06:31:am
17/03/15
Người
xưa thường có tên húy do cha mẹ đặt, tên tục, tên thường dùng, tên thụy (sau
khi chết). Nhiều người có thêm tên tự (tên chữ), tên hiệu, biệt hiệu. Ngày nay,
các văn nghệ sĩ có bút danh, nghệ danh, biệt hiệu, nhà buôn có thương hiệu, tu
sĩ có pháp danh (Phật giáo), tên thánh (Ky-Tô giáo), hướng đạo sinh có tên rừng
…
Trong
ngành tình báo, kể cả trong tiểu thuyết gián điệp, các điệp viên thường có nhiều
tên hoặc bí danh, bí số khi hoạt động để tự giấu mình và đánh lừa kẻ khác.
Ngoài ra, còn có nhiều người thay tên đổi họ để lừa bịp, lừa tiền hoặc lừa
tình.
KẺ
TRÊN TRĂM TÊN
Dầu
là ngày xưa hay ngày nay, dầu thực tế hay tiểu thuyết, dầu là giới tình báo hay
những kẻ lừa bịp, trên cõi đời nầy, có lẽ không ai có nhiều tên bằng Hồ Chí
Minh (HCM), chủ tịch nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam trước
năm 1975.
Theo
thống kê chính thức của nhà cầm quyền cộng sản hiện nay ở trong nước, trong
sách Những tên gọi, bí danh, bút danh của chủ tịch Hồ Chí Minh, do Bảo tàng Hồ
Chí Minh biên soạn, Nxb. Chính Trị Quốc Gia ấn hành năm 2001 ở Hà Nội, thì HCM
có tất cả 169 bí danh, mà CS gọi là bút hiệu, bút danh, vừa để hoạt động, vừa để
viết báo. Sách nầy còn ghi thêm một số bí danh nghi ngờ là của HCM mà người CS
còn đang tìm hiểu thêm.
Hồ
Chí Minh sống khoảng 80 tuổi. Từ khi sinh ra cho đến khi chết, HCM dùng 169 bí
danh, tính trung bình mỗi năm HCM có hai bí danh. Cũng theo thống kê trên đây,
trong 169 bí danh nầy, từ khi sinh ra cho đến năm 1954 (64 năm), HCM dùng 133
bí danh, nghĩa là trung bình một năm cũng hai bí danh. Từ 1954, làm chủ tịch Bắc
Việt Nam cho đến khi chết năm 1969 (15 năm), HCM có 36 bí danh. Vậy trung bình
một năm, HCM dùng hơn hai bí danh.
Trong
bài nầy, chúng ta không nhắc lại tất cả những tên và bí danh của HCM, chỉ xin
nói đến một vài cái tên và bí danh đặc biệt mà thôi.
NGUYỄN
TẤT THÀNH, HY VỌNG THÀNH ĐẠT
Đầu
tiên, tên khai sinh của HCM là Nguyễn Sinh Cung. Giọng địa phương nguyên quán
Nghệ An của Nguyễn Sinh Cung, phát âm chữ Cung là Côông. Vì vậy có tài liệu ghi
tên cúng cơm của HCM là Nguyễn Sinh Côn. (Ví dụ: Trần Quốc Vượng, Trong cõi,
Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, bài “Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh
của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)”.)
Điều
đặc biệt là anh của Nguyễn Sinh Côn tên là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950). Giọng
địa phương phát âm chữ “Khiêm” là “Khơm”. Như thế, một người tên Khơm, một người
tên Côn. Tên hai anh em ghép lại đọc chung là “Khơm Côn”. Đọc ngược hai chữ
“Khơm Côn” nầy lại (nói lái) là “Khôn Cơm”. Giọng địa phương (từ Nghệ An vào Thừa
Thiên) “khôn” còn có nghĩa là “không”. “Khôn cơm” nghĩa là không có cơm mà ăn.
