Nguyên
Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2015-09-30
2015-09-30
Với viễn ảnh gia nhập Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương
TPP trong vài năm tới, Việt Nam hy vọng buôn bán tự do với một khu vực rộng lớn
của 12 quốc gia có sản lượng bằng 40% của toàn cầu. Khi ấy, quy chế về thương
hiệu được đặt ra. Đó là điều kiện ưu đãi chỉ áp dụng cho các hàng hóa hay dịch
vụ chế tạo tại một quốc gia thành viên của khu vực TPP. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm
hiểu về vấn đề xuất xứ chế tạo qua cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân
Nghĩa.
.
Nguyên
Lam: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, kinh
tế Việt Nam có cơ hội phát triển mới xuất phát từ hai chuyển động quốc tế. Một
là Trung Quốc ở vào giai đoạn chuyển hướng với đà tăng trưởng thấp hơn và hết
chiếm lĩnh ưu thế chế biến hàng tiêu dùng nhờ nhân công rẻ. Hai là Việt Nam sẽ
cùng 11 nước khác gia nhập khu vực tự do thương mại Xuyên Thái Bình Dương, gọi
tắt là TPP. Trước viễn ảnh đó, Việt Nam hy vọng thu hút đầu tư của nước ngoài để
thành một công xưởng ráp chế hàng hóa phần nào thay thế thị trường Trung Quốc
và bán cho các nước trong khối TPP dưới nhãn hiệu là “Hàng Việt Nam”. Nhưng mà
nhìn từ giác độ của các thành viên TPP thì thế nào là “Hàng Việt Nam”? Vì câu hỏi
này đang gây tranh luận ở trong nước, xin hỏi là ông người ta nên nghĩ sao về một
giải đáp thỏa đáng?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Tôi trộm nghĩ rằng người ta sở dĩ tranh luận
chỉ vì lầm lẫn về ngôn từ. Tôi xin được đi ngược lên khái niệm sản xuất để
chúng ta cùng hiểu ra điều ấy.
- Khi thấy thị trường có một nhu cầu chưa được thỏa
mãn mà mình muốn đáp ứng để kiếm lời thì trước hết phải có sáng kiến sản xuất
ra loại hàng hóa giải quyết nhu cầu đó của thị trường. Yếu tố then chốt ở đây
là “sáng kiến”, kế tiếp mới là bố trí sản xuất để từ đó có một sản phẩm hoàn tất.
Việt Nam mà có sáng kiến và khả năng tổ chức để sản xuất thì sẽ có “Sản phẩm của
Việt Nam” hoặc nói theo Anh ngữ là “Product of Vietnam”. Chỉ
trong trường hợp đó ta mới gọi “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng Việt Nam”.
- Yếu tố quyết định là sáng kiến và khả năng tổ chức
để tìm ra kỹ thuật, thiết bị và nguyên vật liệu hầu sản xuất ra một mặt hàng
trước đấy chưa có. Việt Nam chưa đi tới trình độ ấy, về cả sáng kiến lẫn tổ chức
sản xuất, nên chưa thể có “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng Việt Nam”. Đấy là
chuyện có thể hiểu được, nhưng bị lãng quên vì cái bệnh tự ru ngủ và hài lòng với
sự tầm thường.
- Vì chưa có khả năng, Việt Nam phải ăn theo thị trường.
Hình thái nhỏ là khi thấy thiết bị đi động của nước ngoài ăn khách thì ta sản
xuất các nhóm phụ kiện, như cho smart phone hay tablet của Mỹ
và Đại Hàn, với giá rẻ mà phẩm chất và độ bền thì còn thua hàng phụ kiện của
hãng chính hay của Trung Quốc. Khi mới bước vào loại hàng có kỹ thuật cao thì
chỉ làm được như vậy mà thôi.
- Lên một trình độ khác thì xem xứ khác đang kiếm tiền
bằng cách nào ta cố bắt chước, là khai thác sáng kiến của người khác để tham
gia vào tiến trình sản xuất. Đa số các quốc gia đang phát triển đều ở vào trường
hợp đó là khai thác sáng kiến của các nước tiên tiến để góp phần thỏa mãn một
nhu cầu của thị trường. Yếu tố then chốt ở đây là “góp phần”.
.
Nguyên
Lam: Khi ông nói “góp phần” thì người ta phải tìm
hiểu xem là đóng góp chừng nào và cái phần nào trong sản phẩm là của mình và phần
nào là của người khác, của nước khác. Thưa ông có phải là như vậy không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy và khi ấy ta cần nhìn
qua lĩnh vực kế toán.
