Ngày
đăng: 12.03.2012
Một
thi sĩ lừng danh của nước Mỹ ở thế kỷ 19 là Henry W. Longfellow đã để lại trên
10 tập thơ, trong đó có những câu thơ bất hủ mà cho tới nay vẫn còn được nhiều
người trích dẫn mỗi khi nói đến tâm thức hoài hương. Đại ý đoạn thơ viết rằng
hoài hương “là một nỗi buồn nhớ mênh mang mà không phải là sự đau đớn”, và nếu
ta nghĩ tâm trạng hoài hương cũng giống như niềm sầu khổ thì chẳng khác nào ta
thấy “một màn sương muối giống như một màn mưa giăng”.
Có
lẽ đúng thế thật. Với thời gian càng lúc càng chồng chất trên mái tóc và quê
hương càng lúc càng khuất sâu trong trí nhớ, tôi dần dần nghiệm ra rằng, khác
với tình yêu lứa đôi mà khi tan vỡ có thể biến thành niềm oán hận hoặc để lại
một vết thương khó lành, tình hoài hương là tình cảm duy nhất sống mãi trong
tâm hồn mà chẳng gây ra nỗi đau lòng, ngược lại đôi khi còn vỗ về an ủi tâm hồn
ta như bàn tay mẹ hiền những ngày thơ ấu, hoặc đưa tâm hồn bay vút lên cao
như cánh gió ban mai, để từ đó ta cảm thấy nỗi nhớ thương tràn ngập trong tim
dường như đang hỏa lẫn với một niềm hạnh phúc mơ hồ…
Những
ý nghĩ vụn vặt ấy thường hay đến với tôi cùng với giai điệu và lời hát của một
ca khúc viết về tình hoài hương. Đất nước nào, dân tộc nào cũng có những ca
khúc viết về tình hoài hương, nhưng tôi tự cho phép mình lý luận một cách rất
chủ quan rằng chỉ có đất nước Việt Nam mới mang lại cho dân tộc Việt Nam một
khối lượng lớn những ca khúc viết về tình hoài hương tuyệt vời đến như thế, mỗi
ca khúc đã trở thành một viên ngọc trong kho tàng âm nhạc. Dĩ nhiên đây là một
điều đáng tự hào. Nhưng hình như đây cũng là một định mệnh hàm chứa nỗi bất hạnh.
Tình
hoài hương được định nghĩa một cách đơn giản là nỗi nhớ quê hương. Nhưng
trong văn chương, nghệ thuật, âm nhạc của nhân loại nói chung, quê hương luôn
luôn là một ý niệm rất tương đối. Người ta không thể mang những quy ước hay
tiêu chuẩn về địa dư, lãnh thổ, biên giới, hoặc về sinh quán, nguyên quán,
gia tộc… để xác định nguồn cảm hứng đã tạo thành những tác phẩm gói ghém lòng
tư hương của người nghệ sĩ. Điều này thể hiện rõ rệt qua các ca khúc hoài
hương trong giòng nhạc Việt.