Có người lý giải rằng vì tên của hai anh em nhà nầy “khôn cơm”, nên phụ thân là
Nguyễn Sinh Sắc (sau đổi tên là Nguyễn Sinh Huy) nghèo mãi. Người ta nói vì vậy
mà ông Sắc đổi tên hai con. Nguyễn Sinh Khiêm thành Nguyễn Tất Đạt. Còn Nguyễn
Sinh Cung (hay Nguyễn Sinh Côn) thành Nguyễn Tất Thành, hy vọng về sau gia đình
sẽ thành đạt, giàu có.
NGUYỄN
ÁI QUỐC: CHÔM TÊN CỦA NHIỀU NGƯỜI
Cái
tên thứ hai đáng nói của HCM là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp
trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài Gòn, đi Pháp ngày
5-6-1911. Ông đặt chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày
6-7-1911. Nguyễn Tất Thành làm đơn xin tổng thống Pháp được đặc ân vào học Trường
Thuộc Địa Paris để ra làm quan cho Pháp, nhưng không được chấp thuận, nên Thành
đành tiếp tục theo tàu hành nghề. Sau thế chiến thứ nhứt (1914-1918), Nguyễn Tất
Thành trở lại Pháp giữa năm 1919. (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ‘Indochine
au Vietnam, Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tr. 42.) Tại đây Nguyễn Tất Thành gặp
Phan Châu Trinh, đậu phó bảng tại Thừa Thiên (Huế) năm 1901, cùng khóa với Nguyễn
Sinh Huy, phụ thân của Nguyễn Tất Thành. Nhờ sự giới thiệu của Phan Châu Trinh,
Thành quen với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Qua ba người nầy, Thành bắt
đầu tiếp xúc với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính
phủ Pháp.
Cả
bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn
Ái Quốc (Daniel Hémery, sđd. tt. 44-45), đồng ký bản “Revendications du peuple
annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn, do Phan Văn Trường
soạn, gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles tại
Paris sau thế chiến thứ nhứt, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các
ông xuất hiện lần đầu trên báo L’Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919.
Trong
bốn người cùng dùng chung bút hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn
Trường đang bị mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt; Nguyễn Thế Truyền là
sinh viên du học, đang hưởng học bỗng của Pháp để học ngành hóa học, nên không
thể công khai chống Pháp; chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật
thám Pháp chú ý. Nguyễn Tất Thành thường đại diện cả nhóm, dùng tên Nguyễn Ái
Quốc để liên lạc với báo giới và chính giới. Dần dần Nguyễn Tất Thành dùng luôn
bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình. Từ nay, Nguyễn Tất Thành được gọi
là Nguyễn Ái Quốc.
HỒ
CHÍ MINH: TIẾM DANH HAY TRỞ LẠI HỌ CŨ
Cái
tên thứ ba đáng nói nữa là Hồ Chí Minh. Cũng như tên Nguyễn Ái Quốc, tên Hồ Chí
Minh không phải do Nguyễn Sinh Cung chọn, mà Cung cũng tiếm danh của người
khác.
Nguyên
hai nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa là Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, được sự
giúp đỡ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi
tắt là Việt Minh tại Nam Kinh vào tháng 1-1936. Ngoài Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải
Thần, các hội viên nòng cốt khác là Nguyễn Thức Canh, Đặng Nguyên Hùng, Hoàng
Văn Hoan [bí danh là Lý Quang Hoa, thuộc chi bộ Vân Quý tức Vân Nam và Quý Châu
(Guizhou) của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD).]
Năm
1937, Hồ Học Lãm đến hoạt động ở tỉnh Hồ Nam, và lấy tên là Hồ Chí Minh. (Chính
Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 168.)
Cũng trong năm nầy, trước hiểm họa xâm lăng của Nhật Bản, hai phe Quốc-Cộng
Trung Hoa liên minh lần thứ hai ngày 22-9-1937.
