Lou
Zacharilla
Trà Mi lược dịch
Posted
on March 8, 2015 by editor
Rất
ít kỹ sư hay khoa học gia đã đi cùng con đường đến thành công với Tiến sĩ họ
Vương và cũng ít người đã được Giám đốc điều hành Artel, Ted Hengst, công nhận
là người gắn liền với sự thành công của công ty của họ trong lĩnh vực vệ tinh
như ông.
*
Dr.
XT Vuong. Nguồn: Satellite Executive Briefing, Feb. 2015.
DCVOnline | Nhân vật chính
trong bài “Khủng bố hay anh hùng” đăng ngày 26 tháng Hai, 2015 trên
DCVOnline là một cựu sinh viên du học ở Seattle, Hoa Kỳ bằng học bổng
“Leadership”, nhóm II, của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Bài viết
dưới đây của Lou Zacharilla cho thấy nhân vật trong câu chuyện, một nhà khoa học
hàng đầu người Mỹ-Canada gốc Việt, cũng là một cựu sinh viên Việt Nam
du học tại Mỹ bằng học bổng “Lãnh đạo” của USAID, trong nhóm I.
Bài
của Zacharilla một lần nữa cho thấy nhận định của Ngô Vĩnh Long(*) như đã trích
dẫn trong bài “Khủng bố hay anh hùng” chỉ là những tuyên truyền nhảm nhí của những
người phù cộng.
Mời
bạn đọc theo dõi lời giới thiệu của Lou Zacharilla và trao đổi giữa tác giả với
Tiến sĩ XT Vương.
*
Ngày
17 tháng 3 năm 2015, Tiến sĩ XT Vương, Phó Giám đốc và Khoa học gia Trưởng của
công ty Artel, sẽ được đưa vào Hội trường Danh vọng (Hall of Fame) của ngành
công nghiệp vệ tinh.
Rất
ít kỹ sư hay khoa học gia đã đi cùng con đường đến thành công với Tiến sĩ họ
Vương và cũng ít người đã được Giám đốc điều hành Artel, Ted Hengst, công nhận
là người gắn liền với sự thành công của công ty của họ trong lĩnh vực vệ tinh
như ông.
Trong
thời gian 14 năm Ts Vương làm việc với Artel, công ty này đã đi từ thời điểm
không có khả năng quản lý vệ tinh cho đến khi chủ động quản lý băng thông cho
khoảng 60 vệ tinh trong hợp đồng Dịch vụ Truyền thông Vệ tinh DISN – Tòan cầu
(DSTS-G) và đã đưa Artel lên vị trí công ty cung cấp băng thông lớn nhất cho Bộ
Quốc phòng và Bộ Nội An Hoa Kỳ.
Trong
khoảng 10 năm, từ 2001 đến 2011, Artel đã từ một công ty nhỏ trở thành một
doanh nghiệp lớn với mức tăng trưởng đáng kể. Ông XT Vương đã đóng góp rất nhiều
với ngành công nghiệp vệ tinh trong gần 40 năm, từ việc phát triển những
Microscope IM [phương pháp mới dùng trong phân tích phi tuyến các tín hiệu của
các hệ thống truyền thông liên lạc vệ tinh] với Khuếch đại Ma trận và Hệ thống
Định tuyến (MARS) [là một kỹ thuật trong ngành vệ tinh có thể dùng cho cả hai
loại vệ tinh truyền thông thương mại và quân sự để tăng năng suất và tính linh
hoạt]. Tôi muốn tìm hiểu thêm về ông ấy. Sau đây là trích đoạn cuộc trao đổi của
chúng tôi.
Lou
Zacharilla (LZ):
Tôi muốn bắt đầu bằng một câu hỏi không khoa học. Mọi người trong ngành đều
biết ông là “XT”. Nhưng tên của ông là Xuyên Vương. Tại sao lại có chữ “T” vô
đây?
XT
Vương (XT):
Tên tiếng Việt của tôi trong khai sinh là Vương Thanh Xuyên. Ở Việt Nam cũng
như ở nhiều nước châu Á khác, tên đứng trước là họ của gia đình và tên đằng sau
là tên đặt cho mình. Tôi đã dùng tên XT từ năm 1984 sau khi thấy rằng, đối với
một số người, thì tên Xuyên khá khó phát âm. Tôi đã đổi thành XT.
LZ: Khá phù hợp với
tính khí của ông nhỉ. Rõ ràng ông là người có tham vọng và ý thức được tài năng
của mình. Nhưng khi tôi đọc về câu chuyện cuộc đời của ông, thì nó có thể đã
khác. Ông từ Việt Nam sang Mỹ bằng một học bổng “Lãnh đạo” (Leadership
Scholarship) của USAID trong những năm1960. Trong hoàn cảnh và điều kiện nào
ông đã xa nhà?
XT: Tôi rất biết ơn Cơ
quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ đã cho tôi học bổng. Học bổng đó gồm tất cả các
chi phí cho tôi đi học lấy bằng Cử nhân. Học bổng đó đã trang trải cho tất cả mọi
chi phí, từ vé máy bay, lớp học tiếng Anh cho đến học phí và tiền ăn ở. Nếu
không có học bổng đó, tôi tự hỏi không biết đời mình sẽ như thế nào.
LZ: Cuộc sống của ông
ở Việt Nam ra sao?
XT: Tôi là con trong một
gia đình dưới trung lưu. Cha mẹ tôi có chín người con. Tôi không nghĩ rằng cha
mẹ tôi thậm chí có thể có đủ tiền mua một vé máy bay một chiều cho tôi đi chứ đừng
nói tới những chi phí khác mà chương trình USAID đã cung cấp cho tôi.
LZ: Như vậy, đâu phải
ông qua Mỹ như là con nhà giàu có?
XT: Không. Học bổng đó dựa
trên thành tích học tập. USAID đã không áp đặt điều kiện cụ thể nào đối với cá
nhân tôi khi tôi nhận học bổng.
LZ: Như vậy, ông đến
Mỹ vào năm 1967. Tới khi nào thì ông bị vệ tinh quyến rũ?
XT: Tôi đến Mỹ vào tháng
2 năm 1967 và hoàn tất bằng Cử nhân Khoa khọc Kỹ sư Điện (BSEE) ở Sacramento
State College (nay là California State University) vào tháng Giêng năm 1971.
Nhưng
khi lớn lên ở Việt Nam, những tin tức về Sputnik, về người đầu tiên trong không
gian và sau đó là việc đặt chân xuống mặt trăng đã làm cho chúng tôi quan tâm đến
vệ tinh. Mặc dù chúng tôi nói chuyện về hoả tiễn. Đó có lẽ vì Việt Nam không có
sách giáo khoa về vệ tinh viễn thông, nhưng có rất nhiều sách về hỏa tiễn. Vì vậy,
ban đầu tôi đã bị hỏa tiễn quyến rũ hơn là vì vệ tinh.
LZ: Bước đầu tiên của
ông là được nhận vào trường đại học Bách Khoa Phú Thọ có uy tín. Đó có phải là
nơi ông đã học về vệ tinh chăng?
XT: Không, mặc dù thi đậu
vào vào Đại học Bách khoa Phú Thọ là một điều tôi vẫn tự hào, vì đó là trường kỹ
sư duy nhất tại miền Nam Việt Nam vào thời điểm đó. Tôi tin rằng tôi trúng tuyển
vì đã có thể nghĩ ngoài-cái-hộp và đã giải được một bài toán về hỏa tiễn, mà đó
là phần chính của kỳ thi tuyển.
LZ: ”Out-of-the-box”
như thế nào?
XT: Tôi đã sáng tạo vượt
ra ngoài tầm các bài học và lý thuyết về vệ tinh trong sách giáo khoa bậc trung
học. Tôi đã giải được bài toán về hỏa tiễn mà đó phần chính của kỳ thi tuyển vào
đại học Phú Thọ.
Dr. Vương Thanh
Xuyên, áo khoác đen, hàng thứ 2 , với những người bạn trẻ ở Ottawa
những năm đầu thập niên 1970. Nguồn: DCVOnline
LZ: Ông đã giải đáp
xuất sắc, tôi tin như thế. Ông đã đi vào ngành công nghiệp, mà tháng ba này sẽ
đưa ông vào Hội trường Danh vọng, ở đâu?
XT: Đó là Canada. Tại
các trường cao học của Đại học Carleton ở Ottawa vào đầu những năm 1970. Bộ
Truyền thông Canada đã làm việc với NASA (National Aeronautics and Space
Administration) và ESA (European Space Agency) để phát triển một thử nghiệm
phát sóng trực tiếp năng lượng cao bằng vệ tinh viễn thông Ku-band gọi là Kỹ
thuật Truyền thông Vệ tinh (CTS).
LZ: Vệ tinh Hermes phải
không?
XT: Đúng. Nó đã được đưa
lên không gian vào năm 1976. Đại học Carleton và Stanford đã tiến hành nghiên cứu
chung với các cuộc hội thảo và các khóa giảng truyền hình bằng CTS.
LZ: Đó đã là chuyện
bình thường với chúng ta hôm nay. Cuộc gặp gỡ gần thứ hai là với vi sinh vật học.
Có thể xem đó là một cuộc hội ngộ giữa “khoa học kỳ dị” với vệ tinh, phải
không?
XT: Cuộc hội ngộ này
cũng đã diễn ra tại Canada. Lần này tại Đại học Western Ontario. Trong luận án
tiến sĩ, tôi đã áp dụng kỹ thuật tương tự như đã dùng để điều khiển quỹ đạo của
vệ tinh hầu kiểm soát sự tăng trưởng của vi sinh vật. Một trong những giáo sư cố
vấn của tôi, một nhà vi sinh vật học, lắc đầu và nói rằng ông đã không nghĩ rằng
có sự liên hệ nào giữa một vệ tinh và một phản ứng sinh học. Tôi nghĩ rằng tôi
đã thất bại trong việc cho ông ấy thấy những điều kỳ diệu của toán học khi áp dụng
trong kỹ thuật tạo mô hình và điều khiển.
Đến
năm 1978, tôi rời đại học đi làm việc với một nhà sản xuất vệ tinh để học thêm
kinh nghiệm thực tế trong ngành công nghiệp của chúng ta.
LZ: Đó có phải là nơi
ông tìm thấy tình yêu của mình với vệ tinh không?
XT: Tôi thích dạy. Đây
được coi là một công việc tạm thời. Khi tôi ngày càng liên quan với công việc về
vệ tinh thì tôi thấy nó càng hấp dẫn. Tôi không bao giờ nhìn lại. Nó tăng tốc.
Tại Spar Aerospace, tôi làm việc với ông Lorne Keyes, người đã nhận giải thưởng
Sarnoff vì những đóng góp xuất sắc trong việc phát triển một vệ tinh viễn thông
có hiệu quả kinh tế, gồm cả việc dùng lại tần số do sự phân biệt phân cực – đó
một bước đột phá rất lớn.
LZ: Ông còn nhớ dự án
đầu tiên của ông chứ?
XT: Thật rõ. Nó đáng lẽ là
một nghiên cứu về các sản phẩm điều biến qua lại thụ động nhưng tôi đã vấp phải
sai lầm và đã nghiên cứu về các sản phẩm điều biến qua lại dải gốc gây ra do vật
mang FM/FDM đi qua một bộ lọc tuyến tính.
LZ: Một sai lầm tốt.
XT: Tôi đã làm việc
trong các dự án hấp dẫn khác như Cánh tay của Phi thuyền Con thoi (Space
Shuttle) và Sarsat (Tìm kiếm và giải cứu trọng tải của vệ tinh), và dẫn đầu một
nhóm các kỹ thuật viên và kỹ sư thực hiện việc tích hợp và thử nghiệm các vệ
tinh truyền hình Anik-C và Anik-D của Canada.
LZ: Tôi tò mò về
phương cách sáng tạo của ông. Truyền thuyết cho là ông là người có khả năng đưa
ra đáp án đúng cho những vấn đề phức tạp. Càng đọc nhiều, tôi thấy rằng thiên
tài của ông là khả năng đưa một giải pháp bằng cách quy vấn đề thành một thực tế
đơn giản. Tôi nghĩ thế có đúng không?
XT: Tôi hãnh diện khi
ông nghĩ như thế. Tôi được như vậy là nhờ ở sự đào tạo đại học chính quy về
ngành kỹ thuật hệ thống và những kinh nghiệm lĩnh hội trong nghề tại các điểm dừng
khác nhau. Tôi vững tin vào tính khí và các giá trị của cá nhân tôi – xác nhận
sự thật, không ngừng học tập và sự cống hiến – là bản chất của tôi.
LZ: Thật khó để xác định
nguồn gốc của niềm đam mê và phương pháp của chúng ta, có phải thế không?
XT: Ông nghĩ đúng về
cách nhìn vấn đề của tôi. Nó chẳng khác nhiều so với bất kỳ phương pháp kỹ thuật
hệ thống nào. Trước tiên, tôi cần phải tìm ra vấn đề là cái gì bằng cách thu thập
tất cả các dữ liệu thích đáng. Những gì ông gọi là “thực chất đơn giản” với tôi
đó những dữ liệu thích hợp. Đây là bước quan trọng nhất trong việt giải quyết vấn
đề. Kinh nghiệm dạy tôi dữ liệu nào là thích đáng, dù chúng có thể không có sẵn
ngay đó. Với một số vấn đề, thí dụ như sự nhiễu (sóng), thì tôi cần phải tìm ra
sự bất định của dữ liệu và xem chúng có bị ảnh hưởng hay bị dung hòa hay không.
Bước
thứ hai là tạo mô hình bằng cách trình bày vấn đề bằng các phương trình toán học.
Sự “tao nhã” khai triển từ các phương trình toán hoặc các thông số.
Bước
thứ ba là giải các bài toán bằng cách dùng các kỹ thuật tối ưu hóa hoặc kỹ thuật
điều khiển hiện có. Nếu những kỹ thuật đó không có sẵn, tôi sẽ tạo ra, hoặc
quay lại bước thứ hai để đơn giản hóa tiến trình tạo mô hình. Bước cuối cùng là
chuyển đổi chúng thành một giải pháp thực tế.
LZ: Thông báo về Hội
trường Danh vọng của Hội Chuyên gia Vệ tinh Quốc tế đã đề cập đến công việc của
ông về Khuếch đại Ma trận và Hệ thống Định tuyến [Amplifier Matrix và Routing
System] (MARS).
XT: MARS là một kỹ thuật
về trọng tải của vệ tinh mà tôi đã may mắn được tham gia và phát triển. Tôi đã
làm việc cho Inmarsat về hiệu năng của bộ khuếch đại ma trận cho con tàu vũ trụ
của họ trước khi xây dựng. Tôi đã nghiên cứu sâu rộng hơn tại SAIC, và nhờ một
giải thưởng của Broad Agency Announcements (BAA) của Trung tâm và Hệ thống Tên
lửa (SMC) của Không quân Hoa Kỳ (USAF).
Tôi
tổng quát hóa các khái niệm chia sẻ năng suất của MARS, thêm khả năng định tuyến
của nó, định rõ đặc điểm các sản phẩm điều biến qua lại liên cảng và nội cảng,
và nghiên cứu về ứng dụng khả thi để dùng MARS với các vệ tinh viễn thông quân
sự thế hệ thứ ba (DSCS IIIs).
LZ: Cái nhìn của ông
về viễn cảnh của kỹ thuật quản lý băng thông sẽ phát triển trong 5 năm tới là
gì.
XT: Chúng ta sẽ thấy việc
triển khai các vệ tinh thông lượng cao (HTS) nhiều hơn. Chúng ta sẽ thấy việc
tăng trưởng về nhu cầu băng thông và các dịch vụ về mạng lưới. Kết quả là, thị
trường sẽ chú trọng hơn về mặt quản lý và chất lượng của dịch vụ để hỗ trợ lưu
thông trên mạng (ví dụ, độ trễ, tỷ lệ lỗi bit) hơn là giám sát quang phổ của
các băng thông (ví dụ như sự nhiễu tần số vô tuyến).
LZ: Chúng ta có một
chiến dịch mới trên toàn cầu để quang bá ngành công nghiệp (của chúng ta) gọi
là “Vệ tinh Làm Thế giới Tốt hơn” (www.bettersatelliteworld.com)
. Ông có nghĩ việc ông làm đã làm thay đổi cuộc sống của người dân không?
XT: Khi làm việc tại
Spar Aerospace tôi đã tham gia vào việc thiết kế và thử nghiệm các vệ tinh nội
địa của Canada và Indonesia. Dù có niềm tự hào quốc gia ở đây, nhưng chúng không
phải là những nỗ lực để phát triển hơn mà nhằm vào việc triển khai vì vệ tinh
là phương tiện duy nhất để mọi người liên lạc một cách hiệu quả. Điều này rất
là quan trọng.
LZ: Chúng ta đã không
nhận ra rằng niềm tự hào quốc gia, trông giống như một đề xuất thất thu, thường
đáp ứng được nhu cầu để mọi người có thể nhập cuộc như thế nào. Ngành vệ tinh
có thể tự hào ở điểm này.
XT: Ở cả trên biển nữa.
Tôi từng làm việc tại COMSAT về thiết kế các trạm trên đất liền của Inmarsat-A
và B/M. Trước khi có Inmarsat, người trên tàu không thể liên lạc thường xuyên.
Radio sóng ngắn, một phương tiện không đáng tin cậy để liên lạc, đã được sử dụng.
Hôm nay, nhờ các vệ tinh, người đi biển có thể liên lạc được với mọi người ở phần
còn lại của thế giới và có thể xem được cả Super Bowl!
LZ: Ông thích ai
trong trận chung kết năm nay?
XT: Tôi có bốn anh chị
em với gia đình của họ ở Seattle. Vì vậy, chắc chắn tôi sẽ cổ vũ cho đội
Seahawks của Seattle.
LZ: OK. Dự đoán kết
quả trận đấu đó chắc khó khăn hơn nhiều so với việc phân tích giao thông qua
phi tuyến, phải không? Cảm ơn ông.
Nguồn:
http://www.artelllc.com/
Tác
giả Lou Zacharilla là Giám đốc Phát triển của Hội Chuyên Gia Vệ tinh Quốc tế.
Liên lạc với ông Zacharilla bằng địa chỉ này LZacharilla@sspi.org
©
2015 DCVOnline
Nguồn: Lou Zacharilla, From
Boyhood in Vietnam to the Satellite Hall of Fame, Satellite Executive
Briefing, Vol. 8, No. 1, February 1015, pp. 7-9.
(*) Ngo Vinh Long, Vietnamese Students and the Center, Bulletin of Concerned Asian Scholars, Vol. 3. No. 2. February 1971, p.32-34. Trần Giao Thủy trích dẫn lại trong “Khủng bố hay anh hùng”, DCVOnline, 16 tháng Hai, 2015.
No comments:
Post a Comment