trong đất của họ và cách đường biên giới
tới mấy trăm mét. Và người Trung Quốc lý sự rằng Hiệp ước Pháp – Thanh phân định
biên giới, việc đo đạc không chính xác! Và lại Hiệp ước Pháp – Thanh thì mãi
1885 mới ký, chẳng có liên quan gì đến biên giới trước đó gần 5 thế kỷ. Hoặc
bãi Tục Lãm trên sông Bắc Luân huyện Móng Cái (Quảng Ninh), Thác Bản Giốc thuộc
huyện Trùng Khánh ( Cao Bằng), trước chiến tranh biên giới năm 1979, nó hoàn
toàn thuộc phần đất của Việt Nam, không hề có tranh chấp. Ấy thế mà sau chiến
tranh biên giới, Trung Quốc nhận chằng là của họ. Trên phương diện quốc gia, họ
cù nhầy, cò cưa và gây căng thẳng trên nhiều tuyến biên ải, tới khi “Bãi Tục
Lãm” chia đôi, “Thác Bản Giốc” chia đôi. Sự cực kỳ phi lý ấy, thử hỏi có khác
gì chuyện con Sói xin sưởi nhờ một chân trong nhà Thỏ?
Trở
lại vấn đề Biển Đông tức Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam. Theo Công ước về Luật
biển UNCLOS của Liên Hiệp Quốc 1982 mà Trung Quốc và Việt Nam đều ký kết, thì
vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường lãnh hải của mỗi quốc gia ven biển,
là quyền tài phán thiêng liêng bất khả xâm phạm của quốc gia đó. Ấy thế mà
Trung Quốc nhảy vào tận sân nhà người ta mà cãi cối, nhận bừa theo kinh nghiệm
truyền đời trên đất liền của họ với mục tiêu là tạo ra vùng tranh chấp. Sự phi
lý đến hoang tưởng, có những vùng Trung Quốc đòi chủ quyền cách xa đường bờ biển
của họ tới 2000 km. Hoặc như bãi cạn Scarborough nằm trong vùng đặc quyền kinh
tế của Philippines cách đất liền có hơn 230 km, trong khi đó cách đảo Hải Nam của
Trung Quốc tới hơn 950 km mà Trung Quốc nhận đó là biển của mình.
Việc
bất minh này nếu các nước bị T Q xâm lấn không làm quyết liệt, vạch trần sự
gian dối đến liều lĩnh , sự ngạo mạn đến trơ trẽn về mặt pháp lý và cả đạo lý
cho nhân dân Trung Quốc và toàn thế giới biết, chắc sẽ dẫn đến hậu quả tai hại
về mặt chủ quyền. Và nếu điều đó sảy ra thì không chỉ mắc tội với tổ tông mà
còn đến muôn đời hậu thế.
Về
đường lưỡi bò trên Biển Đông.
Từ
trước năm 1946, trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn không có yếu
tố nước ngoài mà chỉ có người Việt Nam chiếm hữu từ thế kỷ 17, tới cuối thế kỷ
19, người Pháp xâm chiếm Việt Nam thì quyền chiếm hữu hai quần đảo
này thuộc về người Pháp, họ thay mặt chính phủ Nam triều quản lý.
Năm
1939, quân Nhật đổ bộ lên chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và hàng
loạt các đảo Bành Hồ, Mã Tổ, Đài Loan, Hải Nam của Trung Quốc,vừa làm bàn đạp tấn
công lục địa Trung Hoa, vừa khống chế bờ tây Thái Bình Dương , đối chọi với Mỹ
đang thống lĩnh bờ đông Thái Bình Dương.Trong những năm chiếm đóng Hoàng Sa,người
Nhật đã tiến hành khai thác phân giơi,nghe nói phân giơi vừa có tác dụng làm
phân bón,vừa tách được nguyên liệu chế tạo thuốc nổ.Thời gian quân Nhật chiếm
đóng Hoàng Sa, thì phía người Pháp cả người Việt vẫn điều hành trạm khí tượng
và cây đèn biển trên quần đảo này. Năm 1945 các nước phát xít Đức – Ý – Nhật đầu
hàng đồng minh, Trung Hoa dân quốc do Tưởng Giới Thạch đứng đầu nằm trong thành
phần của Đồng Minh, nên được phân công giải giáp quân đội Nhật, trong đó có phần
lãnh thổ Bắc Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đến
đầu năm 1950, quân Trung Hoa dân quốc đã rút lui khỏi vùng đảo này. Còn đồn binh
của quân Pháp vẫn đóng trụ trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên đầu năm 1956,
Trung Hoa dân quốc lại chiếm đảo Ba Bình thuộc Trường Sa, Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa chiếm đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa; cả hai bên Trung Hoa đều chiếm đóng
trái phép một phần lãnh thổ do Việt Nam quản lý liên tục suốt từ thế kỷ 17.
Đường
9 đoạn trên bản đồ do Trung Quốc vẽ hiện nay là kế thừa đường 11 đoạn do một
công chức có tên Bai Meichu thuộc chính quyền Trung Hoa dân quốc tự vẽ ra từ
năm 1947, nghĩa là từ sau khi họ tiếp quản phần đất mà người Nhật thua trận để
lại.
Lai
lịch tấm bản đồ này rất mơ hồ, không có xuất xứ lịch sử, không có giới hạn địa
lý theo kinh độ, vĩ độ và tọa độ. Sở dĩ hiện nay còn có 9 đoạn là do 2 đoạn
trùm lên Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, sau khi đã phân chia giữa Việt Nam và Trung
Hoa thì người Trung Hoa lại tự xóa đi 2 đoạn.
Trung
Quốc không hề có một bằng chứng lịch sử nào khả tín như sử sách của họ có ghi
chép cụ thể về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc có thực tế chiếm hữu và
khai thác; hoặc chí ít là bia chủ quyền; điều có thể thuyết phục nữa là bản đồ
hành chính hoặc bản đồ địa lý quốc gia. Tất cả những yếu tố tối thiểu để chứng
minh quyền làm chủ của Trung Quốc trên hai quần đảo này là số không. Mà tất cả
chỉ là những căn cứ vu vơ . Ví như: “ Trung Quốc đã hành xử chủ quyền biển Nam
Trung Hoa từ thời nhà Tống (960-1279). Hoặc “ Thời Minh Vĩnh Lạc (1403 -1427) hạm
đội của Trịnh Hòa đã đi khảo sát tại vùng biển Đông Nam Á….”