Do
sự liên minh nầy, chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa cho phép đảng CS hoạt động
công khai trở lại. Vì vậy, vào mùa thu năm 1938, đảng Cộng Sản Liên Xô, qua
danh nghĩa Đệ tam Quốc tế Cộng sản, gởi Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô qua Trung Hoa
hoạt động trở lại với tên mới là Hồ
Quang. Hồ Quang liền liên lạc và điều động nhóm đảng viên thuộc cơ sở hải
ngoại đảng CSĐD.
Nhờ
sự giới thiệu của Hồ Học Lãm, vào gần cuối năm 1940, một số đảng viên CSĐD, dưới
vỏ bọc là thành viên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), đến Quế Lâm
(Guilin / Kweilin tỉnh Quảng Tây) gặp Lâm Uất, phó chủ nhiệm hành dinh tây nam
của Tưởng Giới Thạch. Lâm Uất đưa nhóm nầy đến gặp chủ nhiệm của ông ta là Lý Tế
Thâm. (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký. Portland, Oregon: Nhóm
tìm hiểu lịch sử, 1991, tr. 134.)
Do
tin cậy Hồ Học Lãm, cả Lâm Uất lẫn Lý Tế Thâm đã giúp đỡ họ, và không biết nhóm
nầy là những đảng viên CSĐD. Từ đó, những đảng viên CSĐD hoạt động ở Trung Hoa
cũng như ở trong nước, đều sử dụng danh xưng Việt Minh, hay nói cách khác, đảng
CSĐD đã chiếm dụng danh xưng tổ chức Việt Minh của Hồ Học Lãm, làm tên mặt trận
chính trị của đảng CSĐD. Trong khi đó, từ cuối năm 1940, Hồ Quang (Nguyễn Tất
Thành) sử dụng thông hành khác mang tên là Hồ Chí Minh. Tên nầy vốn là bí danh
của Hồ Học Lãm. Hồ Chí Minh mới (Hồ Quang, Nguyễn tất Thành) ngụy trang là ký
giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển. (Chính Đạo, Việt Nam niên
biểu nhân vật chí, sđd. tr. 161.)
Với
bí danh khác là Già Thu, Hồ Chí Minh (HCM) trở về Việt Nam ngày 28-1-1941, sống
ở Pắc Bó (Cao Bằng), lập Mặt trận Việt Minh ở trong nước. Tại đây, thay mặt Quốc
tế Cộng sản, Già Thu tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSĐD lần thứ
8 từ ngày 10-5 đến ngày 19-5-1941 tại Pắc Bó. Sau đó, Già Thu tiếp tục qua
Trung Hoa hoạt động khoảng từ tháng 8-1942, lấy luôn bí danh của Hồ Học Lãm là
HCM, làm tên mới của mình. Hồ Chí Minh bị bắt tại trấn Thiên Bảo (Quảng Tây)
ngày 29-8-1942 và được tha ngày 10-9-1943. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người
& huyền thoại, tập 2, sđd. tt. 278, 283.)
Từ
đây, HCM trở thành tên chính thức của Nguyễn Sinh Cung, kể cả khi lên làm chủ tịch
Bắc Việt Nam năm 1954, cho đến cuối đời. Trần Quốc Vượng, một sử gia cộng sản ở
trong nước, giải thích như sau về hiện tượng trên: “Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã
lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không
phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm.” (Trần Quốc Vượng, sđd. tr. 258.)
Trước
sau vụ việc theo lời kể của Trần Quốc Vượng là như sau: Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn
Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) là con của Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh
Huy). Nguyễn Sinh Sắc là con của Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của
Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên Nguyễn Sinh Nhậm chỉ
là người cha trên giấy tờ của Nguyễn Sinh Sắc mà thôi, còn người cha thực sự của
Nguyễn Sinh Sắc là Hồ Sĩ Tạo, tức Hồ Sĩ Tạo là ông nội thực sự của Nguyễn Sinh
Cung. Vì vậy, Nguyễn Sinh Cung rất bằng lòng với danh xưng Hồ Chí Minh, là họ của
ông nội ruột của ông. Câu chuyện nầy, ngày nay ở quê của HCM, tức huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, ai cũng biết và ai cũng đều xác nhận là đúng sự thật.