- Về mặt thương mại, ta biết giới tiêu thụ thường ưa
mặt hàng xuất phát từ các quốc gia nổi tiếng. Thí dụ như trang phục xa xỉ đắt
tiền mà có nhãn hiệu là “Hàng Pháp” hay “Sản phẩm của Pháp” hoặc “Chế tạo tại
Pháp” thì được chiếu cố hơn hàng của Thái Lan chẳng hạn, nên có thể bán cao giá
hơn. Thí dụ kia là hàng công nghệ cao của Mỹ, Nhật, Hàn. Khi ấy, vấn đề của quốc
gia xuất xứ được đặt ra. Đó là quy chế về “quan thuế” mà Việt Nam cứ gọi sai là
“hải quan” vì nhiều cửa quan như phi cảng Tân Sơn Nhất hay Nội Bài chẳng là hải
cảng. Theo quy chế này, chỉ được phép gọi là Hàng của Pháp, của Mỹ hay của Nhật
Bản, Đại Hàn nếu các nước đó góp phần sản xuất tới hơn 50% của giá thành khi xuất
xưởng. “Giá xuất xưởng” là một khái niệm kế toán được các nước cùng chấp nhận
và tín nhiệm dù đây đó tại Việt Nam thì vẫn có gian lận.
.
Nguyên
Lam: Nguyên Lam bắt đầu hiểu diễn tiến suy luận của
ông. Giả dụ như hãng Samsung của Đại Hàn có sáng kiến về loại điện thoại cao cấp
và tổ chức việc sản xuất sao cho có lợi nhất, với giá rẻ mà phẩm chất cao, thì
họ có thể thiết lập cơ xưởng ráp chế tại Việt Nam hay Malaysia. Với công nghệ
và thiết bị Hàn quốc, phụ tùng hay phụ kiện của Nhật Bản dưới sự quản lý của kỹ
sư Đại Hàn để điều khiển nhân công Việt Nam hoặc Mã Lai sản xuất ra điện thoại
có nhãn hiệu là “Sản phẩm Đại Hàn”. Trong suốt tiến trình này, từ nguyên vật liệu
lên hàng bán chế phẩm rồi sản phẩm hoàn tất được đóng hộp để bán ra ngoài thì
nhiều quốc gia có thể tuần tự góp phần, nhưng phần chính, hơn phân nửa của giá
xuất xưởng, là của Hàn quốc. Thưa ông, có phải là phương pháp kế toán mới lần
lượt bút ghi tiến trình tích lũy giá trị của sản phẩm hay không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Thưa vâng và khi ấy, khái niệm “góp phần”
hay “trị giá gia tăng” mới được đặt ra. Trong thế giới gọi là “toàn cầu hóa”
ngày nay, còn rất ít sản phẩm là do một xứ sản xuất nguyên vẹn 100% mà thường
là kết quả của nhiều nước cùng tham gia. Vấn đề chính là nước nào quyết định,
căn cứ trên cái gì? Nếu năng suất hoặc tay nghề của nhân công Việt Nam mà kém
nhân công Mã Lai chẳng hạn thì Samsung có thể dời hãng xưởng mà vẫn có “Sản phẩm
Đại Hàn” nhưng ráp chế tại Mã Lai thay vì ráp chế tại Việt Nam. Khi ấy ta mới cần
phân biệt các mặt hàng gọi là “Product of Vietnam”, với “Made
in Vietnam” hay “Manufactured in Vietnam”, tức là “Sản phẩm
của Việt Nam” khác với “Chế tạo hay Ráp chế hoặc Chế biến tại Việt Nam”.
- Việt Nam mới ở vào trình độ góp phần ráp chế hay
chế tạo thôi. Khi Bộ Công Thương của Hà Nội hãnh diện về Sản phẩm của Samsung dán
nhãn “Hàng Việt Nam” thì họ bị hoang tưởng hoặc nhập nhằng về quy chế thương hiệu.
Đấy chỉ là “Sản phẩm Đại Hàn” với phần đóng góp của Việt Nam chưa tới 50%. Trường
hợp tương tự chính là áo quần giày dép của Việt Nam với phần đóng góp chủ yếu
là của Trung Quốc. Loại sản phẩm đó không thể nào lọt qua ải TPP dù có dán nhãn
là “Hàng Việt Nam” vì các thành viên đều truy lên quốc gia xuất xứ không phải
là Việt Nam.
.
Nguyên Lam: Nói về viễn ảnh
gia nhập khu vực Xuyên Thái Bình Dương TPP, giới đầu tư quốc tế đã nhìn vào thị
trường Việt Nam như một cơ hội mới, thí dụ trong các ngành may mặc áo quần, để
“Hàng Việt Nam” được ưu đãi về quan thuế khi bán cho 11 nước kia. Nhưng khốn nỗi
trong cấu trúc Hàng Việt Nam ấy thì phần đóng góp của Trung Quốc lại chiếm đa số
vì Việt Nam chưa có nguyên nhiên vật liệu và nhiều phụ tùng lắt nhắt, từ cái
khóa trên áo hay sợi dây của đôi giày nên cứ phải nhập từ Trung Quốc. Thưa ông,
làm sao mình có thể giải quyết vấn đề ấy?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Tôi xin đi từ chuyện xa đến chuyện gần thì dễ
thấy toàn cảnh. Năm 1980 Bộ Công Thương Quốc Tế MITI của Nhật, nay là Bộ Kinh tế,
Thương mại và Công nghiệp METI, lập ra Viện Khoa học Công nghiệp và Thuật lý (Agency
of Industrial Science and Technology) AIST có nhiệm vụ phối hợp hoạt
động của 16 trung tâm nghiên cứu trên toàn quốc với ngân sách rất cao để nghiên
cứu và thực hiện 25 dự án ưu tiên nhằm giải quyết vấn đề tài nguyên và sản xuất
và giữ vị trí khoa học tiên tiến cho Nhật. Cho đến nay, dù có sản lượng kinh tế
đứng hạng ba, Nhật vẫn có ngân sách nghiên cứu và phát triển hạng nhất nên tiếp
tục có những sáng kiến tiên tiến.
