Hòa Ái,
phóng viên RFA
2015-03-18
2015-03-18
Ông Bùi Cửu Viên cùng
vợ chụp tại Maryland, Hoa Kỳ. Hình do
gia đình ông cung cấp
Trong
số khoảng ba mươi mấy ngàn người Việt di tản trong những ngày cuối tháng 4 năm
1975, cựu Đại tá Hải quân Bùi Cửu Viên và gia đình lên tàu trong chiều tối
29/4. Tại tư gia của ông Bùi Cửu Viên ở thành phố Gaithersburg, bang Maryland,
Hoa Kỳ, Hòa Ái có cuộc trao đổi với ông về câu chuyện 40 năm trước ông buộc phải
trở thành một hạm trưởng bất đắc dĩ.
Hòa
Ái:
Xin chào cựu Đại tá Hải quân Bùi Cửu Viên. Trong ngày di tản đó, theo Hòa Ái biết
là ông cùng với gia đình chỉ đi di tản thôi chứ không phải làm công vụ gì trong
ngày hôm đó, nhưng vì sao ông lại trở thành một hạm trưởng bất đắc dĩ?
Ông
Bùi Cửu Viên:
Tôi rất vui mừng khi hôm nay có dịp được nói chuyện với phóng viên của đài RFA
về ngày di tản của gia đình tôi trong ngày 29/4. Chiều ngày 29/4, tất cả
gia đình tôi đã xuống một chiếc chiến hạm trong Hải quân Công xưởng mà chiến hạm
đó đang trong tình trạng sửa chữa. Do đó, nó chỉ có một máy có thể chạy được
thôi. Chúng tôi bắt đầu khởi hành lúc khoảng 8:30 tối và khi tàu ra tới Nhà Bè
thì các cơ khí viên của chiến hạm đã sửa tiếp được cái máy số 2. Do đó, từ lúc
đó chúng tôi đã có 2 máy để chạy ra biển.
Khi
chiếc tàu của chúng tôi đang đi tới ngã 4 sông Lòng Tảo (Lòng Tàu) và
Soài Rạp thì chiếc Soái hạm Trần Hưng Đạo 01 bị nạn. Nó đánh đèn và gọi
vô tuyến điện kêu cứu. Lúc bấy giờ, tôi đang mơ màng vì mệt quá rồi, ngồi trên
sân cờ cùng các sĩ quan nữa, thì tôi thấy ông Hạm trưởng, anh Thiếu tá
Nguyễn Phú Bá ở trên đài chỉ huy chạy xuống hỏi tôi “’Commandant’, mình có cứu
nó được không?” Tôi bảo “Nếu anh muốn thì quay lại, tôi có thể cứu nó được. Thế
bây giờ tàu mình đang ở đâu?” Anh nói với tôi là “Mình đã đi quá nó 1 hải lý rưỡi
rồi”.
Trong
đầu tôi nghĩ bây giờ mình không có quyền hành gì cả, chỉ là sĩ quan thâm niên
quá giang nhưng có lẽ ông đến hỏi mình vì ông nghĩ rằng mình đã lãnh loại tàu
giống như tàu mình đang đi ở bên Mỹ rồi và mình sẽ có nhiều kinh nghiệm, may ra
mình có thể cứu được nó. Và đúng như vậy, tôi đã lãnh một chiếc tàu HQ 501 cũng
cùng một loại như chiếc tàu tôi đang đi, tức chiếc HQ 801 và tôi đã chỉ huy chiếc
đó 2 năm ở Việt Nam sau khi tôi lãnh ở bên Mỹ về.
Có
một vài người lên tiếng nói với tôi là “Bây giờ đã 12:30 sáng rồi. Nếu quay lại
cứu thì buổi sáng mình ra tới Vũng Tàu thì có thể bị địch ở trên núi bắn xuống,
rất là nguy hiểm cho mấy ngàn người trên tàu”. Thế tôi mới trả lời là “Bây giờ
việc cứu chiến hạm mới quan trọng. Người ta gặp nạn là mình phải cứu”. Do đó,
anh Hạm trưởng đồng ý quay tàu lại và anh giao tay lái lại cho tôi và bảo
“Thôi, Đại tá lái đi!”
Khi
đến đấy tôi thấy mũi tàu cắm ngay vào bờ. Bây giờ làm sao để có thể kéo chiếc
tàu này ra được? Nếu bây giờ mình mon men đến gần đó, nước quận, tàu mình có thể
bị dạt sang tàu kia thì sẽ làm tàu kia chìm mà nguy hiểm tính mạng mấy ngàn người.
Do đó, tôi quyết định ủi bãi. Khi tôi đưa con tàu ra phía sau của chiếc Trần
Hưng Đạo 01 đó và tôi đã ủi bãi song song với chiếc Trần Hưng Đạo. Khi đã ủi
bãi xong rồi, tôi ra lệnh cho nhân viên ném dây sang bên đó; ném dây mũi, dây
lái và các dây giữa vào khoảng độ 7-8 sợi dây.