C.B.
LÀ “CỦA BÁC”, CHỨ CỦA AI VÔ ĐÓ
Ngày
20-4-1953, sắc lệnh Cải cách ruộng đất (CCRĐ) đợt thứ 3 được ban hành. Nơi thực
hiện đầu tiên là Thái Nguyên. Người bị đấu tố đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, chủ
hiệu buôn Cát Hanh Long nên người ta quen gọi là bà Cát Hanh Long. Bà Cát Hanh
Long bị đem ra đấu tố ba lần và bị giết ngày 9-7-1953.
Bà
Cát Hanh Long (bà Năm) là một quả phụ, nổi tiếng là nhà kinh doanh tài ba, hào
hiệp, giúp đỡ nhiều người. Từ 1945 đến 1951, bà Cát Hanh Long đã từng dùng nhà
mình làm nơi hội họp, nghỉ ngơi, che giấu, ăn ở, nuôi dưỡng cán bộ CS, trong đó
có những nhân vật cao cấp như Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn
Lương, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Tùng… Bà
còn đóng góp nhiều tiền bạc cho VMCS, nên việc đấu tố và xử tử bà Cát Hanh Long
gây nhiều dư luận bất bình.
Vì
vậy, trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953, xuất hiện bài viết nhan đề là “Địa chủ
ác ghê” của tác giả C.B. nhằm trấn an dư luận. Bài báo lên án nặng nề địa chủ
Cát Hanh Long (Nguyễn Thị Năm) cùng hai con là những địa chủ gian ác, bóc lột,
dã man. Bài báo còn tố cáo gia đình bà Cát Hanh Long vừa trực tiếp, vừa gián tiếp
giết chết 260 người. (Xin xem bài báo nầy ở phía dưới.)
Theo
hồi ký của Hoàng Tùng, từng là bí thư Trung ương đảng CSVN, khi nghe tin cố vấn
Trung Quốc yêu cầu xử tử bà Cát Hanh Long, có người báo tin cho HCM biết. Họp Bộ
chính trị đảng CS, HCM nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng
tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà
người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà,
dù chỉ đánh bằng một cành hoa.” (Internet: Hồi ký Hoàng Tùng, mục “Những kỷ niệm
về Bác Hồ”.) Hoàng Tùng còn cho biết rằng khi cố vấn Trung Quốc nhiều lần đề
nghị, HCM nói rằng: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cho là không phải.”
Theo
một tài liệu mới xuất bản vào giữa năm 2014, tác giả là một người đã từng là ký
giả báo Nhân Dân Hà Nội, có nhiệm vụ viết bài tường thuật vụ xử án bà Cát Hanh
Long, khi xảy ra vụ án thì: 1) Hồ Chí Minh bịt râu, hóa trang để đến dự đấu tố.
2) Trường Chinh đeo kính đen để khỏi bị nhận diện khi tham gia cuộc đấu tố. 3)
Sau khi bà Năm bị giết, cán bộ mua một cái hòm thật rẻ tiền để chôn địa chủ
“gian ác”. Vì rẻ tiền nên hòm nhỏ quá, bỏ xác người chết vào không lọt. Cán bộ
CS kết án bà Năm thêm lần nữa, là chết rồi mà còn phản động, không chịu chui
vào hòm. Cán bộ CS liền đứng lên đạp xác bà Năm xuống; xương gãy kêu răng rắc rất
rợn người. (Trần Đĩnh, Đèn cù, Hoa Kỳ: Người Việt Books, 2014, tr. 86.)