Đúng
là Trịnh Hòa có đem quân đi giễu võ dương oai tại vùng Đông Nam Á, nhưng không
vẽ được bản đồ, không có dấu ấn gì ghi chép tại mấy nước này. Trái lại, khi
quân của Trịnh Hòa tiến vào Trảo Oa (Java) bị dân địa phương đánh đuổi, giết chết
tới 170 người Trung Quốc, khiến Trịnh Ḥòa phải tháo lui. Và sang đời Minh
Tuyên Đức thì nhà Minh phải bãi bỏ chương trình rất tốn kém của Trịnh Hòa.
Còn
như “Hoàn Cầu thời báo” nói: “ Trung Quốc đã hành xử chủ quyền biển Nam
Trung Hoa từ thời nhà Tống” thì quả là họ nói liều, và họ chả hiểu gì
về lịch sử cha ông họ.Ta nhớ, trước cuộc xâm lăng Đại Việt năm 1076,triều đình
nhà Tống bàn đến nát nước. Các đại thần nhà Tống rất sợ giao chiến với người
Giao Chỉ (xưa họ gọi nước ta là xứ Giao Chỉ). Lễ bộ thị lang Vương Thiều đã
tranh biện kịch liệt với bọn người hiếu chiến và khẳng định: “Chớ nên gây việc
binh đao với người Giao Chỉ”. Còn Triều Bổ Chí, một văn
quan dâng sớ trần tình mọi nhẽ can ngăn Tể tướng Vương An Thạch và Tống
Thần tông chớ nên gây chiến với người Giao Chỉ. Bởi người Tống không quen thuộc
đường biển. Ông nói: “ Quân Tống nhát sóng, hơi có gió đã sợ rồi, không
biết sẽ chiến đấu làm sao? Còn người Giao Chỉ, họ giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền
lại rằng người Việt lặn xuống nước đục thuyền địch lật úp. Đỗ Mục nói họ có kẻ
đi chìm dưới đáy bể tới 50 dặm mà không thở….”. Thật vậy, từ cổ xưa
Trung Hoa vốn là một quốc gia lục địa, thế mạnh của họ là kỵ binh và phòng thủ
của họ là thành cao, hào sâu. Tổ tiên của họ chưa bao giờ mơ ước , và dám mơ ước
tới việc vươn ra biển, nói chi tới việc hành xử chủ quyền.
Phải
nói nhà Tống là một thời đại yếu hèn, hết bị nước Kim đến nước Liêu, nước Hạ
chèn đánh. Nhà Tống vừa phải cắt đất cầu hòa, vừa phải triều cống hằng năm cho
các nước nhỏ bé này. Vua Tống còn bị Vua nước Kim bắt phải tôn gọi là bá phụ,
trong khi Kim Thái tông mới có 12 tuổi. Sự suy thoái triền miên ấy dẫn
toàn bộ nước Trung Hoa vào vòng thống trị của người Mông Cổ tới ngót trăm năm.
Trận quyết chiến cuối cùng năm 1279, quân Mông Cổ dìm chết 10 vạn
quân Tống trong vùng biển Nhai Sơn, tức vùng biển Hải Nam tỉnh Quảng Đông ngày
nay. Tể tướng nhà Tống là Lục Tú Phu phải cõng vua Tống nhảy xuống biển tự tử.
Thử
hỏi một đất nước yếu, hèn như thế làm sao mà “ hành xử chủ quyền” được
trên “ biển Nam Trung Hoa”?!
Lịch
sử chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Mới
đây tiến sĩ Hán – Nôm Mai Ngọc Hồng vừa hiến Bảo tàng lịch sử Việt Nam tấm bản
đồ lãnh thổ Trung Quốc Hoàng Triều trực tỉnh địa dư toàn đồ do
nhà xuất bản Thượng Hải ấn hành năm 1904 ghi rõ cực Nam của Trung Quốc là đảo Hải
Nam.
Nên
nhớ đây là bản đồ Địa dư toàn đồ, nên không có thể nhầm lẫn hoặc bỏ
sót một địa danh nào. Và lại nhóm làm bản đồ gồm có các học giả nổi tiếng của
Trung Quốc và các chuyên gia phương Tây hợp tác. Thêm vào đó sách “ Trung Quốc
địa lý giáo khoa thư” biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906 có ghi “phía Nam từ
vĩ độ Bắc 18 độ 13’ tận cùng là bờ biển Nhai Châu (Hải Nam)…Vậy là cả bản đồ
chi tiết về lãnh thổ và sách giáo khoa của người Trung Quốc đều xác nhận Hải
Nam là đất tận cùng giáp biển. Tuyệt nhiên không thấy có tên Hoàng Sa và Trường
Sa xuất hiện trên bản đồ này.
Cái
tên Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa ( Trường Sa) mới chỉ xuất hiện trên thư tịch
Trung Quốc từ năm 1947. Và mãi đến năm 1980 ngày 30 tháng 1, Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa mới lần đầu tiên đưa ra văn kiện có hệ thống đầy đủ của Bộ ngoại giao
về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam mà phía Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa, trong khi Việt Nam
đã chiếm hữu và khai thác liên tục từ thế kỷ 17 cho tới khi Trung Quốc dùng vũ
lực cưỡng chiếm.
Thật
ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, Việt Nam chỉ
gọi một cái tên chung là Hoàng Sa tức là đảo cát vàng, hoặc Vạn lý Trường Sa
(bãi cát dài vạn dặm).
Ta
có thể tham khảo thêm một số bản đồ cổ của Trung Quốc như “Dư địa đồ”- bản đồ
Trung Quốc vẽ đời Nguyên của Chu Tự Bản, được thu nhỏ trong sách “ Quảng dư đồ”
quyển 1 của La Hồng, biên soạn năm 1561, phần cực nam lãnh thổ của Trung Quốc
ghi là đảo Hải Nam.