Sau
khi hai bên đã cột chắc rồi thì tôi kéo chiếc tàu ấy ra giữa sông. Khi vừa mới
kéo ra được một quãng thì có bao nhiêu người trên chiếc tàu Soái hạm HQ 01 đã
nhảy sang bên tàu của tôi. Tôi thấy rất là nguy hiểm, đã có vài trăm người nhảy
sang trong vòng 5 phút đồng hồ. Do đó, tôi ra lệnh cho các thủy thủ bắn súng chỉ
thiên để cấm nhảy nữa vì khi tàu ra tới giữa sông thì thế nào hai tàu cũng dang
ra và người ta sẽ rớt xuống sông.
Khi
kéo được chiếc tàu ra rồi, tôi sờ tay lên trán thì thấy mồ hôi đầy trên trán tại
vì quá sức gay cấn, vì tôi nghĩ nếu trường hợp đó không thành công và nếu hai
tàu va đụng vào nhau trong đêm tối như vậy thì sẽ nguy hiểm tính mạng của bao
nhiêu người. Khi tàu Trần Hưng Đạo ra được khoảng giữa sông thì họ bắt đầu chạy
theo tàu của tôi cho đến khi ra tới biển và cũng không gặp trở ngại gì, không
có bị địch trên núi bắn xuống tuy lúc bấy giờ trời đã sáng.
Khi
ra gần tới Phan Thiết, chiếc chiến hạm tôi đang đi nhận được lệnh của ông
Tư lệnh Hải quân, ông ra lệnh cho tất cả các chiến hạm phải tập trung tại Côn
Sơn để chuẩn bị đi Subic Bay. Khi Hạm trưởng Nguyễn Phú Bá của chiếc 801
tức là chiếc tàu tôi đang đi quá giang nghe tin như vậy thì gia đình ông hạm
trưởng không muốn đi và đòi ông hạm trưởng phải lái tàu trở về Sài Gòn. Tôi có nói
với ông Hạm trưởng là “Bây giờ nếu như muốn về Sài Gòn thì có mấy ngàn người ở
trên tàu này sẽ mắc kẹt và để tôi can thiệp với ông Tư lệnh Hải quân”.
Sau
đó, tôi nói chuyện vô tuyến với vị Tư lệnh Hải quân thì ông nói là đang cho chiếc
tàu dầu đến đón những người muốn trở về Sài Gòn vì có gia đình kẹt lại ở đó.
Sau đó, ông nói với tôi là “Thôi, ‘Toi’ lái chiếc tàu đó đi, ‘Toi’ làm Hạm trưởng
đi!”. Thế là tự nhiên lúc đó tôi bất đắc dĩ lại biến thành một hạm trưởng mà thật
sự ra tôi đã rời chiến hạm, loại tàu giống như vậy từ năm 1964, tức là đã
11 năm tôi không làm hạm trưởng dù tôi vẫn giữ chức vụ chỉ huy ở trên bờ. Và
bây giờ sau khi trở lại làm hạm trưởng thì tôi nghĩ đúng là cái duyên của mình
đối với Hải quân, cho đến phút chót cũng phải sống với con tàu.
Gia
đình ông Bùi Cửu Viên tại Maryland, Hoa Kỳ. Hình do gia đình cung cấp
Hòa
Ái:
Dạ thưa, từ khi nhận được lệnh trở thành hạm trưởng bất đắc dĩ như vậy cho đến
khi ông cùng cả gia đình đặt chân đến đảo Guam an toàn thì trong cuộc hải trình
đó, kỷ niệm nào mà ông nhớ nhất?
Ông
Bùi Cửu Viên:
Trong thời gian tôi làm hạm trưởng bất đắc dĩ trong 5 ngày từ lúc đi ở Côn Sơn
sang đến Subic Bay thì tôi lan man nghĩ tới tại sao cuộc đời quân ngũ của mình
chỉ có đến đây đã chấm dứt mà lúc bấy giờ tôi cũng hiểu là thời thế đã đem đến
bất hạnh cho không biết bao nhiêu người. Tôi rất buồn, buồn là vì từ nay trở đi
mình không còn là người sĩ quan Hải quân nữa và mình không có cơ hội phục vụ đất
nước nữa.
Khi
tàu đến bến ở Subic Bay thì chúng tôi được lệnh tất cả phải cởi bỏ hết quân phục
và chuẩn bị để trao tàu lại cho Hải quân Mỹ. Trong lúc đó chúng tôi làm lễ
chào cờ thì tôi hạ cờ VNCH và người Mỹ họ kéo cờ Mỹ của họ lên. Lúc đó có rất
nhiều người cảm động muốn khóc. Lúc bấy giờ trong lòng tôi rất xúc động. Tôi
không biết kể từ nay cuộc đời mình sẽ trôi nổi ra làm sao…Và khi tôi bỏ chiếc
nón với cặp lon xuống dưới sàn tàu thì tôi nghĩ là từ nay mình có cuộc đời
khác hẳn. Các sĩ quan cũng như các thủy thủ đến bên cạnh tôi, các anh em ôm lấy
nhau cũng chỉ muốn khóc.