Sự
hiện diện của HCM và Trường Chinh trong phiên tòa đấu tố nầy chứng tỏ tầm mức
quan trọng của cuộc đấu tố bà Cát Hanh Long và cũng chứng tỏ cả hai đều quyết
tâm giết bà Cát Hanh Long ngay khi mở đầu cuộc CCRĐ năm 1953.
Lúc
đó, chỉ có giới cán bộ cao cấp và một số người trong báo Nhân Dân (trong đó có
Trần Đĩnh) mới biết được C.B. đích thị là ai? Còn đại đa số dân chúng, trong thời
gian dài, không biết C.B. là ai? Gần đây, trên Internet, có tài liệu phát hiện
C.B. là bút hiệu của HCM dùng trên 147 bài đăng trên nhật báo Nhân Dân từ tháng
3-1951 đến tháng 3-1957. Những người làm việc trong báo Nhân Dân giải thích rằng
hai chữ C.B. là “của bác”, chứ còn ai vô đó nữa. Ngày nay, bộ Hồ Chí Minh toàn
tập đã được phổ biến rộng rãi. Mọi người có thể vào từ tập 6 (1951-1952), sẽ thấy
rất nhiều bài viết HCM ký tên C.B. đăng trên báo Nhân Dân, và đăng lại trong
sách nầy; ví dụ các trang 186, 187, 188-190, 202-204, 209-212, 215-220… (Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 6, 1951-1952, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc
Gia, 2000.) Hồ Chí Minh lên tiếng có thể nhắm cho đảng viên biết rằng vụ xử tử
bà Cát Hanh Long là chủ trương của đảng để chấm dứt chuyện bàn tán, phê bình.
Như
vậy có nghĩa là bên ngoài thì HCM tỏ ra rất đạo đức, thương tiếc nạn nhân,
nhưng bên trong, chính HCM là người quyết định cái chết của ân nhân Nguyễn Thị
Năm. Đúng là “khẩu Phật tâm xà”, một kẻ đạo đức giả gian ác, nham hiểm như Nguyễn
Du đã mô tả: “Bề ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong nham hiểm giết người không
dao.” (Truyện Kiều câu 1815-1816.)
TRẦN
DÂN TIÊN, T. LAN: THỔI ỐNG ĐU ĐỦ
Thổi
ống đu đủ là trò chơi của trẻ con Việt Nam, dùng cọng lá đu đủ làm ống, chấm nước
xà phòng rồi thổi thành bong bóng bay lên trời. Trong văn học, có hai tác giả
chuyên thổi ông đu đủ hết sức tài ba là Trần Dân Tiên và T. Lan. Trần Dân Tiên
là tác giả sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, và T. Lan là
tác giả sách Vừa đi đường vừa kể chuyện.
Quyển
sách thứ nhứt xuất hiện lần đầu ở Trung Quốc năm 1948, sau đó ấn hành ở Paris
năm 1949. Sau năm 1954, Nx, Văn Nghệ Hà Nội tái bản năm 1955, rồi Nxb. Sự Thật
tái bản nhiều lần, và sau năm 1975, Nxb. Trẻ tái bản ở Sài Gòn.
Sách
Vừa đi đường vưa kể chuyện được đăng lần đầu trên báo Nhân Dân năm 1961 và sau
đó Nxb. Sự Thật tái bản nhiều lần. Những tái bản sau cùng do Nxb. Trẻ ở Sài Gòn
đảm trách.