- Gần với chúng ta hơn thì năm 1966, khi kinh tế Nam
Hàn còn thua kinh tế miền Nam Việt Nam, họ đã đề ra hướng phát triển công nghiệp
cho 20 năm sau của ba lớp kỹ nghệ. Ba lớp đó là 1/ các ngành phôi thai non yếu
như thép, đóng tầu, phân bón và ráp chế điện tử, 2/ các ngành có khả năng cạnh
tranh là dệt sợi, áo quần hay giày dép – như Việt Nam ngày nay - và lớp 3/ là
các ngành có thể tự túc. Cứ mỗi năm năm thì sự yểm trợ của nhà nước và các tập
đoàn sản xuất của tư nhân phải nâng ngành ở lớp dưới lên lớp trên. Tiêu chí của
họ là phải bắt kịp và vượt Nhật trên thị trường xuất khẩu. Kết quả là nửa thế kỷ
sau, là ngày nay, sản phẩm Đại Hàn như xe hơi hay điện thoại đang chiếm thị phần
rất cao trên trường quốc tế của Mỹ, Nhật, Âu.
- Trong suốt tiến trình đó, hai nước đang dẫn đầu
Đông Á vốn có ít tài nguyên và nhân lực nội địa đã phát huy sáng kiến và tổ chức
để tìm nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động. Họ lập ra chu trình cung cấp
và điều hướng việc đầu tư ra ngoài để dùng bắp thịt và vật liệu của xứ khác. Nếu
nhớ lại thì ta tự hỏi rằng trong những năm đó, Việt Nam làm gì và nghĩ gì để
ngày nay đi mua vật liệu của Trung Quốc và bán bắp thịt của mình nhờ lương rẻ hầu
có phần đóng góp rất nhỏ?
.
Nguyên
Lam: Như ông vừa trình bày kinh nghiệm của các nước
đi trước thì việc có được “Sản phẩm Việt Nam” thay vì chỉ có “Sản phẩm Ráp chế
tại Việt Nam”, người ta cần khởi sự từ cái đầu, từ khả năng phát huy sáng kiến
và tổ chức. Mà có phải là khả năng đó đòi hỏi tầm nhìn dài hạn của giới lãnh đạo
kinh tế và doanh nghiệp hay không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Đúng như vậy và tôi nhắc đến kỹ nghệ đóng tầu
của Đại Hàn, 20 năm trước còn là phôi thai mà sau đó đã vượt Nhật Bản, còn Việt
Nam thì 10 năm trước mới sinh ra hiện tượng Vinashin với kết quả tồi tệ ra sao
thì ta đã rõ. Một tập đoàn kinh tế nhà nước có sự yểm trợ mọi mặt của nhà nước
mà còn vậy thì làm sao tư doanh Việt Nam có thể cạnh tranh với nhà nước và với
quốc tế sau này? Nếu ta có thấy “Hàng Việt Nam” trong loại phụ kiện cho Samsung
hay Apple mà chỉ có ưu thế rẻ tiền mà chóng hư thì mình hiểu ra nguyên do sâu
xa của vấn đề.
- Sau cùng, ta chẳng nên quên rằng trong hai chục
năm qua, công nghệ của thế giới cũng thay đổi nên phí tổn sản xuất của nguyên vật
liệu như tơ sợi hay hàng dệt giảm mạnh, với phần đóng góp ít hơn của nhân công
và nhiều hơn của thiết bị máy móc. Vì vậy, Việt Nam nên nhìn xa vào đó để tìm
nguồn sản xuất và cung cấp khác ngoài Trung Quốc hầu khai thác được lợi thế về
thuế khóa của hệ thống TPP. Chỉ với tinh thần đó thì mình mới có “Hàng Việt
Nam” đích thực. Yếu tố then chốt ở đây là tinh thần, là tầm nhìn. Chưa khắc phục
được bài toán ấy thì mình chỉ đi làm hàng nhái, hàng giả và “Made in Vietnam”
vẫn đồng nghĩa với hàng rẻ mà chẳng bền!
.
Nguyên
Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về bài học thấm thía này.
No comments:
Post a Comment