Hòa
Ái:
Dạ thưa ông, 40 năm qua rồi, cuộc sống của ông cũng như của gia đình theo Hòa
Ái biết thì mọi sự cũng được viên mãn. Đôi khi thỉnh thoảng nhớ về cuộc đời
quân ngũ thì có câu chuyện hay cảm xúc nào làm ông nhớ đến hay không?
Ông
Bùi Cửu Viên:
Tôi có rất nhiều kỷ niệm trong cuộc đời quân ngũ của tôi trong 21 năm trường ở
Hải Quân nhưng mà nói tới những kỷ niệm mới nhất gần đây thì tôi có thể nói một
cái câu chuyện rất là lạ:
Tôi
có một người bạn mới đây về chơi ở VN thì anh có quen một người làm ở trên chiếc
tàu tôi đã lãnh ở bên Mỹ về, đó là chiếc HQ 501. Và vì anh quen người đó cũng
hoạt động trên chiếc chiến hạm đó cho nên anh yêu cầu người đó cho xuống coi
tàu. Khi anh xuống coi tàu thì anh thấy trong phòng hạm trưởng khắc tên của các
hạm trưởng từ thời đầu cho đến bây giờ vẫn còn nguyên và anh thấy tên tôi vẫn ở
trên cùng vì tôi là người lãnh chiếc tàu đó đầu tiên ở bên Mỹ năm 1962, lúc bấy
giờ tôi chỉ là đại úy, và tự nhiên bao nhiêu kỷ niệm hiện về với tôi từ những
lúc mà tôi lãnh tàu, trên đường tôi đi, bao nhiêu chặng đường tôi qua. Nếu nói
về những kỷ niệm mới nhất thì đấy là kỷ niệm bây giờ chứ không phải của 40 năm
về trước nữa.
Hòa
Ái:
Dạ thưa ông, Hòa Ái được biết ông bây giờ đã ngoài 80 tuổi rồi, trong khoảng thời
gian ông phục vụ cho Quân lực VNCH thì việc gì hay điều gì ông cho rằng hài
lòng trong thời gian đó?
Ông
Bùi Cửu Viên:
Trong thời gian phục vụ ở Hải quân VNCH thì tôi nhớ nhất lại là ngày chót mà
tôi sẽ rời Hải quân. Đó là ngày tôi di tản trên chiếc HQ 801 và đã kéo được chiếc
Soái hạm HQ 01 Trần Hưng Đạo ra khỏi mắc cạn và tôi có cảm tưởng tôi giúp được
cho bao nhiêu người không bị kẹt lại và có thể gặp rất nhiều trở ngại, có thể bị
tù tội. Tại vì đối với tư cách người sĩ quan Hải quân, chúng tôi vẫn nhớ là khi
còn được huấn luyện ở trong quân trường, các vị sĩ quan huấn luyện người Pháp
luôn luôn nhắc nhở chúng tôi là “Nếu người sĩ quan Hải quân gặp người bị lâm nạn
trên biển cả mà không cứu thì các anh không xứng đáng là người sĩ quan Hải
quân”. Tôi nghĩ đó là việc mà tôi rất hài lòng, vui sướng vì đã làm được việc
như vậy. Thêm vào đó, tôi nghĩ rằng nếu hôm đó tôi mà không quyết định, tôi
không dám làm chuyện đó thì có lẽ tôi sẽ ân hận suốt đời là vì cái chuyện mình
có thể làm được mà mình không dám làm.
Hòa
Ái:
Vừa rồi là câu chuyện kể của cựu Đại tá Hải quân Bùi Cửu Viên về cái duyên ông
trở thành hạm trưởng bất đắc dĩ trong ngày ông đi di tản 29/4/1975. Và điều lý
thú mà Hòa Ái phát hiện sau khi nghe câu chuyện kể này, là khi chiếc
Dương vận hạm HQ 801 và chiếc Soái hạm Trần Hưng Đạo HQ 01 cập sát với nhau chỉ
trong vòng 5 phút đồng hồ thì trong số khoảng 200 người nhảy qua, có ông Nguyễn
Văn Khanh. Và nếu như cách đây 40 năm, ông Bùi Cửu Viên không có quyết định
quay trở lại để cứu con tàu thì có lẽ bây giờ không có Giám đốc ban Việt ngữ
Nguyễn Văn Khanh của đài Á Châu tự do. Hòa Ái xin cám ơn ông Bùi Cửu Viên đã
dành thời gian chia sẻ câu chuyện kể của ông và Hòa Ái cũng xin cám ơn thời
gian của quý vị theo dõi câu chuyện kể này.
No comments:
Post a Comment