Lúc
đầu, người ta không biết hai tác giả Trần Dân Tiên và T. Lan là ai? Người ta
cũng không tìm ra hai người nầy ở đâu, vì chẳng ai có đứng ra nhận mình là Trần
Dân Tiên hay T. Lan. Tuy nhiên dần dần người ta cũng tìm được hai bút danh nầy
đều là của HCM. Trước hết, các phiếu sách trong thư viện nhà nước đề là: “Trần
Dân Tiên, T. Lan: tìm HCM”. Điều nầy cho người đọc tự động hiểu rằng Trần Dân
Tiên và T. Lan chính là HCM. Tuy nhà cầm quyền CS không chính thức xác nhận điều
nầy, nhưng những nhà nghiên cứu trong nước hầu như đồng thừa nhận Trần Dân Tiên
và T. Lan là HCM. Có tài liệu cho biết bản gốc sách của T. Lan hiện còn được cất
giữ ở Phủ chủ tịch Hà Nội.
Trong
sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên đã viết
trong phần đầu sách: “Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn
nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho
tôi nghe bình sinh của người được?” (Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1976, tr. 9.) Một người dùng một cái
tên khác viết sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau
đó, suốt trong quyển sách lại kể lể, tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết
nên xếp kẻ đó vào loại người gì đây?
Trong
sách nầy, chẳng những HCM tự đề cao mình mà còn chê bai những anh hùng dân tộc
như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, hoặc đả kích các nhà đấu
tranh khác như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, hoặc triệt hạ
tổ chức hay đảng phái khác
Cuối
sách nầy, Trần Dân Tiên viết: “Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, vì
Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam.” (Trần Dân
Tiên, sđd. tr. 149.) Lời nầy cho thấy HCM muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi
ông là cha già của dân tộc, nhưng không được hưởng ứng, nên ông quay qua dùng
chữ “bác”. Ở đây lại thấy HCM thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác
là anh của cha, bác lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình,
hoặc lễ nghi tế tự.
Sách
Vừa đi đường vưa kể chuyện do HCM tự kể tự viết, nhưng dùng một cái tên khác là
T. Lan, một cán bộ đi theo HCM trên bước đường công tác. Câu chuyện bắt đầu từ
khi HCM hoạt động ở Pháp từ năm 1919, rồi những năm hoạt động ở Nga, Trung Hoa,
cho đến khi về nước và chiến dịch 1950. Dĩ nhiên luôn luôn xen kẻ những lời
xưng tụng HCM là người yêu nước, đầy sáng kiến, tài ba, khoan dung…
Hồ
Chí Minh sáng tạo ra hai con rối Trần Dân Tiên và T. Lan trong hai quyển sách
do HCM viết ra trên đây, nhắm thổi ồng đù đủ để ca tụng chính mình, tự quảng
cáo mình, huyền thoại hóa tên mình, mà một người tự trọng bình thường không bao
giờ làm thế. Những người không biết Trần Dân Tiên và T. Lan là ai, nhất là các
trẻ em ngây thơ, được học hai quyển sách nầy trong nhà trường, nên một thời lầm
lẫn tôn sùng thần tượng HCM. Tuy nhiên khi lớn lên, biết được sự thật là Trần
Dân Tiên và T. Lan chỉ là HCM trá hình, thì chẳng những sẽ thất vọng mà còn
khinh bỉ. Thì ra HCM cũng có ngón nghề thổi ống đu đủ, tự bơm, tự nổ. Khổ một
điều, ai phát hiện kẻ đạo diễn của hai tên thổi ông đù đủ nầy, thì ngậm mà nghe
chứ không dám nói ra, vì nói ra sẽ bị báo cáo và bị CS bắt bỏ tù.
TRÊN
TRĂM TÊN ĐỂ LÀM GÌ?
Hồ
Chí Minh có 169 tên, không ai có thể nhớ hết được. Ngay cả HCM có thể cũng
không nhớ hết được. Một câu hỏi đặt ra là HCM dùng nhiều tên, nhiều bí danh để
làm gì?
Thông
thường, một người không dùng tên mình, mà dùng một tên khác trong công việc, vì
sợ lộ bí mật, muốn giấu mặt, giấu lý lịch, nhất là trong những hành vi thiếu
trong sáng, phi pháp, bất chính. Càng nhiều tên càng muốn giấu mặt thật kỹ.
