Posted on Sep 9, 2014
Theo quan điểm hiện hành của phương Tây, cuộc khủng
hoảng tại Ukraine xuất phát hầu như chính là từ những hành vi kích động từ nước
Nga. Thủ tướng Nga Vladimir Putin, theo quan điểm này, được cho rằng đã kích
động Crimea li khai, trong một tham vọng lâu dài nhằm khôi phục lại đế chế Xô
Viết, và thậm chí có thể ông còn đang nhắm đến phần còn lại của Ukraine, cũng
như các quốc gia Đông Âu khác. Theo quan điểm này, việc lật đổ tổng thống
Ukraine Viktor Yanukovych vào tháng 2 năm 2014 đơn thuần chỉ là việc đưa ra một
cái cớ cho ông Putin đưa ra quyết định cho phép quân đội Nga vào kiểm soát
Ukraine.
Tuy nhiên, quan điểm này là sai lầm. Bản thân Mỹ và
các nước đồng minh châu Âu mới là người thực sự chịu trách nhiệm nhiều nhất cho
cuộc khủng hoảng này. Nguyên nhân chính của vấn đề, là sự mở rộng của khối
NATO, là yếu tố trọng tâm của một chiến lược còn lâu dài hơn thế nhằm lôi kéo
Ukraine tách khỏi tầm ảnh hưởng của Nga, và sáp nhập nước này vào phương Tây.
Cùng thời điểm đó, sự mở rộng về phía Đông của các nước EU, cùng với sự hậu
thuẫn của các nước phương Tây với những hoạt động đòi quyền dân chủ ở Ukraine –
bắt đầu bằng cuộc Cách mạng Cam vào năm 2004 – là một điểm nhấn quan trọng. Từ
giữa những thập niên 90. những nhà lãnh đạo Nga đã quyết liệt phản đối sự mở
rộng của khối NATO, và trong những năm gần đây, họ đã làm rõ quan điểm của mình
rằng sẽ không thể ngồi yên khi quốc gia láng giềng chiến lược của mình trở
thành một điểm tập kết của quân đội các nước phương Tây. Đối với Putin, việc
lật đổ xảy ra với vị tổng thống thân Nga đã được dân cử này – ông thẳng thắn đề
cập về nó là một “cuộc đảo chính”, một giọt nước tràn ly. Ông ta đã phản hồi
lại bằng cách nắm lấy Crimea, một bán đảo mà ông e ngại rằng NATO có thể đặt
một cứ điểm hải quân ở đó, và ông cũng sẽ tiếp tục làm lung lay tình hình chính
trị tại Ukraine cho đến khi nước này từ bỏ nỗ lực gia nhập về phía các nước
phương Tây.
Những phản đối của Putin không thực sự gây bất ngờ.
Sau tất cả thì phương Tây đã đứng ngay ở sân nhà của nước Nga và trực tiếp đe
dọa đến lợi ích chiến lược của nước này, điều mà ông Putin đã nhấn mạnh và liên
tục nhắc lại. Các sự kiện này đã gây bất mãn cho giới nguyên thủ ở Mỹ và các
nước châu Âu, có lẽ bởi vì họ đã tin tưởng và đồng tình với một cái nhìn về
chính trị quốc tế có chút lệch lạc. Họ cho rằng học thuyết của chủ nghĩa hiện
thực hiện đã không còn liên quan đến thế kỷ hai mốt nữa, và châu Âu có thể tiếp
tục duy trì hòa bình và tự do trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc về luật
pháp, tự chủ kinh tế, và tinh thần dân chủ.
Tuy nhiên, dự định to lớn này hẳn là đã lệch hướng
khi bước chân đến Ukraine. Những cuộc khủng hoảng diễn ra ở nước này đã cho
thấy hệ thống những chính sách thực dụng vẫn còn giữ vai trò nhất định của nó
trong thời điểm này – vai trò mà trong thời kỳ khủng hoảng này của các quốc
gia, thì chính họ lại lờ nó đi. Những nhà lãnh đạo ở Mỹ và châu Âu vẫn tiếp tục
phạm những sai lầm nghiêm trọng khi cố gắng lôi kéo Ukraine trở thành một điểm
tựa chiến lược cho phương Tây, nằm ngay trên biên giới nước Nga. Bây giờ thì
khi kết quả đã lộ rõ ngay trước mắt, đây có thể sẽ còn là một sai lầm còn to
lớn hơn nếu tiếp tục chính sách ngớ ngẩn này.
LỜI
KHIÊU KHÍCH TỪ CHÂU ÂU
Khi Chiến tranh lạnh đang đến hồi kết thúc, những
nhà lãnh đạo Xô Viết đã mong muốn rằng quân đội Mỹ sẽ duy trì ở châu Âu, và
NATO vẫn sẽ tồn tại ổn định, một thỏa ước mà họ cho rằng sẽ giúp duy trì một
nước Đức thống nhất và ổn định. Thế nhưng họ, và những người kế tục của nước
Nga cũng không muốn một NATO phát triển lớn rộng hơn, và cho rằng những nhà
ngoại giao phương Tây cũng sẽ quan tâm đến vấn đề của họ. Còn chính quyền
Clinton thì lại nghĩ khác, trong những năm giữa thập niên 90, họ bắt đầu xúc
tiến mở rộng NATO.