Hãy
thử nhớ lại giai điệu và lời ca của một số bài hát đã đi vào lòng chúng ta
như “Nhớ Quê Hương” (Phạm Ngữ), “Làng Tôi” (Chung Quân), “Tình
Quê Hương” (Việt Lang), “Chiều Quê” (Hoàng Quý), “Ôi Quê Xưa”
(Dương Thiệu Tước), “Quê Hương” (Hoàng Giác), “Tiếng Sáo Chiều Quê”
(Hoàng Giác), “Ngày Về” (Hoàng Giác), “Quê Mẹ” (Thu Hồ), “Xa
Quê” (Lê Quang Nhạc), “Tình Hoài Hương” (Phạm Duy), “Thuyền Viễn
Xứ” (Phạm Duy), “Người Em Nhỏ” (Nguyễn Hiền), “Buồn Nhớ Quê
Hương” (Hoàng Trọng), “Lạnh Lùng” (Hoàng Trọng), “Hướng Về Hà Nội”
(Hoàng Dương) v.v… Những ca khúc này đều được sáng tác trong khoảng từ giữa
thập niên 40 đến giữa thập niên 50, hay nói cách khác, đều ra đời trước khi đất
nước bị cắt đôi vì hiệp định Genève 1954. Vào thời điểm ấy, tuy cuộc ly hương
thật sự của hơn 1 triệu người chưa xảy ra nhưng chiến tranh đã lan rộng khắp
nơi, đã dìm ngập nhiều vùng đất trong khói lửa đạn bom và đã đẩy hàng triệu
người ra khỏi làng mạc quê quán. Vì thế, “quê hương” làm rung động những tâm
hồn nghệ sĩ trong giai đoạn ấy, là “miền quê binh khói” (Hoàng Giác),
là “quê tôi chìm chân trời mờ sương” (Chung Quân), là “cảnh làng
xưa vết hoang tàn đìu hiu gió sương” (Dương Thiệu Tước). Hình ảnh và âm
hưởng “quê hương” làm ray rứt lòng người trong giai đoạn ấy có thể là một
vùng quê với “ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ, tiếng sáo bay dập
dìu đường về thôn xưa” (Việt Lang), hoặc có thể là Hà Nội với “nước hồ
là ánh gương soi, nắng hè tô thắm lên môi, thanh bình tiếng guốc reo vui”
(Hoàng Dương), mà cũng có thể chỉ là những kỷ niệm thật đơn sơ như “bên
than hồng êm ấm, ta xum vầy sung sướng” (Hoàng Trọng), hay “lúc trăng
đang dần nhô cao đầu trên khóm tre già, chúng ta quây quần vui nô đùa bên mấy
khóm hoa” (Phạm Ngữ)… Biết bao nhiêu ca khúc bất hủ đã ra đời trong khói
lửa chiến tranh để gửi gắm tình hoài hương của những nhạc sĩ phải lìa xa vùng
trời kỷ niệm, ôm trong lòng nỗi nhớ mênh mang hướng về làng quê xưa hay thành
phố cũ, và mơ một ngày “tàn cơn chinh chiến, lửa khói đắm chìm” (Hoàng
Dương), để có thể “đón gió thanh bình trong nắng hanh vàng” (Hoàng Trọng),
để được “tung cánh chim tìm về tổ ấm” và “say sưa cuộc sống bên
ngàn lũy tre, xa lánh cuộc đời khắt khe trăm đau nghìn thương” (Hoàng Giác)…
Thế
nhưng, như một định mệnh hàm chứa nỗi bất hạnh, cuộc chiến tranh 1945-1954
trên đất nước Việt Nam đã chỉ kết thúc bằng một cuộc phân ly, để rồi lại mở
đường cho cuộc chiến tranh kế tiếp – một cuộc nội chiến tương tàn sẽ kéo dài
hai thập niên và cũng sẽ chỉ kết thúc bằng một cuộc phân ly khác.
Hiểu
theo một ý nghĩa hơi có phần cay đắng thì cuộc phân ly lần thứ nhất năm 1954
đã định nghĩa lại ý niệm “quê hương” trong tình hoài hương của những người
nghệ sĩ, vì chiến tranh tuy đã kết thúc mà họ vẫn không có một quê hương
thanh bình để trở về, chẳng những vậy mà họ còn phải lìa bỏ nơi chôn nhau cắt
rốn để ra đi. “Quê hương” của chuyến ra đi năm ấy không phải là “miền quê
binh khói” nữa, mà là quê hương đã bị cắt lìa bởi một giòng sông, một vĩ
tuyến, một ý thức hệ. Tình hoài hương trong các ca khúc được viết vào thời điểm
ấy tuy vẫn mang chất u hoài lãng mạn nhưng đã pha thêm niềm đau đớn, nỗi uất
hận, và lòng xót thương gửi về một quê hương đang chìm vào bóng tối. Bao
nhiêu tình cảm đó hòa lẫn với nhau để tạo thành những nhạc phẩm tuyệt vời như
“Xa Quê Hương” (Đan Thọ & Xuân Tiên), “Thương Về Năm Cửa Ô Xưa”
(Y Vân & Tạ Tỵ), “Hận Ly Hương” (Anh Hoa & Ngọc Long), “Giấc
Mơ Hồi Hương“, “Nhặt Cánh Sao Rơi“, “Gửi Áng Mây Hàng” (Vũ
Thành), “Bóng Quê Xưa“, “Vọng Cố Đô“, “Thu Ly Hương” (Nhật
Bằng & Đan Thọ), “Nhạt Nắng” (Xuân Lôi & Y Vân), “Tình Cố
Đô“, “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” (Lam Phương), “Sầu Ly Hương” (Lam
Phương & Lê Mộng Bảo), “Hoa Bướm Ngày Xưa“, “Gửi Một Cánh Chim”
(Nguyễn Hiền), “Lá Thư Gửi Mẹ” (Nguyễn Hiền & Thái Thủy), “Bắc
Một Nhịp Cầu“, “Bên Bờ Đại Dương” (Hoàng Trọng & Hồ Đình
Phương), “Chiều Mưa Nhớ Bắc“, “Em Còn Nhớ Không Em” (Hoàng Trọng
& Thanh Nam), “Hướng Về Đất Bắc” (Phó Quốc Thăng), “Xuân Ly
Hương” (Phó Quốc Lân), “Nỗi Lòng Người Đi” (Anh Bằng), “Xuân
Tha Hương” (Phạm Đình Chương), “Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội” (Phạm Đình
Chương & Hoàng Anh Tuấn) v.v…
Sẽ
chẳng bao giờ chúng ta có được một danh mục đầy đủ các ca khúc thể hiện tình
hoài hương trong âm nhạc Việt Nam, bởi vì chất hoài hương không phải chỉ tẩm
đẫm giai điệu của những ca khúc giãi bày niềm thương nhớ một quê hương xa
cách, mà chất hoài hương còn len lỏi vào cả những nhạc phẩm viết về tình yêu
đôi lứa — những bản tình ca bất hủ như “Bến Xuân” (Văn Cao), “Tiếng
Chuông Chiều Thu” (Tô Vũ), “Người Em Nhỏ” (Nguyễn Hiền & Thiệu
Giang), “Tình Nghệ Sĩ” (Đoàn Chuẩn & Từ Linh), “Trên Đường Về”
(Nguyễn Thiện Tơ)… Có phải đó là định mệnh chung cho mọi tâm hồn nghệ sĩ trên
trần gian (mỗi nghệ sĩ đều có lúc cảm thấy mình giống như một đứa trẻ lạc
loài), hay đó là một sắc thái riêng của âm nhạc Việt Nam, giòng âm nhạc mà
ngay từ lúc phôi thai đã bị cột chặt với những thăng trầm của đất nước và đắm
chìm theo từng mùa ly loạn, từng cuộc phân ly?
Nhưng
dù giải thích thế nào đi nữa, rõ ràng là tâm thức hoài hương đã mang đến cho
kho tàng văn chương nghệ thuật của chúng ta quá nhiều viên ngọc quý, và từ thế
hệ này tiếp nối qua thế hệ khác, cho dù phiêu dạt ở phương trời xa xôi nào, nếu
chúng ta vẫn cảm nhận được nỗi nhớ mênh mang hòa lẫn với niềm hạnh phúc mơ hồ
mỗi khi gặp lại quê hương qua những vần thơ Nguyễn Bính “Tết này chưa chắc
em về được, Em gửi về đây một tấm lòng…”, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta
cũng rung động y như vậy khi nghe những lời thơ Tạ Tỵ được Y Vân phổ nhạc để
trở thành tiếng thở dài chua chát “…Có tiếc chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy
xuôi ý đẹp? Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người? Ôi Hà Nội ơi! Tê tái
tiếng cười, từng cánh hoa đời khép lại, thương về năm cửa ô xưa“, hay những
vần thơ Huyền Chi được Phạm Duy đưa vào nhạc và trở thành một trong những ca
khúc hoài hương tuyệt vời của giòng nhạc Việt.
*
Tôi
viết “Thuyền Viễn Xứ Trong Tâm Thức Hoài Hương” vào những ngày đầu năm
Nhâm Thìn, mùa Xuân tha hương thứ hai mươi tám kể từ khi lìa xa đất nước và
chưa một lần trở lại. Cũng như rất nhiều người khác, đối với tôi cuộc phân ly
ấy là cuộc phân ly lần thứ hai, sau chuyến đi lần thứ nhất theo cha mẹ và các
anh chị trong làn sóng di cư của một triệu người rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn
để vào Nam tìm tự do. Những năm sau đó, lớn lên ở miền Nam, tôi bắt đầu biết
nghe và yêu thích các ca khúc của một thời mà người ta quen gọi là “nhạc tiền
chiến” nhưng thật sự bao gồm tất cả các ca khúc được viết trong giai đoạn từ
1938 đến 1954. Tôi bắt đầu hiểu tại sao anh tôi sưu tập và trân quý những nhạc
phẩm do Tinh Hoa, Á Châu, An Phú… ấn hành trước và sau ngày di cư, những bản
nhạc in rời bằng giấy cứng khổ lớn, mỗi mẫu bìa là một họa phẩm tuyệt đẹp.
Tôi nhớ mãi bản nhạc “Thuyền Viễn Xứ” được cả hai nhà xuất bản Tinh
Hoa và Á Châu ấn hành nên có hai mẫu bìa khác nhau, một là bức tranh màu nước
với bà mẹ già đứng bên hàng liễu rủ nhìn theo bóng con thuyền ra khơi, và một
là bức tranh lập thể của Tạ Tỵ với hình ảnh cánh buồm và cây đàn guitar như
con thuyền trôi bập bềnh theo sóng nước…
Nhưng
nếu không có cuộc phân ly lần thứ hai, có thể tôi vẫn chỉ biết yêu thích mà
chưa cảm nhận được trọn vẹn chất hoài hương trong những ca khúc đã đi vào
lòng người ngay từ cuộc phân ly lần thứ nhất. Hà Nội của tôi là Hà Nội bàng bạc
qua những hình ảnh và âm thanh chỉ vừa đủ sắc nét để in vào trang giấy trắng
của ký ức tuổi thơ, trong khi với cha mẹ và các anh chị tôi thì Hà Nội, Hải
Phòng, Ninh Bình, Cao Bằng… đều là những thành phố tràn đầy kỷ niệm đến độ
khi phải lìa xa cũng chẳng khác gì cắt đứt một mảnh đời, rứt bỏ một phần da
thịt. Cảm giác đau xót ấy, nhiều năm sau sẽ đến lượt tôi trải qua, khi lênh
đênh giữa biển khơi, nhìn về cuối chân trời thăm thẳm mà không còn đoán được
mảnh đất quê hương ở về hướng nào…
Thế
rồi sau đó lại thêm nhiều năm nữa qua đi… Một buổi tối mùa Đông rất lạnh trên
xứ người, tôi nhận được qua email tấm thiệp Xuân của anh tôi gửi từ quê nhà,
kèm theo bản scan một bài thơ in trên trang báo cũ. Bấm “play”
để mở thiệp, tôi nghe giai điệu quen thuộc của một bản nhạc không lời được
đưa vào mp3. Bài thơ “Thuyền Viễn Xứ” của Huyền Chi và bản nhạc
của Phạm Duy. Chắc hẳn anh tôi vừa tìm được một tờ tạp chí cũ kỹ nào đó đăng
bài thơ ấy nên đã gửi tấm thiệp Xuân như một món quả cho đứa em tha hương. Là
vì trong những email trước đó không lâu anh em chúng tôi đã nhắc với nhau bài
thơ lục bát của Huyền Chi và tôi đã kể cho anh tôi nghe về cuộc nói chuyện
qua điện thoại rất bất ngờ với tác giả bài thơ.
Người
giới thiệu để có được cuộc điện đàm là chị Hồ Thị Ái Liên, chủ nhân và hiệu
trưởng một trường dạy thẩm mỹ ở Virginia và là em thúc bá của nhà thơ Hồ Đình
Phương (tác giả “Tình Thế Hệ“, “Sưởi Nắng“…. với một số bài thơ
phổ nhạc đã trở thành những ca khúc bất hủ của Hoàng Trọng, Châu Kỳ…). Tình cờ
trong một lần nói chuyện, chị Ái Liên cho biết hồi 1955-57, chị là học trò lớp
đệ Ngũ và đệ Tứ của phu quân nhà thơ Huyền Chi: giáo sư Trần Phụng Tường, dạy
Pháp văn tại trường trung học Phan Bội Châu, Phan Thiết. Chị Ái Liên cũng cho
biết nữ sĩ Huyền Chi hiện vẫn đang ở Sài Gòn và mở lớp dạy kèm sinh ngữ luyện
thi đại học tại tư gia.
|
Qua
điện thoại, tác giả “Thuyền Viễn Xứ” nói đến tập thơ đầu tay của bà mang tựa
đề “Cởi Mở“, với 22 bài thơ ký bút hiệu Huyền Chi, do nhà in Sống Chung ấn
hành. Bà kể lại: Sinh năm 1934 tại Từ Sơn, Bắc Ninh, bà theo gia đình rời
nguyên quán vào Nam khi còn là một nữ sinh trung học, thoạt đầu ở Đà Lạt với
chị, sau đó về Sài Gòn ở với mẹ, vừa đi học vừa giúp mẹ trông nom sạp bán vải
ở chợ Bến Thành. Lập gia đình năm 1954, bà theo chồng ra Phan Thiết, mở hiệu
sách, dạy Anh ngữ, rồi làm việc cho cơ quan MAC-V, và sau biến cố 1975 bà
cùng gia đình dời về lại Sài Gòn. Phu quân của bà, giáo sư Trần Phụng Tường
đã tạ thế năm 2010. Trong 7 người con của ông bà, 4 người hiện ở Việt Nam, 3
người ở Hoa Kỳ.
Bà
tỏ vẻ xúc động khi nghe tôi đọc mấy câu đầu của bài thơ mà tôi đã nhớ thuộc
lòng không biết từ bao giờ. Bà kể lại, cùng với những bài thơ khác trong tập
“Cởi Mở“, bài “Thuyền Viễn Xứ” được sáng tác vào năm 1952, thời gian bà sinh
hoạt với một nhóm văn nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa soạn chuyên trách mục thơ
cho tạp chí Phụ Nữ ở Sài Gòn. Tình cờ gặp gỡ tại nhà in Sống Chung trên đường
Trần Hưng Đạo, cô nữ sinh 18 tuổi ký tặng một ấn bản của tập thơ đầu tay còn
thơm màu mực mới cho một nhạc sĩ thành danh, lúc đó đang ở Sài Gòn để sắp xếp
công việc cho gia đình vừa từ Bắc vô Nam. Đó là lần duy nhất tác giả bài thơ
gặp tác giả bản nhạc. Đó cũng là thời điểm đánh dấu một khúc quanh khắc nghiệt
của lịch sử: chiến tranh sắp kết thúc nhưng hòa bình đã chỉ đến qua một hiệp
định quốc tế cắt đôi đất nước, đưa tới cuộc di cư của một triệu người dân miền
Bắc và mở đầu cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài 20 năm…
Rồi
thời gian tiếp tục trôi đi… Đất nước lại trải qua thêm một cuộc bể dâu… Những
ấn bản của tập thơ “Cởi Mở” đã bị thất lạc từ năm 1975 lúc tác giả cùng gia
đình di chuyển về Sài Gòn, và đến bây giờ thì chính nữ sĩ Huyền Chi cũng
không còn nhớ trọn vẹn từng bài thơ trong đó nữa. Về lần gặp gỡ ngắn ngủi nhạc
sĩ Phạm Duy đúng 60 năm về trước, bà cho biết gần đây bà cũng đã kể lại với một
nhà báo ở Việt Nam là cựu nữ sinh trường Phan Bội Châu, để viết trong bài
“Huyền Chi tác giả bài thơ Thuyền Viễn Xứ là ai?” (Nguyễn Phước Thị Liên, tạp
chí Kiến Thức Ngày Nay số 768 tháng 12-2011).
|
Đây
là 24 câu lục bát của bài thơ “Thuyền Viễn Xứ“:
“Ra khơi sương khói
một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông Lơ thơ rớt nhẹ men lòng Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang Có thuyền viễn xứ Đà Giang Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa Hò ơi! Câu hát ngàn xưa Ngân lên trong một chiều mưa xứ người Đường về cố lý xa xôi Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang Sau mùa mưa gió phũ phàng Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa Lệ nhòa như nước sông Đà Mái đầu sương tuyết lòng già mong con Chiều nay trời nhẹ xuống hồn Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi Hai bờ sông cách biệt rồi Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh Ngàn câu hát buổi quân hành Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa Biết bao thương nhớ cho vừa Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương Chiều nay trên bến muôn phương Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…“ |
Huyền
Chi năm 18 tuổi
(1952)
Và
như chúng ta đã biết, từ bài thơ trên, nhạc phẩm “Thuyền Viễn Xứ” đã
ra đời, với giai điệu buồn mênh mang như từng đợt sóng đưa con thuyền xa bến,
với những lời hát chẳng những gửi gắm niềm nhớ nhung của một triệu người rời
quê cha đất tổ năm 1954, mà hơn hai thập niên sau đó sẽ lại một lần nữa gửi gắm
nỗi lòng của hàng triệu người phải bỏ lại tất cả những gì yêu thương nhất
trên mảnh đất quê hương để vượt biển tìm tự do và phiêu bạt nơi đất lạ quê
người:
“Chiều
nay sương khói lên khơi – Thùy dương rũ bến tơi bời – Làn mây hồng pha ráng
trời – Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người – Thuyền ơi! viễn xứ xa xưa – Một lần
qua dạt bến lau thưa – Hò ơi! giọng hát thiên thu – Suối nguồn xa vắng, chiều
mưa ngàn về – Nhìn về đường cố lý – Cố lý xa xôi – Đời nhịp sầu lỡ bước – Bước
hoang mang rồi – Quay lại hướng làng – Đà Giang lệ ướt nồng – Mẹ già ngồi im
bóng – Mái tuyết sương mong con bạc lòng – Chiều nay gửi tới quê xưa – Biết
là bao thương nhớ cho vừa – Trời cao chìm rơi xuống đời – Biết là bao sầu
trên xứ người – Mịt mờ sương khói lên hương – Lũ thùy dương rủ bóng ven sông
– Chiều nay trên bến muôn phương – Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường…“
*
Trong
“Hồi Ký Phạm Duy” (Tập 3, ấn bản 2008), sau khi mở đầu Chương 3 “Gần hai
năm đã trôi qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền Bắc vào miền
Nam, lo ổn định nơi ăn chốn ở và thu xếp công kia việc nọ ở Sài Gòn“, nhạc
sĩ Phạm Duy kể về chuyện bắt đầu sáng tác trở lại vào giai đoạn cuối năm 1952
với các ca khúc Tình Hoài Hương, Tình Ca, Bà Mẹ Quê…: “…Vào
thời điểm này [trước cuộc di cư 1954] không phải chỉ có tôi viết về đất nước
mến yêu hay soạn những bài hát nhớ quê hương khi đang sống trên quê hương (…)
Phải sống bon chen với thực tại, thỉnh thoảng tôi muốn sống với viễn mơ. Huyền
Chi, một cô em bán vải ở Chợ Bến Thành đưa cho tôi phổ nhạc bài thơ nhan đề
Thuyền Viễn Xứ. Bài thơ này nói lên tâm trạng một người Bắc Việt phải rời bỏ
bến Đà Giang để vào sinh sống tại miền Nam. Phổ nhạc xong bài thơ nhớ miền viễn
xứ, trong tôi lại nổi dậy sự viễn mơ của bài Bên Cầu Biên Giới năm xưa, tôi
bèn soạn bài Viễn Du…“
Từ
thời điểm bài thơ rồi bản nhạc ra đời, cho đến suốt hơn 20 năm sau đó, âm hưởng
của “Thuyền Viễn Xứ” đã trở thành tiếng lòng của những người “xa quê
hương”, trong số đó chắc chắn có rất nhiều người không thể ngờ rằng họ sẽ còn
“xa quê hương” thêm một lần nữa trong đời, và niềm thương nhớ ngày nào hướng
về “cố lý xa xôi” sẽ được nhân lên nhiều cấp số để trở thành nỗi hoài
niệm không nguôi của những tâm hồn lưu lạc “gửi về phương ấy mịt mờ quê
hương“.
Nhắc
đến điều này để thấy “quê hương” chỉ là một ý niệm tương đối, nhưng phải
chăng cũng chính vì thế mà sau bao nhiêu thử thách của thời gian, sau bao
nhiêu thăng trầm của đời sống, tình hoài hương mãi mãi vẫn là một tình cảm
làm đẹp và thăng hoa tâm hồn nhiều hơn là vò xé và dằn vặt tâm hồn? Trước khi
quê hương cách trở cả một trùng dương, đã có một thời mà không gian ngăn chia
người với quê hương chỉ là một giòng sông Đuống như miền Kinh Bắc trong thơ
Hoàng Cầm, chỉ là một đường tàu Nam Bắc như xứ Hà Đông trong thơ Nguyễn Bính,
chỉ là một vùng lửa đạn như thành phố Hà Nội trong nhạc Hoàng Dương… Rồi lại
có một thời mà nửa mảnh đất quê hương bị cắt lìa vì một vĩ tuyến đánh dấu hai
ý thức hệ đối kháng khiến người ra đi chỉ có thể “đứng bên này vĩ tuyến
thương về năm cửa ô xưa” như trong thơ Tạ Tỵ nhạc Y Vân… Nhưng dù cho
không gian có khác, hoàn cảnh có khác, tình hoài hương vẫn là nguồn cảm hứng
để từ đó đã thoát thai biết bao nhiêu tác phẩm giá trị của kho tàng văn
chương âm nhạc Việt Nam. Có lẽ bởi vì, nói cho cùng, quê hương là nơi cất giữ
những kỷ niệm đẹp nhất, và nếu hình ảnh quê hương sống mãi trong lòng người
thì cũng chẳng qua bởi vì đó là một tuyển tập hình ảnh của chính mình, những
hình ảnh nguyên vẹn mà mỗi người khi ra đi đã mang theo và nâng niu cất giữ
trong cõi riêng của tâm hồn, để có thể mở ra vào những giờ phút tĩnh lặng và
tận hưởng một hạnh phúc rất riêng tư, tách biệt với mọi xô bồ, đắng cay, mệt
mỏi của cuộc sống hiện tại.
Hơn
nửa thế kỷ sau khi viết “Hướng Về Hà Nội“, trả lời câu hỏi về hoàn cảnh
sáng tác ca khúc đã tạo nên tên tuổi của ông, nhạc sĩ Hoàng Dương nhắc lại
không khí của những năm 1953-1954 và cho biết: “…Tình yêu Hà Nội trong tôi
là nỗi nhớ nhung về những tháng ngày đã lùi dần vào dĩ vãng… là một Hà Nội nhỏ
nhắn và dịu dàng nơi tôi đã chôn chặt mối tình thời trai trẻ…”. Sự mong
manh của đời sống giữa khói lửa chiến tranh khiến cho người nhạc sĩ dù lúc ấy
còn đang ở ngoại thành Hà Nội mà đã nhớ về Hà Nội như một “thành phố xa xưa”,
một thành phố của “những tháng ngày đã lùi dần vào dĩ vãng”. Thế rồi chỉ một
năm sau đó, Hoàng Dương lại trở về và sống ở Hà Nội, trong khi một làn sóng
người rời bỏ Hà Nội để di cư vào Nam, và với họ, Hà Nội kể từ đó đã thật sự
chỉ còn là quê hương trong trí nhớ, một quê hương để làm cay mắt mỗi khi nghe
lời hát “dáng huyền tha thướt đê mê, tóc thề thả gió lê thê, biết đâu ngày
ấy anh về…”
Một
buổi tối mùa Đông nơi xứ người, tôi nhận được tấm thiệp Xuân của anh tôi gửi
từ quê nhà, kèm theo bài thơ “Thuyền Viễn Xứ” của Huyền Chi in trên một
trang báo cũ. Cũng khoảng thời gian ấy, qua điện thoại, chị tôi kể cho tôi
nghe là trong một chuyến đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, chị tôi đã có dịp thăm lại
khu phố cũ nơi có căn nhà mà mấy chị em chúng tôi ở cùng cha mẹ trước ngày rời
đất Bắc. Nửa thế kỷ đã trôi qua với hai cuộc bể dâu. Hà Nội vẫn còn đó, cũng
như Sài Gòn vẫn còn đó, nhưng cha mẹ chúng tôi không còn nữa, thời thanh xuân
của các chị tôi với tà áo dài và mái tóc thề thả gió trên hè phố Hà Nội cũng
không còn nữa, và đứa em trai út là tôi thì chưa một lần trở về. Nghe chị tôi
kể chuyện căn nhà của tuổi thơ, tôi nghĩ đến hình ảnh cha mẹ, và trong giòng
kỷ niệm dạt dào, tôi nhớ ra rằng cha mẹ tôi cũng đã không một lần trở về đất
Bắc. Những năm lớn lên ở miền Nam, thình thoảng tôi vẫn nghe cha tôi hát nho
nhỏ những lời hát rời rạc từ một ca khúc trước 1954, “Làng Tôi” của
Chung Quân. Càng về sau tôi càng cảm thông được tâm trạng của cha mẹ qua lời
hát mang theo hình ảnh một quê hương trong trí nhớ, một quê hương với những
nơi chốn thân yêu mà đến một thời điểm nào đó cha mẹ tôi đã có thể trở về
thăm, nhưng cha mẹ tôi không trở về. Những “cây đa cao ngất từng xanh“,
những “mái tranh san sát kề nhau” hay “bóng tre ru bên mấy hàng cau”
có thể vẫn còn đó, nhưng không còn thôi thúc lòng người trở lại, bởi vì quê
hương đã đổi thay và những tháng ngày đẹp nhất không còn nữa.
Bao
nhiêu năm rồi, mỗi lần mùa xuân sắp đến ở quê nhà thì nơi tôi đang ở vẫn là
mùa đông lạnh buốt và thường là tuyết phủ ngập trời. Nhưng mỗi khi nghe vang
vọng “câu hát ngàn xưa, ngân lên trong một chiều mưa xứ người“, mỗi
khi nghĩ đến “đường về cố lý xa xôi, nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang
mang“, tôi không còn cảm thấy tâm hồn chùng xuống theo hơi gió lạnh nữa,
có lẽ vì bài thơ gửi từ quê hương hay lời kể chuyện về căn nhà xưa đã mang
theo tất cả tình thương yêu của các anh chị tôi để sưởi ấm cõi lòng đứa em xa
xứ. Quê hương chẳng những là tuyển tập những hình ảnh đẹp nhất của một quãng
đời đã sống, quê hương còn là những tình thương yêu đằm thắm không phai nhạt
theo thời gian và không bị ngăn cách vì không gian. Tình hoài hương là niềm
nhớ nhung khó nguôi ngoai nhưng không gây ra nỗi đau đớn mà chỉ làm đẹp thêm
cho tâm hồn. Nếu lồng vào bối cảnh thời cuộc thì làm sao có thể để cho những
kẻ thiếu lương tâm khai thác một tình cảm đẹp như thế thành lớp son phấn ngụy
trang một mục tiêu tuyên truyền xảo trá, làm sao có thể chấp nhận để cho những
kẻ đó đồng hóa ý niệm cao quý của quê hương với một chủ nghĩa hấp hối rồi
nhân danh chủ nghĩa ấy để hủy hoại và dâng bán mảnh đất quê hương mà tôi yêu
thương với tất cả tâm hồn.
Tôi
nhớ đến lời thơ Nguyễn Bính “Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió, Xuân này em chị
vẫn tha hương, Vẫn ăn cái tết ngoài thiên hạ, Son sắt say hoài rượu viễn
phương“. Có một mùa xuân nào đó, Nguyễn Bính đã trở về để rồi chết trên một
quê hương mà tôi tin chắc là ông đã không tìm thấy lại. Nếu cuộc trở về buồn
bã như thế thì tình hoài hương của những người mượn lời thơ Huyền Chi “Biết
bao thương nhớ cho vừa, gửi về phương ấy mịt mờ quê hương” phải chăng lại
là một niềm hạnh phúc?
|
-----------------------------
|
Cùng
thể loại
|
No comments:
Post a Comment