Ngay cả vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945) cho đến tháng 8-1945 không biết HCM là
ai? (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 188.)
Hồ
Chí Minh hầu như muốn “chôn” luôn tên do cha mẹ đặt ra tức tên Nguyễn Sinh
Cung, dùng trên một trăm tên khác nhau tùy vào giai đoạn hoạt động trong cuộc đời
của HCM:
Từ
nhỏ cho đến khi đến Pháp năm 1919: 11 tên
Từ 1920 đến khi về nước năm 1941: 73 tên
Từ 1941 đến 1945 (cướp chính quyền): 13 tên
Từ 1946 đến 1954 (thời chiến tranh): 36 tên
Từ 1955 đến 1969 (chủ tịch nước) 36 tên
Cộng: 169 tên
Từ 1920 đến khi về nước năm 1941: 73 tên
Từ 1941 đến 1945 (cướp chính quyền): 13 tên
Từ 1946 đến 1954 (thời chiến tranh): 36 tên
Từ 1955 đến 1969 (chủ tịch nước) 36 tên
Cộng: 169 tên
Nhìn
vào bảng thống kê trên đây, từ khi còn nhỏ cho đến năm 1919 (khoảng 30 năm),
HCM có 11 tên, tuy là ít so với tổng số tên trong toàn cuộc đời HCM, nhưng có
thể nói là đã nhiều so với cả đời người bình thường. Lý do có thể là ngay từ
khi vừa mới lớn, HCM mặc cảm hay xấu hổ về nguồn gốc gia đình mình, vì vậy
tránh dùng tên do gia đình đặt.
Nguyên
do là khi mới lớn ở nguyên quán (Nam Đàn, Nghệ An), chắc chắn HCM nghe được dân
làng truyền miệng về nguồn gốc của cha mình. Đó là Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là cha
hờ của Nguyễn Sinh Sắc (Huy), tức ông nội hờ của HCM, còn Hồ Sĩ Tạo mới là cha
thật của Nguyễn Sinh Huy (Sắc) tức ông nội thật của HCM. Đây là một điều rất xấu
hổ trong xã hội nề nếp Việt Nam ngày xưa, nhất là ở nông thôn, nơi mà người người
biết nhau, nhà nhà biết nhau. Điều nầy có thể ám ảnh Nguyễn Sinh Cung và tạo ra
tâm lý bất thường nơi người thanh niên từ khi mới lớn cho đến cuối đời, sợ người
ta phát hiện cha mình là đứa con hoang.
Hơn
nữa, HCM lớn lên trong thời đại khoa bảng Hán học. Con ông phó bảng, nghĩa là
cũng con nhà có học, mà thanh niên nầy lại không có học vị, chẳng có bằng cấp
gì, vì nếu có học vị, có bằng cấp giấy tờ, thì HCM không thay đổi tên tuổi vì
thay đổi thì văn bằng hết giá trị. Vì những mặc cảm trên đây, HCM thay đổi tên
họ nhiều lần ngay cả trước khi hoạt động chính trị và gián điệp.
Từ
năm 1920 cho đến năm 1954, tức từ khi tham gia hoạt động chính trị ở Pháp, rồi
gia nhập đảng CS Pháp, qua Nga (Liên Xô), qua Trung Hoa, về Việt Nam, đến khi
lên làm chủ tịch Bắc Việt Nam, HCM có 122 tên.