Chặng đầu tiên của cuộc mở rộng này bắt đầu vào năm
1999, và mở rộng đến Cộng hòa Séc, Hungary và Phần Lan. Chặng thứ hai là vào
năm 2004; bao gồm Bulgaria, Estonia, Latvia, Lithuania, Romania, Slovakia và
Slovenia. Moscow ngay từ đầu đã có những lời chỉ trích khá bất mãn. Chẳng hạn
như trong chiến dịch ném bom tấn công những người Serbia ở Bosnia của quân NATO
vào năm 1995, tổng thống Nga Boris Yeltsin đã nói, “Đây là dấu hiệu đầu tiên
cho thấy điều gì có thể xảy đến, nếu để cho quân NATO tiến đến sát biên giới
của Liên Bang Nga. … Ngọn lửa chiến tranh có thể sẽ lan rộng ra khắp lãnh thổ
châu Âu.” Tuy nhiên, nước Nga khi đó quá yếu để có thể làm chệch hướng mở rộng
của NATO khỏi hướng Đông tiến – điều mà, dù thế nào chăng nữa, khi đó có vẻ
không nguy hiểm lắm, khi mà đương thời không có một quốc gia thành viên mới nào
của khối này đang chia sẻ biên giới với Nga, ngoại trừ các nước vùng Baltic bé
nhỏ.
Sau đó, NATO bắt đầu nhìn xa hơn về phía Đông. Trong
hội nghị các nước thuộc NATO vào tháng 4 năm 2008 tại Bucharest, các đồng minh
đã thừa nhận Georgia và Ukraine. Chính quyền tổng thống Mỹ George W.Bush đã
thông báo rõ vậy, nhưng, Pháp và Đức đã phản đối lại động thái này, lo ngại đây
có thể là một hành động chống lại Nga trắng trợn. Tại thời điểm cuối, các thành
viên NATO đi đến một hiệp định: các nước đồng minh đã không bắt đầu quá trình
gia nhập chính thức cho thành viên mới, tuy nhiên, họ đã công khai ủng hộ cho
Georgia và Ukraine, với tuyên bố mạnh dạn, “Các nước này sẽ trở thành thành
viên của NATO.”
Moscow, tuy nhiên, lại không có cùng cái nhìn về
những hậu quả mà hiệp định này sẽ mang đến. Alexdaner Grushko, sau là thứ
trưởng Bộ ngoại giao, đã nói, “Sự gia nhập thành viên của Georgia và Ukraine về
phe các nước đồng minh sẽ là một sai lầm vô cùng nghiêm trọng, sẽ gây ra hậu
quả nghiêm trọng nhất cho toàn bộ an ninh của châu Âu.” Putin tiếp tục xác nhận
hai quốc gia này, nếu có ý định gia nhập NATO, sẽ là mối đe dọa trực tiếp đến
nước Nga. Một tờ báo Nga đã công bố rằng, Putin, trong cuộc hội đàm với ông
Bush, đã “tiết lộ rất ẩn ý rằng nếu Ukraine được phép gia nhập vào NATO, sẽ
không cần phải nhắc đến sự tồn tại của họ nữa.”
Cuộc đổ bộ của Nga vào Georgia vào tháng 8 năm 2008
đã xua tan mọi nghi ngờ còn đọng lại về quyết tâm của Putin nhằm ngăn chặn
Georgia và Ukraine gia nhập NATO. Tổng thống Georgia Mikheil Saakashvili, người
đã cương quyết đưa nước này gia nhập NATO, vào mùa hè năm 2008 đã quyết định sẽ
tái sáp nhập hai vùng li khai là Abkhazia và Nam Ossetia. Tuy nhiên, Putin đã
cố gắng làm suy yếu Georgia và chia tách họ khỏi NATO. Sau khi chiến tranh nổ
ra giữa chính phủ Georgia và vùng li khai Nam Ossetia, quân đội Nga đã chiếm
quyền kiểm soát Abkhazia và Nam Ossetia. Moscow đã phải rất quyết đoán. Thế
nhưng, bất chấp những cảnh cáo rõ ràng này, NATO vẫn không chịu chính thức từ
bỏ việc mục tiêu của họ, mang Georgia và Ukraine quay lại gia nhập với các nước
đồng minh. Và NATO tiếp tục mở rộng, bằng việc đưa Albania và Croatia trở thành
thành viên của khối này.
EU cũng tiến hành việc mở rộng về phía Đông. Tháng 5
năm 2008, EU cho ra mắt sáng kiến về Đối tác chiến lược phía Đông của họ, một
chương trình nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng ở một số quốc gia như Ukraine và mong
muốn sáp nhập họ vào chung nền kinh tế EU. Không ngạc nhiên khi các lãnh đạo
Nga coi kế hoạch này như một sự khiêu khích, tổn hại đến các lợi ích của họ.
Tháng 2 đó, trước khi Yanukovych bị buộc phải từ chức, Ngoại trưởng Nga Sergey
Lavrov đã buộc tội EU đã cố gắng tạo ra một “khối ảnh hưởng” trên vùng Đông Âu.
Trong mắt của những lãnh đạo người Nga, sự mở rộng của EU chính là một con ngựa
dò đường cho sự mở rộng của NATO.
Công cụ cuối cùng của phương Tây nhằm lôi kéo Kiev
khỏi Moscow chính là các nỗ lực làm gia tăng giá trị phương Tây, và đẩy mạnh
dân chủ ở Ukraine và các nước hậu Xô Viết khác, một kế hoạch thường đi liền đến
việc đầu tư cho các cá nhân và tổ chức thân phương Tây. Victoria Nuland, trợ lý
thư ký Ngoại trưởng Mỹ đặc trách châu Âu và khu vực Âu – Á, ước tính, trong
tháng 12 năm 2013, nước Mỹ đã đầu tư hơn 5 tỉ đô la, từ năm 1991 vào việc hỗ
trợ Ukraine đạt được “tương lai họ xứng đáng được hưởng.” Như một phần của nỗ lực
này, chính phủ Mỹ đã hỗ trợ tài chính cho Quỹ Quốc gia vì Dân chủ. Quỹ không
lợi nhuận này đã tài trợ cho hơn 60 dự án nhằm mục tiêu thúc đẩy xã hội dân sự
ở Ukraine, và chủ tịch của NED, ông Carl Gershman, đã gọi nước này là “một niềm
hi vọng to lớn nhất.” Sau khi Yanukovych thắng cử tổng thống Ukraine năm 2010,
NED khẳng định mình vẫn chưa đạt được kết quả đáng mong đợi, vì thế, họ tiếp
tục những nỗ lực hỗ trợ các phe đối lập và đẩy mạnh hoạt động của những tổ chức
vì dân chủ ở nước này.
Khi các nhà lãnh đạo Nga nhìn vào bộ máy xã hội
phương Tây đang phát triển ở Ukraine, họ lo lắng rằng có thể nước Nga rồi đây
cũng sẽ như thế. Và những nỗi sợ đó hoàn toàn không phải là không có cơ sở.
Tháng 9 năm 2013, Gershman đã viết trên tờ Bưu điện Washington, “Lựa chọn gia
nhập EU của Ukraine sẽ đẩy nhanh sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc Nga mà đại
diện là ông Putin.” Ông còn nói thêm :”Người Nga cũng vậy, họ phải lựa chọn, và
Putin có thể nhìn thấy chính mình trong một kết cục đánh mất không chỉ là những
vùng lân cận của nước Nga, mà còn cả chính bản thân nước Nga nữa.”
KÍCH
ĐỘNG KHỦNG HOẢNG
Hãy thử tưởng tượng xem, cơn giận dữ của Mỹ sẽ lớn
thế nào nếu Trung Quốc xây dựng một liên minh quân sự hùng hậu, trong đó có cả
Canada và Mexico.
Gói bộ ba chính sách của phương Tây – sự mở rộng của
NATO, sự mở rộng của EU, và đẩy mạnh dân chủ – đã thêm dầu vào ngọn lửa chực
chờ nổ ra. Điểm nhấn là vào tháng 11 năm 2013, khi Yanukovych từ bỏ hiệp ước
kinh tế chiến lược ông đã ký kết với EU để chấp nhận 15 tỉ đô la mua nợ của
Nga. Quyết định này đã làm dấy lên làn sóng biểu tình chống chính phủ lan rộng
và kéo dài trong suốt 3 tháng sau đó, mà vào trung tầm tháng 2, đã dẫn đến cái
chết của vài trăm người biểu tình. Các nhà ngoại giao phương Tây đã phải nhanh
chóng bay đến Kiev để giải quyết cuộc khủng hoảng. Vào ngày 21 tháng 2, chính
phủ và phe đối lập đã thỏa ước sẽ để cho Yanukovych nắm giữ quyền lực cho đến
khi cuộc bầu cử mới được tổ chức. Nhưng thỏa ước đó đã bị thất bại ngay lập
tức, và Yanukovych phải chạy trốn sang Nga ngay ngày hôm sau. Chính phủ mới ở
Kiev là một chính phủ thân phương Tây và chống lại Nga thuần túy, và hàm chứa
trong đó bốn thành viên cấp cao đều là những thành viên được gán cho tư tưởng
phát xít mới.
Bất kể sự rằng sự góp mặt của Mỹ có thể vẫn chưa rõ
ràng, những rõ ràng là Washington đã đứng sau cuộc đảo chính này. Nuland và
thượng nghị sĩ John McCain đã tham gia vào cuộc biểu tình chống chính phủ, và
Geoffrey Pyatt, đại sứ quán Mỹ ở Ukraine, đã tuyên bố sau cuộc lật đổ
Yanukovych rằng đó là “một ngày đáng nhớ trong lịch sử.” Như trong một đoạn ghi
âm điện thoại bị rò rỉ được phát hiện, Nuland đã ủng hộ việc thay đổi chế đố và
mong muốn chính trị gia người Ukraine Arseniy Tatsenyuk trở thành thủ tướng của
chính phủ mới, và ông đã làm vậy. Không khó hiểu rằng người Nga lại nghĩ rằng
phương Tây thực sự một phần đứng sau cuộc lật đổ ông Yanukovych.
Với Putin, thời điểm để chống lại Ukraine và phương
Tây đã đến. Không lâu sau ngày 22 tháng 2, ông ra lệnh cho quân đội Nga chiếm
Crimea khỏi Ukraine, và rất sớm sau đó, ông sáp nhập nó vào lãnh thổ Nga. Nhiệm
vụ này trở nên tương đối dễ dàng, khi mà hàng nghìn trại lính của quân đội Nga
đã đóng sẵn ở căn cứ hải quân của Crimea, cảng Sevastopol. Crimea, một phần
cũng là một mục tiêu đơn giản, khi có đến 60% dân số ở đây là gốc Nga. Hầu hết
họ đều đã muốn thoát ly khỏi Ukraine.
Tiếp theo đó, Putin tiếp tục gây áp lực lên chính
phủ mới ở Kiev, và ngăn họ đứng về phe phương Tây và chống lại Moscow, và nhấn
mạnh rõ ràng rằng ông sẽ tìm mọi cách phá hỏng chính phủ đương thời ở Ukraine,
trước khi họ trở thành một chỗ chỗ dựa cho phương Tây ngay trước cửa nhà của
nước Nga. Để hướng tới mục tiêu đó, ông đã cung cấp các chuyên gia, trang bị vũ
khí, và những hỗ trợ về mặt ngoại gia cho quân đội li khai ở phía đông Ukraine,
những người đang đẩy đất nước vào cuộc nội chiến. Ông tập trung một số lượng
lớn quân đội vũ trang gần biên giới với Ukraine, và hăm dọa sẽ cho tiến quân
vào nếu chính phủnước này còn cố tiếp tục đàn áp quân nổi dậy. Và ông cũng đẩy
giá khí đốt của Nga bán cho Ukraine lên rất cao, đồng thời đòi thanh toán cho
những khoản xuất khẩu trước đó. Putin đang chơi cứng rắn.
PHỎNG
ĐOÁN
Hành động của Putin quả thực dễ hiểu. Một vùng đất
rộng lớn bằng phẳng mà từ Napoleon của Pháp, cho đến đế chế Đức và Đức Quốc xã
đã phải vượt qua để tấn công vào nước Nga, thì vai trò của Ukraine quả thực là
một khu vực trung gian mang ý nghĩa chiến lược sống còn đối với nước Nga. Không
một nhà lãnh đạo Nga nào lại chấp nhận một liên minh quân sự đã từng là phe cực
đối địch của mình lại tìm cách thâu tóm Ukraine. Và cũng không lãnh đạo người
Nga nào có thể đứng yên nhìn trong khi các nước phương Tây đang hỗ trợ cho
chính phủ ở đó tiến hành việc sáp nhập Ukraine về phía phương Tây.
Washington, có thể không thích cách làm của Moscow,
nhưng họ phải hiểu được cái lý lẽ nằm sau nó. Địa chính trị 101: Sức mạnh to
lớn thì luôn đi kèm với sự nhạy cảm về những mối đe dọa tiềm ẩn ở gần lãnh thổ
của mình. Trên tất cả, thì Mỹ đã không chấp nhận được việc một cường quốc nào
từ xa thực hiện việc tập kết quân đội ở bất cứ đâu trên khu vực Tây bán cầu, và
nhất là trên biên giới của họ. Cứ thử tưởng tượng, Washington có thể nổi giận
thế nào nếu Trung Quốc xây dựng được một liên minh quân sự đáng gờm bao gồm cả
Canada và Mexico. Và về mặt lý thuyết mà nói, những nhà lãnh đạo người Nga đã
nhiều lần nhắc nhở các đối tác phương Tây rằng họ đánh giá việc mở rộng của
NATO vào tới Georgia và Ukraine là không thể chấp nhận được, đi cùng với bất kỳ
nỗ lực nào cố gắng lôi kéo các nước này chống lại Nga – trong một lời nhắn gửi
mà chiến tranh Nga – Georgia năm 2008 đã nhấn mạnh rõ ràng.
Các quan chức cấp cao của Mỹ và các đồng minh châu
Âu đã thừa nhận rằng họ sẽ tiếp tục cố gắng làm suy giảm bớt độ nghiêm trọng
của nỗi sợ Nga và rằng Moscow nên hiểu rằng NATO không có kế hoạch nào đối với
Nga cả. Tiếp tục hơn nữa, để phủ nhận sự mở rộng của mình không ngắm tới Nga,
các nước đồng minh sẽ không thực hiện tập kết quân sự trong một thời gian dài
trước mắt tại các nước thành viên mới của họ. Năm 2002, họ thậm chí còn thành
lập một bộ gọi là Ủy ban NATO – Nga với một nỗ lực đẩy mạnh sự hợp tác. Để tiếp
tục xoa dịu Nga, Mỹ, vào năm 2009 đã lên tiếng thông báo rằng họ sẽ tập kết hệ
thống phòng thủ tên lửa trên biển mới nhất tại vùng biển châu Âu, và khởi đầu,
ít nhất, là trên lãnh thổ Czech và Phần Lan. Nhưng dường như không một phương
pháp nào ở trên có vẻ hiệu quả cả, người Nga vẫn giữ trong lòng một sự cương
quyết nhất định trong việc ứng phó với sự mở rộng của NATO, kẻ mà cuối cùng, đã
được cho là sẽ thành mối họa cho họ.
Để hiểu rằng tại sao phương Tây, đặc biệt là Mỹ, lại
thất bại trong nỗ lực phỏng đoán hệ lụy từ các chính sách mà họ áp dụng với
Ukraine, chúng ta phải nhìn lại về giữa những năm 1990, khi mà chính phủ
Clinton bắt đầu ủng hộ sự mở rộng của NATO.Các chuyên gia cấp cao đã tiến hành
rất nhiều những thảo luận về việc nên ủng hộ hay ngăn cản sự mở rộng, nhưng vẫn
chưa đưa ra được một sự đồng thuận nào cả. Hầu hết cư dân tị nạn từ các nước
Đông Âu ở Mỹ và các nước lân cận, chẳng hạn, rất ủng hộ sự mở rộng này, bởi vì
họ muốn NATO sẽ bảo vệ các quốc gia như Hungary hay Phần Lan. Một số người theo
tư tưởng thực tế thì cũng ủng hộ chính sách này. Họ cho rằng hiện tại, nước Nga
vẫn cần được kiểm soát.
Tuy nhiên, đa số những người thực tế thì vẫn phản
đối sự mở rộng, vì họ tin rằng một cường quốc đang bị hạn chế bởi dân số đang
già hóa, cùng với nền kinh tế một chiều thì thực sự không cần thiết phải kiểm
soát chặt. Và họ e ngại rằng sự mở rộng này sẽ chỉ khiến cho Moscow có một động
lực để gây hấn trên khu vực Đông Âu. Nhà ngoại giao Mỹ George Kennan đã nêu rõ
quan điểm này trong một bài phỏng vấn năm 1998, chỉ ngay sau khi Thượng viện Mỹ
thông qua chặng đầu tiên trong chương trình mở rộng NATO. “Tôi nghĩ rằng nước
Nga sẽ dần dà phát sinh các phản ứng tiêu cực, và điều này sẽ ảnh hưởng đến các
chính sách của họ nữa,” ông nói. “Tôi cho rằng đây sẽ là một sai lầm chiến
lược. Chẳng có lý do nào cho việc này cả. Sẽ chẳng có việc ai hăm dọa ai cả.”
Trong khi đó, hầu hết những người theo quan điểm tự
do thì lại ủng hộ sự mở rộng này, và bao gồm cả những thành viên chủ chốt của
chính phủ Clinton. Họ tin tưởng rằng kết thúc của Chiến tranh lạnh đã chuyển
biến hoàn toàn cục diện chính trị quốc tế sang một trạng thái mới, và trật tự
thế giới mới đã thay đổi hoàn toàn, thay thế những lý thuyết thực dụng đã từng
được áp dụng lên các chính phủ châu Âu. Nước Mỹ không phải quốc gia “không thể
thiếu,” như Ngoại trưởng Madeleine Albright đã đề cập, Mỹ cũng là một quốc gia
có vai trò dẫn dắt một cách trung hòa, và do đó, gần như không được đánh giá
như một mối đe dọa với Moscow. Mục tiêu là, quan trọng hơn cả, là làm sao biến
phần còn lại của châu Âu trở thành các quốc gia giống như Đông Âu.
Vì thế, nước Mỹ và các đồng minh của họ đã tìm cách
đẩy mạnh phong trào dân chủ ở các quốc gia Đông Âu, cùng với việc đẩy mạnh sự
tự chủ kinh tế của họ, và đưa họ vào các tổ chức quốc tế. Chiến thắng trong
cuộc luận bàn tại Mỹ, những người mang tư tưởng tự do lại vấp phải những khó
khăn trong việc tìm cách thuyết phục những đồng minh châu Âu hỗ trợ sự mở rộng
của NATO. Sau tất cả, với những thành tựu đã đạt được trong quá khứ, châu Âu
còn thấy hứng thú hơn cả Mỹ, với quan điểm cho rằng địa chính trị giờ đây không
còn là một vấn đề đặc biệt quan trọng, và rằng một nền trật tự tự do đầy đủ có
thể duy trì được hòa bình ở châu Âu.
Vậy là cho đến nay, những tư tưởng tự do đã hoàn
toàn khống chế các lý luận về vấn đề an ninh châu Âu trong nửa đầu thế kỷ này,
thậm chí ngay cả các nước đồng minh cũng đã thông qua những chính sách phát
triển theo hướng mở cửa thì sự mở rộng của NATO giờ chỉ vấp phải rất ít những ý
kiến trái chiều theo tư tưởng thực tế. Thế giới quan theo tư tưởng tự do giờ đã
được chấp nhận một cách rất giáo điều trong giới chính trị Mỹ. Chẳng hạn như
vào tháng 3, tổng thống Barack Obama đã gửi một bài phát biểu đến Ukraine, mà
trong đó ông đã liên tục nhấn manh “lý tưởng” đã thúc đẩy các chính sách của
giới phương Tây và cách mà những lý tưởng này “đang bị đe dọa bởi những cái
nhìn xưa cũ và lạc hậu về quyền lực.” Hồi đáp của ngoại trưởng Mỹ John Kerry về
cuộc khủng hoảng ở Crimea cũng đã phản ánh lại quan điểm này: “Bạn không thể
đứng trong thế kỷ hai mốt mà ứng xử theo cách của những thế kỷ mười chín, tấn
công một đất nước khác với những lý do vu khống được.”
Quan trọng hơn cả, hai bên đang chơi với hai luật
chơi khác nhau: Putin và những đồng bào của mình thì đang suy nghĩ và hành động
theo những quan điểm thực tế, trong khi những đối tác phương Tây của họ thì lại
cứ bám vào những ý tưởng về tự do chính trị quốc tế. Kết quả là Mỹ và các đồng
minh của họ cũng không nhận ra họ đang là nguyên nhân chính cho cuộc khủng
hoảng ở Ukraine.
TRÒ
ĐỔ LỖI
Trong cùng cuộc phỏng vấn vào năm 1998, Kennan đã
tiên đoán rằng sự mở rộng của NATO sẽ gây ra khủng hoảng, và ngay sau đó, những
người ủng hộ cho sự mở rộng đã “nói rằng, chúng tôi đã nói với ông rằng vì họ
là người Nga mà.” Và ngay lập tức, hầu hết những nhà ngoại giao phương Tây đã
mô tả về ông Putin như một thủ phạm thực sự cho tình trạng bất ổn ở Ukraine.
Vào tháng 3, theo tờ Thời báo New York, thủ tướng Đức Angela Merkel đã gián
tiếp đề cập rằng ông Putin đã ứng xử không hợp lý, và cũng bảo với ông Obama
rằng, ông ta “đang đứng trong một thế giới khác.” Mặc dù không nghi ngờ gì
rằng, Putin là một người có khuynh hướng xử sự độc đoán, nhưng cũng chẳng có
một bằng chứng nào có thể chứng minh cho cáo buộc rằng ông mang tinh thần không
ổn định. Trái lại, ông là một nhà chiến lược hàng đầu, mà ắt hẳn bất cứ ai muốn
trở thành đối thủ của ông trên trường chính trị quốc tế đều phải dè chừng và kính
trọng.
Các nhà phân tích còn đưa ra các cáo buộc hợp lý lẽ
hơn, rằng Putin đang hối tiếc vì sự sụp đổ của nhà nước Liên minh Xô viết, và
ông sẽ quyết tâm vực dậy nó, bằng việc mở rộng đường biên giới của nước Nga.
Dựa trên lý do này, Putin đã tiếp quản Crimea, và bây giờ đang dò xét xem bao
giờ sẽ là thời điểm thích hợp để tiến tới tiếp quản Ukraine, hoặc ít nhất sẽ là
phần miền Đông nước này, và thực sự là ông đã thực hiện ứng xử khá là thô bạo
với một vài quốc gia láng giềng khác với Nga. Và Putin, có vẻ như là một đại
diện cho tinh thần Adolf Hitler kiểu mới, và việc tiến tới ký kết bất kỳ một
thỏa hiệp nào với ông ấy đều có thể lặp lại sai lầm xảy ra ở Munich. Do đó,
NATO phải chấp nhận Georgia và Ukraine, để có thể kiểm soát Nga trước khi họ
gây dựng tầm ảnh hưởng lên trển các nước láng giềng của mình và đe dọa đến cả
các nước Tây Âu.
Tuy nhiên, lập luận này nhanh chóng sụp đổ khi suy
xét một cách cẩn thận. Nếu Putin có quyết tâm xây dựng một nước Nga rộng lớn
hơn, ắt hẳn ý định của ông ta đã phải được thực hiện trước ngày 22 tháng 2. Thế
nhưng, gần như chẳng có bằng chứng nào cho thấy ông đã quyết tâm đoạt quyền
kiểm soát Crimea, cũng như là các vùng lãnh thổ khác ở Ukraine trước đó. Thậm
chí ngay cả những nhà lãnh đạo phương Tây mang tinh thần ủng hộ sự mở rộng của
NATO cũng đã không đứng ngoài nỗi lo rằng nước Nga sẽ sử dụng đến các biện pháp
quân sự. Động thái của Putin ở Crimea làm họ hết sức ngạc nhiên và dường như,
đó đã là một phản ứng tự nhiên với vụ lật đổ ông Yanukovych. Ngay sau đó, Putin
đã tuyên bố không ủng hộ sự li khai của nhân dân Crimea, trước khi rất nhanh
chóng thay đổi quyết định của mình.
Bên cạnh đó, ngay cả khi nước Nga muốn mở rộng, họ
vẫn thiếu khả năng để có thể dễ dàng tiếp quản và chiếm lấy miền Đông Ukraine,
chưa nói đến là toàn bộ đất nước này. Hơn 15 triệu dân – chiếm đến một phần ba
dân số của Ukraine – nằm giữa sông Dniepper, con sông chia đôi đất nước, và
biên giới với Nga. Tuyệt đại đa số những người có mong muốn giữ nguyên phần còn
lại của lãnh thổ Ukraine sẽ không chịu khuất phục sự chiếm đóng của quân đội
Nga. Hơn thế nữa, quân đội Nga chỉ thuộc về mức trung tầm, vốn chẳng thể hiện
được rằng mình sẽ có thể trở nên mạnh hơn như một đội quân Wehrmacht hiện đại,
và cũng có rất ít khả năng có thể ổn định được toàn bộ đất nước Ukraine. Moscow
dường như cũng không thể chắc chắn được rằng mình có đủ khả năng để chi trả các
chi phí cho cuộc bình ổn này không, nền kinh tế yếu kém của họ có thể sẽ còn
phải chịu những tổn hại nặng nề hơn trước tác động của những lệnh trừng phạt
kinh tế.
Nhưng ngay cả khi nước Nga có khoa trương về những
máy móc quân đội hùng hậu, và nền kinh tế ấn tượng của mình, thì ít nhất họ vẫn
không thể chứng tỏ được khả năng tiếp quản Ukraine. Chúng ta chỉ cần nhìn vào
những kinh nghiệm của Xô Viết và Mỹ ở Afghanistan, những kinh nghiệm của Mỹ tại
Việt Nam và Iraq, và những kinh nghiệm của Nga ở Chechnya để có thể nhận thấy
sự tiếp quản một đất nước bằng quân đội thường sẽ dẫn đến những hậu quả tồi tệ.
Putin chắc hẳn phải hiểu rằng việc cố gắng chiếm quyền kiểm soát Ukraine sẽ rất
khó khăn, tựa như nuốt một con nhím vậy. Các hồi đáp trước những sự kiện này
của ông sẽ chỉ mang tính dè chừng, chứ không thiên về phản kháng.
MỘT
LỐI THOÁT
Hầu hết những nhà ngoại giao phương Tây đang tiếp
tục phủ nhận một sự thực rằng các ứng xử của Putin có thể xuất phát từ một mối
lo ngại an ninh đúng nghĩa. Cũng không đáng ngạc nhiên khi họ đã cố gắng để
điều chỉnh chúng và gia tăng các chính sách hiện thời của họ, và ra các chính
sách trừng phạt Nga để ngăn chặn những hành động xâm phạm của Nga. Mặc dù Kerry
đã duy trì quan điểm rằng “tất cả các phương án đã được đem ra thảo luận”, thì
cả Mỹ và các đồng minh NATO đều không có sự chuẩn bị gì cho phương án sử dụng
quân sự để bảo vệ Ukraine. Phương Tây đang dựa dẫm vào những chính sách trừng
phạt kinh tế của mình để ngăn chặn việc nước Nga tiếp tục hỗ trợ quân nổi dậy ở
phía Đông Ukraine. Vào tháng 7, Mỹ và các nước EU đã áp đặt thêm các lệnh trừng
phạt cấm vận kinh tế đợt ba cho nước Nga, và nhắm tới chủ yếu các cá nhân cấp cao
có quan hệ chặt chẽ với chính phủ Nga, cùng một số ngân hàng tên tuổi, các công
ty năng lượng, và các doanh nghiệp quốc phòng. Họ cũng đưa ra lời đe dọa sẽ
triển khai thêm những đợt trừng phạt khác, mạnh tay hơn đợt này, và sẽ nhắm đến
tất cả các thành phần của nền kinh tế Nga.
Những biện pháp này hiệu quả có vẻ không cao. Những
biện pháp trừng phạt mạnh tay giờ đây dường như đã không còn hiệu quả chung
nữa, và các nước Tây Âu, đặc biệt là Đức, sẽ không đưa ra một luật trừng phạt
mới với nỗi lo bị nước Nga trả thù, và giáng những đòn nặng nề lên nền kinh tế
EU. Nhưng thậm chí nếu Mỹ có thể thuyết phục các đồng minh của mình ban hành
các phương pháp trừng phạt khắc nghiệt này, Putin vẫn sẽ không sẽ không thay
đổi việc ra quyết định của mình. Lịch sử đã cho thấy đất nước này sẽ sẵn sàng
hứng chịu tất cả các lệnh trừng phạt để bảo vệ những lợi ích chiến lược của
mình. Và chẳng có lý do nào để Nga đưa ra một ngoại lệ cho trường hợp này.
Các nhà lãnh đạo phương Tây cũng đã bám dựa vào các
chính sách khiêu khích đã gây ra cuộc khủng hoảng ngay từ đầu. Vào tháng 4, phó
tổng thống Mỹ Joseph Biden đã có cuộc gặp với cơ quan lập pháp của Ukraine và
bảo họ rằng, “Đây là cơ hội thứ hai để thực hiện lời hứa đã được đưa ra trong
cuộc Cách mạng Cam.” John Brennan, giám đốc CIA, đã không hỗ trợ được gì khi
đó, cùng tháng, ông đã đến thăm Kiev trong một chuyến đi mà được Nhà Trắng cho
biết là nhằm mục tiêu cải thiện hợp tác an ninh khu vực với chính phủ Ukraine.
Trong khi đó, EU lại tiếp tục đẩy nhanh chương trình
Đối tác phương Đông của họ. Vào tháng 3, José Manuel Barroso, chủ tịch Ủy ban
châu Âu, đã đưa ra suy nghĩ của EU về Ukraine, đã nói rằng, “Chúng ta có một
khoản nợ, một nghĩa vụ phải hỗ trợ quốc gia này, và chúng ta sẽ làm việc, để
tiến đến với họ càng gần, càng tốt.” Và chắc chắn hơn nữa, ngày 27 tháng 6, EU
và Ukraine đã ký một thỏa thuận kinh tế mà Yanukovych đáng tiếc đã từ bỏ nó bảy
tháng về trước. Cũng vào tháng 6 đó, tại cuộc họp của bộ trưởng ngoại giao các
nước thành viên NATO đã thống nhất rằng quân đồng minh sẽ để ngỏ cho các thành
viên mới, mặc dù các bộ trưởng ngoại giao đã không thẳng thắn đề cập đến
Ukraine. “Không một quốc gia thứ ba nào có quyền ngăn chặn việc mở rộng của
NATO,” tổng thư ký NATO Anders Fogh Rasmussen thông báo. Các bộ trưởng ngoại giao
cũng nhất trí đồng thuận về việc hỗ trợ theo nhiều cách khác nhau cho việc cải
thiện năng lực quân sự của Ukraine trong các lĩnh vực chung như chỉ huy và điều
hành, công tác hậu cần và an ninh điện tử. Các lãnh đạo người Nga, lẽ tự nhiên
sẽ phản bác những hành động này; những phản ứng của phương Tây với cuộc khủng
hoảng sẽ chỉ làm tình hình thêm tồi tệ.
Có một giải pháp cho cuộc khủng hoảng tại Ukraine,
tuy nhiên – dẫu nó sẽ buộc phương Tây phải nhìn nhận quốc gia này theo một cách
hoàn toàn mới. Nước Mỹ và các đồng minh của họ cần phải từ bỏ kế hoạch phương
Tây hóa Ukraine và thay vào đó, hãy ngắm đến việc xây dựng một quốc gia trung
lập giữa NATO và Nga, tương tự như vai trò của Austria trong cuộc Chiến tranh
lạnh. Các nhà lãnh đạo phương Tây nên tìm hiểu được vấn đề của Ukraine với
Putin, rằng họ không thể xây dựng một chính quyền chống nước Nga ở đó được.
Điều này cũng không có nghĩa là trong tương lai, sẽ có sự hình thành một chính
phủ Ukraine thân Nga và chống phương Tây. Trái lại, mục đích chính là một
Ukraine độc lập, chẳng thuộc quyền lực của cả phe thân Nga hay về phe phương
Tây.
Để đạt được mục tiêu này, nước Mỹ và các nước đồng
minh cần phải chính thức hóa sẽ bỏ qua việc mở rộng NATO với các nước Georgia
và Ukraine. Phương Tây cũng nên hỗ trợ việc định hình một kế hoạch giải cứu
kinh tế với Ukraine, với vốn hình thành tự chung sức của các nước EU và quỹ
IMF, nước Nga và cả nước Mỹ – một lời mời mà có thể Moscow sẽ rất chào đón, còn
phải kể đến lợi ích của một Ukraine thịnh vượng và ổn định trên sườn Tây của
nước Nga. Và phương Tây cũng nên cân nhắc giới hạn lại những nỗ lực xây dựng xã
hội bên trong Ukraine. Đã đến lúc phải ngừng những việc sẽ xúc tiến một cuộc
Cách mạng cam khác. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo Mỹ và châu Âu cũng nên khuyến
khích Ukraine tôn trọng những quyền của thiểu số, và đặc biệt là những quyền
ngôn ngữ của bộ phận những người nói tiếng Nga.
Một số người có thể tranh cãi về việc thay đổi các
chính sách về Ukraine vào bây giờ đã là quá muộn, và sẽ làm tổn hại nghiêm
trọng uy tín của nước Mỹ trên toàn thế giới. Không nghi ngờ gì rằng sẽ có những
hao tổn nhất định, nhưng những tổn thất nếu cố gắng duy trì một chiến lược sai
lầm sẽ còn lớn hơn. Hơn thế nữa, các quốc gia khác hầu như sẽ tôn trọng một
quốc gia học được từ những sai lầm của họ và hơn hết tìm ra được những giải
pháp hữu hiệu để đương đầu với những vấn đề trước mắt. Lựa chọn này, rõ ràng là
rất triển vọng cho nước Mỹ.
Chúng ta cũng nghe nói đến rằng Ukraine nên có quyền
quyết định họ muốn làm đồng minh với ai và nước Nga không có quyền ngăn chặn
Kiev gia nhập với phương Tây. Thật là nguy hiểm nếu để Ukraine nghĩ vậy về
chính sách ngoại giao của họ. Một sự thật đáng buồn là điều này thường đúng,
trên cuộc chơi của những nước có thế mạnh chính trị. Những quyền trừu tượng, kiểu
như quyền tự quyết hầu như thật vô nghĩa khi các nước lớn lôi kéo các nước nhỏ
vào các tranh chấp. Cuba có quyền thành lập một liên minh quân sự với Xô Viết
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh không? Nước Mỹ chắc chắn đã không nghĩ vậy, và
người Nga cũng nghĩ giống thế về việc để Ukraine gia nhập vào phương Tây. Đó là
quyền lợi của Ukraine để hiểu sự thực lẽ đời và ứng xử cẩn trọng với những nước
láng giềng đầy quyền lực.
Tuy nhiên, ngay cả với những ai từ chối những lập
luận này, và tin rằng Ukraine có quyền xin tham gia vào EU hay NATO, một thực
tế vẫn còn đó là việc Mỹ và các đồng minh châu Âu của họ cũng có quyền đề từ
chối lời đề nghị này. Chẳng có lý do gì phương Tây phải cho Ukraine một chỗ để
dựa vào khi nước này bản thân đang thực hiện những chính sách ngoại giao sai
lầm, nhất là khi với họ, sự an toàn của Ukraine cũng không phải là một vấn đề
sống còn. Chiều theo mong mỏi của một số người dân Ukraine, thật chẳng đáng với
những xung đột và thù địch mà điều này gây ra, đặc biệt là cho người dân nước này.
Dĩ nhiên, một số nghiên cứu có thể thừa nhận rằng có
thể NATO đang ứng xử rất kém trong quan hệ với Ukraine, và thực sự thì Nga là
một đối thủ ngày càng mạnh hơn –và phương Tây không có cách nào khác ngoài việc
tiếp tục những chính sách hiện thời của họ. Nhưng quan điểm này hoàn toàn sai
lầm. Nước Nga đang là một cường quốc đang suy yếu, và họ sẽ chỉ ngày càng suy
yếu đi. Ngay cả khi Nga có là một cường quốc đang mạnh hơn, thì tuy vậy, họ
cũng chẳng có ý nghĩa gì để cho phép Ukraine gia nhập NATO. Lý do đơn giản là,
nước Mỹ và các nước đồng minh châu Âu không coi Ukraine như một lợi ích chiến
lược, và sự không mong muốn phải can thiệp quân sự cho việc hỗ trợ nước này đã
được chứng minh. Do đó, thật quá đỗi ngớ ngẩn để cho gia nhập một thành viên
NATO mới mà các nước thành viên khác còn không có mong muốn bảo vệ họ. NATO có
thể mở rộng trong quá khứ là do tư tưởng tự do đã cho phép các nước đồng minh
sẽ không đề cao một sự đảm bảo an ninh, nhưng sự lớn mạnh gần đây của nước Nga
đã khiến cho việc trao cho Ukraine cơ hội gia nhập NATO sẽ đặt nước Nga và
phương Tây vào một cuộc xung đột.
Bám chặt vào các chính sách hiện tại cũng sẽ càng
làm phức tạp hóa quan hệ của phương Tây với Moscow về các vấn đề khác. Nước Mỹ
cần sự hỗ trợ của Nga trong việc rút các quân trang thiết bị của Mỹ từ
Afghanistan qua lãnh thổ của Nga, hoặc đạt đến một thỏa thuận hạt nhân với
Iran, hay việc ổn định tình hình ở Syria. Trên thực tế, Moscow đã từng giúp đỡ
Washington trong tất cả những vấn đề trên trong quá khứ; mùa hè năm 2013, khi
Putin đã giải cứu cho các chính sách của Obama và thực hiện những nỗ lực thỏa
thuận với Syria, khiến nước này thực hiện việc giải giáp vũ khí hóa học của họ
từ đó, tránh được nguy cơ những cuộc tấn công quân sự mà ông Obama đã đưa ra.
Nước Mỹ, một lúc nào đó cũng sẽ cần đến những hỗ trợ của nước Nga trong việc
kiềm chế một Trung Quốc đang lớn mạnh. Tuy nhiên, những chính sách của Mỹ hiện
thời lại chỉ cho Moscow tiến đến gần hơn với Bắc Kinh.
Nước Mỹ và các nước đồng minh châu Âu của họ giờ
đang phải đương đầu với những lựa chọn về Ukraine. Họ có thể duy trì chính sạch
hiện tại, điều này sẽ làm căng thẳng thêm xung đột với Nga, và làm hỏng mọi nỗ
lực với Ukraine – một kịch bản mà tất cả mọi người đều sẽ là kẻ thua cuộc. Hoặc
họ có thể thay đổi cách làm của mình, và xây dựng một Ukraine thịnh vượng và
trung lập, một kết quả sẽ không làm tổn hại đến nước Nga, và cho phép phương
Tây có cơ hội sửa chữa mối quan hệ với Moscow. Bằng cách này thì tất cả đều là
người thắng cuộc, đôi bên cùng có lợi.
John
J. Mearsheimer
No comments:
Post a Comment