Trong
“ Hoàng Minh đại thống nhất tổng đồ” quyển 1 của Trần Tổ Thụ đời Minh, soạn năm
1635, phần lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc ghi là đảo Hải Nam.
Trong
danh mục bản đồ các đời mà Trung quốc vẽ hiện lưu giữ trong “ Bắc Kinh tứ khố”
còn vô vàn, nhưng cũng chả có một chiếc nào đả động đến Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam hoặc Tây Sa và Nam Sa như Trung Quốc gọi.
Trên
đây tôi chỉ nêu 3 tấm bản đồ tiêu biểu của Trung quốc do người Trung Quốc vẽ
qua các thời Nguyên , Minh, Thanh từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 20. Ngoài ra còn
vô số các bản đồ do các nhà truyền giáo phương Tây , các nhà thám hiểm, nhà
buôn vẽ đều ghi nhận đảo Cát Vàng thuộc về nước Đại Nam.
Vài
chứng cớ nữa nói lên Trung Quốc thừa nhận đảo Cát Vàng (Hoàng Sa) là
của Việt Nam.
Vào
năm 1895 tầu Bellona của Đức bị vấp đá ngầm và chìm tại quần đảo Hoàng Sa, đánh
tín hiệu cấp cứu cho Hải Nam mà không được đáp ứng, Trước đó năm 1890 tầu
Himeji của Nhật Bản cũng bị đắm ở Hoàng Sa, gởi tín hiệu cho Hải Nam đều không
được phía Trung Quốc cứu hộ. Trái lại ngư dân của họ từ đảo Hải Nam ra hôi của
như đồng và các hàng hóa khác. Nhân hai sự vụ này, Chính phủ Anh gởi công hàm
phản kháng. Phía Trung Quốc tuyên bố chính thức quần đảo này không thuộc về
Trung Quốc.
Xa
hơn nữa trong “Phủ biên tạp lục” nhà bác học Lê Quý Đôn có đoạn viết: “
Tôi đã từng thấy có một đạo công văn của quan chánh đường, huyện Văn Xương, Quỳnh
Châu ( đảo Hải Nam) gửi cho Thuận Hóa nói rằng: “Năm Kiền Long thứ 18 (1758-
tương đương với thời chúa Nguyễn Phúc Chu ở Đàng Trong) có 10 tên quân nhân xã
An Vĩnh đội Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, ngày 7 đến
Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ , có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ
thuyền, bị gió giật đứt dây, thuyền dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đây xét thực
đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thúc Lương hầu
làm thư trả lời.”
Việt
Nam có vô vàn tài liệu ghi chép rất cụ thể ngày tháng năm Chúa Nguyễn, sau này
là các vua triều Nguyễn sai lập Hải đội Hoàng Sa trong đó có nhiều việc như đo
đạc các đảo, đo đạc thủy triều, hướng gió , lập miếu thờ thần, trồng cây dựng
bia chủ quyền, khai thác các hải sản quý như hải sâm, đồi mồi … Thu gom các
hàng hóa và vật dụng do các tầu thuyền nước ngoài gặp nạn dạt vào đảo . Quý hơn
nữa là các châu bản ví như các chiếu, cáo, dụ, sắc có chữ ký và con dấu của nhà
vua sai phái công việc ở Hoàng Sa, hoặc các biểu tấu của mấy tỉnh ven biển miền
Trung tâu báo về công việc có liên quan đến Hoàng Sa được nhà vua phê duyệt và
ký. Cũng có nhiều sắc khen đến Hải đội Hoàng Sa hoặc các cá nhân mẫn cán có
công trong Hải đội Hoàng Sa này được vua ban tặng. Những bản đó gọi là châu bản,
hiện còn lưu trữ khá nhiều,và các giấy tờ được vua ban khen, các gia đình gìn
giữ như bảo vật truyền gia cũng không phải là hiếm.
Ngoài
ra còn các tài liệu do người Pháp đo đạc, khảo sát trên hai quần đảo này từ năm
1933, kể cả nhật ký của những người Pháp người Việt làm việc trên đảo này từ
trước đến ngày 20 tháng 1 năm 1974, là ngày quân xâm lược Trung Quốc dùng lực
lượng hải quân áp đảo cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ tay quân lực Việt
Nam cộng hòa.
Phần
nữa là các ghi chép, kể cả bản đồ do người ngoại quốc viết và vẽ về quần đảo
Hoàng Sa. Chỉ tiếc trong tay ta có cả đống tư liệu vô cùng phong phú, mà không
hiểu do cản trở gì lại không được phổ cập trong các trường học và cho người dân
Việt Nam đều được biết trọn vẹn về hình hài Tổ quốc mình . Hơn nữa còn làm tài
liệu cho nhân dân thế giới biết được thực hư, phải trái. Nếu không cứ để cho
người Trung Quốc nói bừa, nói bậy rồi tới lúc lộng giả thành chân, ta có hối
cũng không kịp.
Tài
liệu lịch sử thì nhiều, không thể trích hết ra đây được, tôi chỉ xin giới thiệu
2 bản sách phổ cập nhất là “Phủ biên tạp lục” quyển 1 của học giả Lê Quý Đôn có
nói kỹ về phủ Quảng Ngãi và đảo Cát Vàng ( Hoàng Sa).
Thứ
nữa là sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn, Viện sử
học dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản gồm 5 tập. Trong đó tập 2, quyển
8 là phần Tỉnh Quảng Ngãi, mục “Núi sông” có nói về “ Đảo Hoàng Sa” cuối sách
phần phụ lục, lại nói riêng về “quần đảo Hoàng Sa”.
Lại
nữa, các sách Đại Nam thực lục; Lịch triều hiến chương loại chí; Việt Nam hội lệ
sự điển; Việt sử thông giám cương mục… Đều có nói khá kỹ về quần đảo Hoàng Sa.
Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn có đoạn ghi như sau: Phủ Quảng Ngãi huyện
Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía đông bắc có nhiều cù lao,
các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển từ hòn này sang hòn kia hoặc
đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ suối nước ngọt. Trong đảo có
bãi cát vàng dài ước hơn 30 dặm bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo
có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn hàng vạn, thấy người thì đậu vòng
quanh không chạy. Bên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân có ốc tai voi to như chiếc
chiếu, có ốc xà cừ để khảm đồ dùng, đồi mồi thì rất lớn…
Các
thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt Hải đội
Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã Yên Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2
nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ ra
biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim , bắt cá mà ăn. Lấy được
hóa vật của tàu ( các tàu buôn bị đắm) như là gươm, hoa bạc,tiền bạc, hòn bạc,
đồ uống, khối thiếc, khối chì, sừng, ngà voi…..đến kỳ tháng 8 thì về, vào Cửa
Eo, đến thành Phú Xuân để nộp (Phủ biên tạp lục tập 1, trang 119-120 nhà xuất
bản Khoa học xã hội 1977).
Và
sách Đại Nam nhất thống chí tập 2 trang 369-370 ghi: Đảo
Hoàng Sa ở phía đông cù lao Ré huyện Bình Sơn từ bờ biển Sa Kì đi thuyền ra thuận
gió thì độ 3 – 4 ngày đêm có thể đến nơi . Có đến hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc
một ngày đường, hoặc mấy trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo
dài không biết hàng mấy ngàn dặm, bằng phẳng rộng rãi tục gọi “ Vạn Lý Trường
Sa”…..
Hồi
đầu bản triều đặt đội Hoàng Sa có 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng
năm cứ tháng 3 là ra biển tìm kiếm hải vật, đến tháng 8 thì do cửa biển Tư Hiền
về nộp; lại đặt đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản, để đi lấy hải vật ở các đảo
phía đông đảo Hoàng Sa gần phủ Quỳnh Châu đảo Hải Nam nước Thanh ( tức Trung Quốc
). Đầu đời Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ.
…Năm
Minh Mệnh thứ 16 (1836) sai thuyền công, chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia
đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và phía sau.
Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân.
Qua
đây, ta biết từ thời các Chúa Nguyễn đến các triều đại nhà Nguyễn việc
quản lý Hoàng Sa đều do Nhà nước chỉ huy, trong đó có việc đo đạc, vẽ bản đồ, lập
miếu, dựng bia, gieo hạt, trồng cây và khai thác sản vật.
Tất
cả những yếu tố trên là đầy đủ các điều kiện chiếm hữu và thực thi chủ quyền
liên tục mà Ủy ban pháp luật của Liên Hiệp Quốc soạn thảo trong Công ước về Luật
biển UNCLOS 1982. Phía Trung Quốc nằm mơ cũng không có được một dòng chứng tích
để làm chứng lý cho việc xác lập chủ quyền chiếm hữu.Vì thế họ cứ nói đại TQ đã
hành xử chủ quyền trên biển Nam Trung Hoa từ đời Hán , đời Đường. Thấy không
thuyết phục được ai, lại nói “chủ quyền lịch sử”… Chung quy là lí luận của quân
xâm lược mà ngay những người TQ chân chính cũng phản đối.
Trở
lại vấn đề Trung Quốc chiếm hữu một phần Hoàng Sa một cách bất hợp pháp từ năm
1956. Trên thực tế năm 1956 Chính phủ Việt Nam cộng hòa đang quản lý
cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho tới tháng 1 năm 1974,
Trung Quốc huy động một lực lượng lớn hải quân cưỡng chiếm phần còn lại của quần
đảo Hoàng Sa từ tay quân lực của Việt Nam cộng hòa. Và tới
tháng 3 năm 1988, lại vẫn với thủ đoạn dùng lực lượng áp đảo bất ngờ một cách hết
sức dã man và tàn bạo, Trung Quốc lại chiếm đảo đá Gạc Ma từ tay Quân đội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau đó quân xâm lược chiếm thêm các đảo Đá
chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ren, Đá Tư Nghĩa, Đá Subi…Cho tới lúc cướp được mấy
đảo này,TQ mới thực biết đến Trường Sa.
Sự
có mặt của Trung Quốc trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thực
chất là một cuộc xâm chiếm đất đai đúng nghĩa. Đúng nghĩa nhất là quân xâm lược
Trung Quốc đã cưỡng chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa. Và đất đai cướp đoạt
không thể thực thi chủ quyền, bởi không có luật lệ nào cho phép .
Trung
Quốc chỉ được sở hữu hợp pháp 13% diện tích Biển Đông, nay tuyên bố chủ quyền tới
90% Biển Đông, tức hơn 3 triệu cây số vuông, khiến các nước cùng chung Biển
Đông phản ứng quyết liệt. Không chỉ Việt Nam mà cả Philippines, Malaysia và
Brunei cũng khẳng định chủ quyền theo Công ước UNCLOS về Luật biển của Liên Hiệp
Quốc.
Một
trong những khẳng định chủ quyền mạnh mẽ của Việt Nam là ngày 21 tháng 6 năm 2012
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật biển, trong
đó khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, đó là việc quá bình thường
đối với một quốc gia có chủ quyền. Trung Quốc cũng công bố Luật biển của nước họ
từ năm 1992. Ngay điều 1 của Luật biển Việt Nam đã khuyến cáo trong quá trình
thi hành có điều gì không phù hợp với Công ước Luật biển UNCLOS của Liên Hiệp
Quốc sẽ lập tức tu chỉnh. Việc làm này tỏ rõ thiện chí của Việt Nam là hòa hợp,
là tôn trọng luât lệ quốc tế và thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên điều đó khiến Trung Quốc không hài lòng.
Quốc
hội Trung Quốc ngay lập tức đòi Việt Nam phải hủy bỏ hoặc sửa chữa Luật biển của
nước mình. Bộ ngoại giao Trung Quốc triệu đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh đến phản đối
về Luật biển Việt Nam. Đó là sự can thiệp trắng trợn đến chủ quyền của nước
khác.
Thực
hiện kế hoạch thôn tính Biển Đông, Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố Tam
Sa, và xây trụ sở hành chính một cách bất hợp pháp trên đảo Phú Lâm thuộc quần
đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Nay lại dựa trên quyết định sai trái đó để lấy nó
làm căn cứ gọi là khu phòng thủ Tam Sa. Thật là một bước leo thang nguy hiểm.
Hơn thế nữa, Trung Quốc cho Tam Sa là tiền tuyến của Bắc Kinh trong trận chiến
Nam Hải, và triển khai quân đồn trú cấp phân khu và trực thuộc hạm đội Nam Hải.
Hiện họ đang khởi động đưa một đoàn tầu cá khổng lồ với 23 nghìn tầu tới các
vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đánh bắt. Lại kêu gọi vũ trang cho
100.000 ngư phủ trở thành đội quân mạnh nhất, hơn bất kỳ lực lượng vũ trang của
bất cứ nước nào đang tranh chấp biển đảo với họ. Với các hành động mang tính cơ
bắp, rõ ràng Trung Quốc đang chuẩn bị chiến tranh ăn cướp.
Trong
khi đó nhà cầm quyền Trung Quốc luôn tuyên bố rằng họ phản đối dùng vũ lực, và
củng cố tình hữu nghị, củng cố lòng tin trên cơ sở 16 chữ vàng và 4
tốt. Sự thực đây chỉ là chiêu bài lừa mị nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới,
kỳ thực họ đang chuẩn bị cho một âm mưu cực kỳ thâm độc và nguy hiểm để chiếm
trọn Biển Đông với bất cứ giá nào.
Song
song với hành động hung hăng và hiếu chiến này, các trang mạng và báo chí Trung
Quốc đang kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đổ lỗi cho các nước, đặc biệt là
Việt Nam và Philippines suốt từ năm 2009 tới nay, báo chí Trung Quốc không ngớt
lời công kích Việt Nam với lời lẽ ngày càng hiếu chiến , và dường như nó không
còn nằm trong hệ ngôn ngữ ngoại giao của bất kỳ quốc gia nào có một chút văn
minh nữa. Ví như tờ “Hoàn cầu thời báo” thuộc tờ Nhân dân nhật báo của Đảng Cộng
sản Trung Quốc từng viết bài đe dọa Việt Nam rồi hô hào: “ Sát Việt khấu
vi Nam Sa chi chiến tế kỳ” ( giết giặc Việt để làm lễ tế cờ trong trận chiến
Nam Sa ). Sau đó bài này được đưa lên trang mạng Trung Quốc.
Khơi
gợi lại hận thù xưa, công khai thú nhận tội ác của nhà cầm quyền Trung Quốc
trong chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 -2-1979, mạng quân sự milchina.com
tháng 1 năm 2011 đã đăng thư của một cựu chiến binh còn sống sót
trong cuộc xâm lăng đó. Tôi chỉ trích một đoạn ngắn.
“Mục
đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá hủy hoại quốc lực của Việt
Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ nên sau 2 ngày đánh nhau bộ đội của
ta chấp hành mệnh lệnh bán chính thức là không bắt tù binh không để lại cho Việt Nam
một lá cây ngọn cỏ …” . Tự thân lời thú tội này đã nói lên tất cả dã
tâm của chính quyền Bắc Kinh.
Trung
Quốc thường tuyên bố “ Trỗi dậy trong hòa bình” và là một quốc gia
có trách nhiệm, nhưng lời lẽ thì hiếu chiến mà hành động thì thuần gây hấn với
các nước láng giềng. Cái đám tầu cá hung hăng kia liệu có đúng là dân ngư phủ
hay là bọn thám báo, biệt kích đã được huấn luyện kĩ càng. Chúng hết gây sự với
Việt Nam lại đến Nhật Bản, Hàn Quốc… Ngay tàu thăm dò Impecable của Mỹ cũng bị
cái đám tàu cá này quấy nhiễu.Tổng hợp các hành động ngạo mạn cho thấy một
Trung Quốc đang trỗi dậy thật sự. Nhưng là sự trỗi dậy theo cách học đòi làm
sen đầm quốc tế. Và với thái độ ngông ngạo muốn làm bá chủ thế giới thật sự. Mới
đây đọc trên mạng thấy đăng bài phát biểu của tướng Trì Hạo Điền, nguyên Bộ trưởng
Bộ quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Bài này có tựa đề “ Sử
dụng vũ khí sinh học quét sạch nước Mỹ, bá chủ thế giới”.
“
… Chỉ có thể sử dụng loại vũ khí không hủy diệt nhưng có khả năng giết nhiều
người chúng ta mới có thể giành lấy nước Mỹ cho chúng ta.
….Chúng
ta có khả năng đạt được mục tiêu quét sạch nước Mỹ một cách hoàn toàn bất ngờ,
khi đồng chí Đặng Tiểu B́nh c̣òn sống, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã sáng suốt
đưa ra quyết định đúng đắn, là không phát triển các nhóm tàu sân bay và thay
vào đó tập trung vào phát triển các loại vũ khí có thể thủ tiêu hàng loạt dân
chúng của nước thù địch.
Xét
về mặt nhân đạo, chúng ta cần phải cảnh báo cho dân chúng Mỹ và thuyết phục họ
phải rời khỏi nước Mỹ và để lại vùng đất họ từng sinh sống trên đó cho người
Trung Quốc. Hoặc ít nhất họ phải rời khỏi một nửa nước Mỹ để nhường phần đất đó
cho người Trung Quốc. Bởi phát hiện ra nước Mỹ đầu tiên là người Trung Quốc.” (
Nguồn báo Đất Việt 7-7-2012, Nguyễn Hữu Quý).
Thảo
nào với Hoàng Sa, Trường Sa của ta, họ bảo họ đã nhìn thấy trước và đã lưu vào
sử sách từ đời Hán, đời Đường.
Qủa
nhiên đây không còn là tham vọng nữa mà là cuồng vọng.Trung Quốc sẽ phải gánh
chịu hậu quả cay đắng.
Nước
Trung Hoa có truyền thống văn hiến lâu đời, từng sản sinh ra các học thuyết triết
học vĩ đại, cống hiến đáng kể vào kho tàng tri thức và nền văn minh nhân loại .
Cùng với hơn 1 tỷ dân, trong đó biết bao các học giả, biết bao nhà trí thức đạt
tầm cao nhân loại, không dễ gì bị các nhà dân tộc chủ nghĩa mù quáng và hiếu
chiến lừa dối được. Vì vậy giới học giả Trung Hoa đã cất lên tiếng nói nhân văn
một cách dũng cảm, công bằng và khoa học.
Học
giả Chu Hạo , chuyên viên của Viện Quan hệ quốc tế Bắc Kinh viết trên tờ China
Daily vào ngày 6-7-2012: “Điểm nóng tranh chấp trên Biển Đông đã làm xấu đi
hình ảnh của Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt từ 2010 tới nay… Nếu
tiếp tục chính sách ngoại giao pháo hạm, sự phát triển của Trung Quốc sẽ bị cho
là mối đe dọa với nhiều nước khác, không tỉnh táo thì Biển Đông sẽ là cái bẫy
giam hãm Trung Quốc”.
Giáo
sư Sun zhe lưu ý Trung Quốc rằng: “ Nam Hải ( Biển Đông ) không phải là
“ao nhà” (internal lake) của Trung Quốc. Bởi phần nhiều vùng biển
này thuộc về vùng biển Quốc Tế …. Với đường lưỡi bò này,Trung Quốc có nguy cơ bị
cộng đồng quốc tế hiểu rằng Bắc Kinh đang cố gắng kiểm soát Biển Đông như một “
ao nhà” của chính mình… “
Trong
cuộc Hội thảo của Học viện khoa học xã hội Trung Quốc (CASS) giáo sư Thịnh Hồng
thuộc Đại học Sơn Đông nói: “Chúng ta không nên chỉ nghĩ đến lợi ích cho
mình mà cần phải quan tâm đến lợi ích của toàn thế giới bằng cách tuân thủ theo
các quy tắc quốc tế”.
Học
giả Zhang Yuling thuộc CASS nói: “ Trung Quốc không nên bám víu vào tư
duy truyền thống của mình. Việc thảo luận về các biện pháp cụ thể phân định
vùng đặc quyền kinh tế trong vùng biển này phải phù hợp với UNCLOS, trong đó
Asean sẽ đóng một vai trò phù hợp, đường lưỡi bò diễn giải mơ hồ về quyền tài
phán, không đề cập đến các yếu tố địa lý của đường bờ biển hay đường cơ sở là
hoàn toàn không thuyết phục”.
Nhà
nghiên cứu Lý Lệnh Hoa thuộc trung tâm tin tức Hải Dương của Trung Quốc cho rằng: “
Chúng ta- Trung Quốc vẽ đường chín đoạn mà không có một kinh độ hoặc vĩ độ cụ
thể, và cũng không có căn cứ pháp luật. Đường chín đoạn chiếm giữ gần 80% Biển
Đông là do Trung Quốc tự vẽ ra năm 1974”.
Giáo
sư Dương Thụ Quang, Đại học Tứ Xuyên thì nhấn mạnh: “`Trung Quốc không thể tự
vẽ ra đường 9 đoạn. Khi TQ khăng khăng đưa ra “Đường lưỡi bò”, nhưng không có
căn cứ để khẳng định và không được bất kỳ nước nào thừa nhận thì nó vô giá trị.
Quyền lợi của anh (TQ) cần được người khác thừa nhận, ngừoi khác không thừa nhận
thì anh không có quyền đó”.
Thạc
sĩ báo chí truyền thông Chu Phương, biên tập viên công tác tại Ban biên tập đối
ngoại của Tân Hoa xã có bài báo với tựa đề “ Hiện trạng Nam Hải ( Biển Đông) có
lẽ sẽ kéo lùi cải cách chính trị của Trung Quốc” đăng ngày 17-7-2012. Mở đầu
Chu Phương viết: “ Nhiều người dân nước ta đến bây giờ vẫn chưa hiểu tại
sao Nga lần đầu tiên lại tham gia diễn tập quân sự lớn tại Thái Bình Dương do Mỹ
chỉ đạo. Kỳ thực đó là sự phản ứng mạnh mẽ quốc tế trước hành động thiết lập
“Thành phố Tam Sa” đi ngược lại luật quốc tế và vô trách nhiệm của Trung Quốc.
…Việc
thiết lập “Thành phố Tam Sa” là một trò cười quốc tế điển hình. Chính phủ Trung
Quốc cần nhận rõ sai lầm to lớn của mình. Sớm có hành động sửa chữa sai sót.
…
Hành động nguy hiểm vô trách nhiệm của một số người trong việc thiết lập “Thành
phố Tam Sa” đang đẩy nhân dân Trung Quốc vào miệng hố chiến tranh. Nhân dân
Trung Quốc cần hòa bình không cần chiến tranh. Trong việc xử lý vấn đề quốc tế
và xử lý vấn đề quan hệ với các nước, Trung Quốc cần phải tỉnh táo, không được
cuồng nhiệt. Trung Quốc cần làm một dân tộc có trách nhiệm, đứng thẳng giữa khu
rừng các dân tộc thế giới, quyết không thể làm một “ cô nhi thế giới” hành động
ngang bướng.
Trong việc giải quyết công việc quốc tế, Trung Quốc cần phải học cách tuân thủ quy tắc trò chơi đã được cả thế giới công nhận, tránh một mình một kiểu, mình khen mình hay, đừng để trở thành Triều Tiên thứ hai….
Bản thân tôi mạnh mẽ kêu gọi hãy lập tức hủy bỏ “ Thành phố Tam Sa”, triển khai sớm nhất có thể được việc đối thoại mang tính xây dựng,với các nước xung quanh Nam Hải,loại bỏ nguy cơ chiến tranh, đưa Trung Quốc trở lại đại gia đình quốc tế…”.
Trên
đây là hai lối hành xử của người Trung Quốc . Một bên là áp đặt, ngông cuồng hiếu
chiến, tham lam, bất chấp đạo lý và pháp lý, còn một bên là tiếng nói của lương
tri, tôn trọng đạo lý và luật pháp quốc tế, hòa bình , thân hữu.
Thế
giới có lý do để quan ngại
Các
quốc gia trên thế giới đều thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề này, bất
bình với những hành động khiêu khích và xâm lấn trắng trợn của Trung Quốc. Sau
đây là một vài ý kiến của một số nhân vật Hoa kỳ, quốc gia thân hữu với Trung
Quốc, ân nhân giúp Trung Quốc thoát khỏi vòng vây của Liên Xô và tạo tiền đề
cho Trung Quốc hội nhập với thế giới và trở thành nước cường thịnh. Trước hàng
loạt những hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ,
ông John Mc Cain cho là: “Trung Quốc khiêu khích”.
Còn
nghị sĩ Jim Webb của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ cho rằng: “Các hành
động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông nhằm đơn phương khảng định
quyền kiểm soát Biển Đông là phạm luật quốc tế”.
Ngoại
trưởng Hoa Kỳ, bà Hilary Clinton nói; “ Trung Quốc cần hành xử như một
cường quốc có trách nhiệm”.
Ngài
Hishore Mabubanie, giáo sư hiệu trưởng trường Chính sách công Lý Quang Diệu
Singapore thì phê phán: “ Trung Quốc bắt đầu có những sai lầm nghiêm trọng.
Việc Trung Quốc năm 2009 gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc để đưa ra
yêu sách đường 9 đoạn là hành động không khôn ngoan, v́ Bắc Kinh sẽ gặp khó
khăn trong việc biện hộ cho yêu sách của mình theo luật quốc tế…Đường 9 đoạn có
thể sẽ chỉ là cái cùm lớn đeo vào cổ Trung Quốc”.
Dẫu
sao tôi vẫn muốn trích lại bài của ông luật sư người Mỹ.Ông Ted Laguatan là một
trong 29 luật sư nổi tiếng nhất trong suốt 20 năm qua của Đoàn luật
sư bang California đã lên tiếng về sự ngông ngạo của Trung Quốc đối với Biển
Ðông.
Tựa
đề bài viết của ông Ted: “Tại sao Trung Quốc không đưa vấn đề Trường
Sa ra Liên Hiệp Quốc?
“…..
Nhà Hán của Trung Quốc mới có từ 206 trước công nguyên.
Còn
Alexandre đại đế chết năm 323 trước công nguyên. Vương quốc của ông bao gồm cả
Hy Lạp, Syrie, Ba Tư, Ai Cập, và một phần Ấn Độ.
Đế
quốc La Mã tồn tại hơn 1000 năm thâu tóm cả Châu Âu và một phần Châu Á, Châu
Phi.
Vậy
ngày nay 2 nước Macedoine và La Mã có thể đòi lại các phần đất cũ mà đế quốc
Macedoine và La Mã chiếm đóng từ mấy ngàn năm trước không?
Nếu
lý luận như Trung Quốc ngày nay, thì người Mông Cổ có thể đòi cả nước Nga và nước
Trung Hoa cùng nhiều nước khác mà Thành Cát Tư Hãn đã thống trị từ thế kỷ 13,
14 không?”
Thói
ngạo mạn của Trung Quốc lấy cơ bắp làm ngôn ngữ ngoại giao ,và áp đặt chính
sách đối ngoại của mình buộc đối phương phải tuân thủ , tựa như đường lối của bọn
phát xít Hít- le ( Adolf Hitler 1889- 1945 ) hồi Đại chiến thế giới
thứ 2. Thế nhưng Trung Quốc luôn rêu rao là “ trỗi dậy trong hòa bình” và “muốn
làm bạn với các nước”.
Lâu
nay Trung Quốc đã thể hiện rất kiên trì đường lối đối ngoại là cái gì họ làm với
thế giới , luôn luôn ngược lại với cái mà họ hùng hồn tuyên bố.
Hãy cảnh giác với Trung Quốc!
Nhưng
phải cảnh giác với Trung Quốc như thế nào?
Trọng
trách thuộc về Đảng và Nhà nước, tức bộ máy cầm quyền phải có trách nhiệm đối với vận
mệnh quốc gia. Tuy nhiên quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Vả lại nước là
của dân. Dân có quyền bàn và được bàn. Nhưng quyết về phương lược, đối sách lại
thuộc về nhà cầm quyền. Ta phải làm gì với người hàng xóm mưu mô hiểm độc này
ư? Ta là nước nhỏ họ là nước lớn, cho nên từ mấy ngàn năm nay , là hàng xóm hữu
hảo hay cừu thù, đều do họ quyết định chứ đâu phải do ta. Xưa thế,
nay vẫn thế. Nhưng nếu khôn ngoan và biết tự trọng, tự cường, thì không cho
phép họ biến mình thành con rối trong tay họ. Nếu ta biết tự trọng thì buộc đối
phương phải tôn trọng ta. Lịch sử đã dạy chúng ta rằng, chỉ có đoàn kết toàn
dân với tinh thần Diên Hồng mới có thể hóa giải được.
Phía
ta gìn giữ từng li từng tí , cốt sao cho bạn tin tưởng. Thế nhưng ta càng nhẫn
nhịn, bạn càng lớn tiếng vu cáo ta, la mắng thậm chí chửi bới ta.Ta càng nhún
nhường,bạn càng lấn tới. Nay “bạn”đã sấn sổ vào tận cửa nhà ta, túm lấy ngực áo
ta, dí dao nhọn vào tận cổ ta rồi. Vậy ta vẫn kêu họ là “ bạn” hay
phải gọi nó là “ quân ăn cướp giết người” hay là “ quân xâm lược” mới đúng đây?
Cách
hành xử của Tổng thống Philippines Benigno Aquino nói trước toàn dân ngày
23-7-2012 do hãng Reuters đưa lại, tưởng cũng nên tham khảo: “ Trong
vai trò lãnh đạo tôi có bổn phận bảo vệ luật pháp của đất nước chúng
ta và trong khi tôi làm bổn phận này, căng thẳng đã diễn ra, một mặt
là phía Trung Quốc đưa ra lý thuyết đường đứt đoạn 9
khúc để tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ biển Tây cua Philippines.
Chúng ta đã tỏ ra nhẫn nhịn tới mức tối đa trong khi đối phó với vấn đề này. Chúng ta đã chọn con đường không lời qua tiếng lại với những tuyên truyền khiêu khích của báo chí Trung Quốc.
Chúng ta đã tỏ ra nhẫn nhịn tới mức tối đa trong khi đối phó với vấn đề này. Chúng ta đã chọn con đường không lời qua tiếng lại với những tuyên truyền khiêu khích của báo chí Trung Quốc.
Tôi
không cho là một điều quá đáng khi chúng ta yêu cầu nước khác tôn trọng chủ quyền
của chúng ta, như chúng ta tôn trọng chủ quyền của một nước khác trong thế giới
mà chúng ta cần phải sống chung. Có những kẻ khuyên chúng ta nên bỏ qua vụ việc
Bajo Masinloc ( quốc tế gọi là bãi cạn Scarborough ) chúng ta nên tránh phiền
phức.
Nhưng
nếu có một người nào đó vào ngôi vườn của bạn và nói với bạn rằng hắn làm chủ
ngôi vườn này. Bạn có chịu không? Liệu có đúng không khi chúng ta giao cho kẻ
khác những gì chính đáng thuộc về chúng ta. Và vì thế tôi kêu gọi đồng bào phải
đoàn kết về vấn đề này. Chúng ta phải nhất trí nói cùng một tiếng nói:
Xin
đồng bào giúp tôi chuyển đến phía bên kia (T Q) những lý lẽ trong lập trường của
chúng ta.”
Vậy
là các nhà lãnh đạo và nhân dân Philippines đã có một tiếng nói chung-Tiếng nói
bảo vệ Tổ quốc.
Ngài
tổng thống Aquino kết thúc bài nói chuyện bằng câu: “ Xin đồng bào
giúp tôi chuyển đến phía bên kia ( TQ ) những lý lẽ trong lập trường của chúng
ta”, có nghĩa là ông kêu gọi các phương tiện truyền thông góp sức cùng nhà nước
đấu tranh trên cơ sở của lẽ phải.
Về
phía ta điều nên làm khẩn cấp trong lúc này là phải công khai các tư liệu về chủ
quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho toàn dân được biết. Phải xác định
rõ tọa độ 2 quần đảo này theo kinh độ, vĩ độ. Phải trình
bày rõ ràng việc chiếm hữu khai thác thực thi chủ quyền liên tục từ mấy thế kỷ
nay. Phải in các bản đồ của ta và của Trung Quốc cổ kèm theo. Phải dịch ra các
thứ tiếng, và Tùy viên văn hóa của sứ quán ta ở các nước có quan hệ ngoại giao
với ta, phải có nghĩa vụ giới thiệu và làm rõ vấn đề với các nước bạn, để bạn
hiểu đâu là chân lý. Phải phổ cập kiến thức này qua hệ thống truyền thông của
Nhà nước. Phải phổ cập chương trình này trong các cấp học của Bộ Giáo dục.
Trong các đơn vị của Bộ quốc phòng, mỗi người lính phải hiểu tường tận lãnh thổ,
lãnh hải của cả nước. Nếu không biết rõ hình hài của đất nước thì biết ta sở hữu
đến đâu mà bảo vệ. Nên in thành tài liệu rút gọn về Trường Sa, Hoàng Sa có kèm
bản đồ phát không cho khách du lịch nước ngoài, và phát tài liệu này cho toàn
dân. Cũng nên mở các cuộc thi tìm hiểu về địa lý, lịch sử của Trường Sa, Hoàng
Sa, Bạch Long Vỹ, Lý Sơn, Cô Tô, Cồn Cỏ, Phú Quý, Phú Quốc…
Trong
điều kiện có thể nên in cả Luật biển Việt Nam và Công ước Luật biển UNCLOS của
Liên Hiệp Quốc để phổ cập cho mọi tầng lớp nhân dân được biết. Đó chính là cơ sở
pháp lý để ta đấu tranh với họ.
Trường
Sa và Hoàng Sa cách bờ biển Việt Nam từ 300 đến 400km, cách Trung Quốc từ
600 đến 900 km mà Trung Quốc lại đòi nhận là của Trung Quốc. Nó hoàn toàn trái
với Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc cũng là một bên ký kết.
Đường lưỡi bò mà Trung Quốc tự vẽ ra và đe dọa các nước phải công nhận. Nếu các
nước có liên quan và cả thế giới chấp nhận cho Trung Quốc áp dụng luật rừng thì
ước tính họ chiếm của Việt Nam 1.170.000 km2 thềm lục địa; Philippines mất khoảng
620.000 km2; Malaysia 170.000 km2; Brunei 50.000 km2; Indonesia
50.000 km2. Và như thế Trung Quốc sẽ là bá chủ Biển Đông, tức là làm chủ cả
phía Tây Thái Bình Dương, thế giới sẽ khốn đốn với họ.
Nên
nhớ biển thuộc chủ quyền của ta có diện tích lớn gấp gần 4 lần diện tích đất liền-biển
chính là không gian sinh tồn và là tưong lai của cả dân tộc. Để mất không gian
biển cũng chính là mất nước, mất cả sự sống của toàn dân tộc.
Tuy
nhiên nhân loại của thế kỷ 21 đã tỉnh thức, dù nhà cầm quyền Trung Quốc có tham
vọng biến mình thành Hít-le thì thế giới cũng không cho phép, nhân dân Trung Quốc
không cho phép.
Thiết
nghĩ trên đây là những việc cần làm cấp bách, còn những việc phải làm cũng
không kém phần cấp bách nữa, là chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống xấu nhất.
Trong đó về nhân lực, về khí tài không thể coi nhẹ. Và việc phán đoán cơ mưu quỷ
quyệt của đối phương phải hết sức chính xác, sai một ly đi cả vạn dặm. Về tham
mưu nhân dân, chúng tôi xin bên An ninh, Quốc phòng lưu ý cái đám cả vạn tầu cá
trá hình của Trung Quốc. Có thể sự rắc rối khó lường lại nảy sinh từ đám tàu cá
chứ không phải lũ tàu ngầm và khu trục hạm.
Hãy
dũng cảm tự tin và liên kết bạn bè lại để hưng thế nước. Dân tộc ta đã từng vùi
chôn cái mộng bá chủ thiên hạ của Hốt – Tất – Liệt có sức mạnh kinh thiên động
địa hồi thế kỷ 13, chẳng nhẽ đó không phải là nguồn động lực, không phải là một
thứ khí tài thần thánh cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc sao?
Sức
mạnh là ở lòng dân!
Hà
Nội ngày 12 tháng 8 năm 2012
Hoàng
Quốc Hải
Được
đăng bởi Xuân Nguyên vào lúc 13:51
No comments:
Post a Comment