Cần
chú ý là từ năm 1920 trở đi, xảy ra một khúc quanh quan trọng trong đời HCM. Đó
là HCM gia nhập đảng Xã Hội Pháp, rồi đảng Cộng Sản Pháp. Vì vậy, HCM được Đệ
tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) chọn qua Liên Xô để huấn luyện năm 1923, Tuy
nhiên HCM không đủ trình độ văn hóa, nhất là ngôn ngữ và toán học để học chủ
nghĩa Mác-xít, vì HCM chỉ mới học tới lớp 6 ở trường Quốc Học Huế, lại chưa biết
tiếng Nga. Do đó, tại Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở Moscow, HCM chỉ học cấp
tốc về nghề gián điệp, làm nhân viên tình báo cho ĐTQTCS để mưu sinh. Nghề nầy
phù hợp với khả năng ứng xử linh động mau lẹ của một người giảo quyệt như HCM,
vốn là một kẻ giang hồ, lăn lóc trên các bến tàu trong các chuyến hải hành quốc
tế.
Vì
là một gián điệp chuyên nghiệp, được đào tạo chính quy tại Học Viện Thợ Thuyền
Đông Phương ở Moscow, HCM có thói quen thay họ đổi tên của một gián điệp, thường
dùng tên giả để hoạt động. Hơn nữa, những hoạt động của HCM là hoạt động chính
trị tả phái khuynh đảo, phá hoại nên phải luôn luôn thay đổi tên họ để tránh bị
theo dõi và bắt giam.
Trong
thời gian hoạt động tranh đấu cướp chính quyền, cần phải ẩn trốn, cần phải
tránh né, HCM dùng nhiều bí danh, có thể cho là bình thường, Tuy nhiên, điều đặc
biệt là trong giai đoạn từ 1955 đến khi chết (1969), tức thời kỳ làm chủ tịch
nước, quyền uy tột đỉnh, không còn phải sợ ai cả, HCM vẫn sử dụng 36 tên giả
trên báo chí, không đề tên thật.
Đường
đường là chủ tịch một nước độc tài toàn trị, chẳng còn sợ ai, tại sao lại phải
dùng nhiều tên giả để viết báo? Như thế phải có âm mưu gì? Nếu những âm mưu nầy
không gian trá, không bất chính, thì tại sao HCM phải giấu tên? Điều nầy cho thấy
HCM là một người bản chất xảo quyệt, mang não trạng bệnh hoạn của một tên đại bịp,
chuyên lừa đảo người khác, ném đá giấu tay.
Hơn
nữa, HCM là con người hết sức tham vọng, chủ trương thổi tên HCM thành một huyền
thoại cao quý, để cho dân chúng ngưỡng mộ HCM, không muốn ai nghĩ xấu về HCM,
nên HCM đặt tên HCM riêng ra một bên. Trong lúc đó, khi có nhu cầu tự ca tụng
mình, hay tấn công người khác, ném đá giấu tay, thì HCM dùng đến bí danh, chứ
không dùng tên mình, dù đang là chủ tịch nước, nhằm bảo vệ thanh danh riêng của
HCM. Đây là tâm lý của một người sùng bái cá nhân trong các chế độ độc tài.
KẾT
LUẬN
Tóm
lại, HCM có 169 cái tên, bí danh, bút danh, bút hiệu, vừa trong thời gian hành
nghề gián điệp, hoạt động bí mật, và cả trong thời kỳ cầm quyền, làm chủ tịch
nước. Dầu chế độ CSVN có ca tụng gì đi nữa, có tung hê HCM đến đâu đi nữa, HCM
dùng 169 tên để giấu mặt, là bằng chứng rõ ràng HCM là một kẻ xảo quyệt, gian
trá, tráo trở, đạo đức giả, chuyên ném đá giấu tay, chứ chẳng hay ho gì việc ẩn
danh đánh phá kẻ khác.
Hồ
Chí Minh không phải chỉ là “một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại” như
Bernard Fall viết trong Les deux Viet-Nam (Nxb. Payot, Paris, 1967, tr. 102),
mà HCM còn là tên lừa đảo muôn mặt, bịp bợm nhất trong lịch sử Việt Nam.
(Trích: Một thế kỷ lừa đảo, sẽ xuất bản.)
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
(Toronto, Canada)
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment