Lưu Hà
Sĩ Tâm
2/04/2013
Khi
đất nước lâm vào thời kỳ khó khăn và khủng hoảng kéo dài vài chục năm qua, dẫn
đến tụt hậu quá xa về mọi mặt so với bè bạn năm châu, nhân dân ta rất chính
đáng khi đặt câu hỏi rất tha thiết: Nhân tài đất Việt ở đâu? Trí thức Việt ở
đâu?
Trước
khi vào câu chuyện bàn luận này, xin được nhìn nhận vấn đề với việc không nên
tuyệt đối hóa một vài khái niệm ở đây.
“Trí
thức”
có thể hiểu đơn giản là người làm việc trí óc là chủ yếu trong chuyên môn của
họ, hoặc muốn hiểu sát nghĩa hơn, rằng họ còn cần phải thể hiện trách nhiệm xã
hội nữa (bằng chính kiến và hành động).
“Vô
hiệu hóa đóng góp cho xã hội” theo hướng tích cực, là một quá trình diễn
ra với đối tượng (từng cá nhân, số đông, tổ chức…), làm suy giảm hiệu quả đóng
góp cho xã hội của đối tượng, với các mức độ khác nhau ở từng thời điểm, gọi là
vô hiệu hóa từng phần. Thời điểm tồi tệ là vô hiệu hóa hoàn toàn, nghĩa là đối
tượng không còn tác dụng gì trong phạm vi chức năng đối với xã hội. Lại có thời
điểm tồi tệ hơn nữa, khi có hiện tượng phản hiệu quả, làm cho đối tượng trở
thành gây hại cho xã hội.
“Nhân
tài”
được hiểu đơn giản là những người rất có năng lực (so với những người khác cùng
hoàn cảnh) cho việc đóng góp cho xã hội.
Chúng
ta dễ dàng đồng ý với nhau rằng, thời phong kiến, nhân tài chỉ có “đất phát”
(môi trường tốt cho phát huy) khi gặp được “minh quân”. Minh quân cao nhất thì
đó là vua sáng suốt, nhưng thấp hơn (và bỏ qua ràng buộc bởi ngôn từ, để dùng
cách nói dân dã) thì đó còn nói đến các quan với các phẩm trật khác nhau (các
cụ ta khi xưa ít dùng từ “minh quan”). Minh quân biết “dụng nhân như dụng mộc”,
nôm na là thợ mộc biết dùng loại gỗ nào vào việc gì cho tốt, thì minh quân biết
dùng người có năng lực ra sao vào những công việc nào cho ích lợi nhất. Nhưng
minh quân thực sự phải là người biết tối thiểu hóa các ràng buộc với thuộc cấp,
để cho họ có không gian tự do cần thiết về trí tuệ và hành động, để kích thích
tiềm năng sáng tạo của họ trong phụng sự xã tắc. Minh quân hiển nhiên phải biết
cách “đãi hiền”, không nhất thiết phải luôn ban phát bổng lộc cho người tài, mà
tối thiểu là phải “đãi bởi tinh thần”, nghĩa là xự xử công minh: người làm tốt
phải được đánh giá cao hơn, trân trọng hơn so với những kẻ bất tài, làm thì tồi
tệ, nhưng dẻo mép dối trên lừa dưới. Phải có minh quân ở tầm cao thì mới phát
sinh nhiều minh quân ở tầm thấp hơn, và nhờ thế mà xã tắc mới có cơ thịnh
vượng.
Ngày nay ở nước ta
thì sao?
Vì rằng Đảng thường nói đến lãnh đạo tập thể, thì đối với quốc gia, vai trò
“quân” giờ đây chính là Đảng. Đảng ép buộc thiên hạ ngày xưa phải “trung quân”
thì giờ đây, nhất là lực lượng vũ trang, phải “trung với Đảng”. Mọi phương tiện
tuyên truyền của Đảng trước sau kiên định ca ngợi tầm cao của tính “minh”, tức
tầm cao sáng suốt của Đảng. Tầm cao sáng suốt này thể hiện ở đâu? Trước hết, thể hiện ở Cương lĩnh của Đảng,
và đang được cụ thể hóa trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Theo đó, Đảng
chọn sẵn cho dân tộc ta con đường phát triển, mà Đảng khẳng định đó là con
đường duy nhất đúng. Đó là con đường xây dựng xã hội XHCN trên cơ sở nền tảng
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Câu chuyện về
sai lầm của con đường này, đã được nhiều người bàn đến, và sẽ còn được chúng ta
bàn đến vào nhiều dịp khác nữa.
Nhưng
trong câu chuyện này, chúng ta chỉ bàn đến việc Đảng có tầm cao sáng suốt hay
không, trong việc sử dụng và phát huy nhân tài, mà trước hết là đối với một lực
lượng lớn nhân tài của đất nước thuộc tầng lớp trí thức của chúng ta.
Đảng
tìm cách Hiến định sự lãnh đạo duy nhất và toàn diện của Đảng đối với dân tộc,
đồng nghĩa với việc những trí thức của đất nước cần phải hội tụ trong Đảng mới
được tin dùng và phát huy tốt. Giá như lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là đúng,
hơn nữa lại được Đảng “sáng tạo” thêm, thể hiện trong Cương lĩnh và Hiến pháp
1992, thì việc trí thức của đất nước hội tụ trong Đảng là đúng đắn, và đó là
hồng phúc của dân tộc. Nhưng thật bất
hạnh cho dân tộc ta, thực tiễn phát triển trên phạm vi toàn cầu lại đã và đang
chối bỏ lý luận của chủ nghĩa này. Tại nước ta, gần 40 năm qua cho thấy rõ,
Đảng vẫn đang lúng túng hoang mang lèo lái con tàu dân tộc chạy vật vờ, lang
thang vô định trên mặt biển bao la không thấy bến bờ. Nói riêng, tầng lớp trí
thức của đất nước phải chịu vô vàn nghịch lý và bất công, đến mức tủi hổ với
bạn bè quốc tế. Là người trí thức, ham muốn lớn nhất của họ là được đóng góp
nhiều nhất cho xã hội trong phạm vi năng lực chuyên môn và nhận thức xã hội của
mình. Vậy mà, cho dù Đảng có muốn hay không, thì trong mấy chục năm qua trên
đất nước ta, đã và đang lặng lẽ diễn ra một quá trình rất tồi tệ, làm giảm
thiểu hiệu quả đóng góp cho xã hội của giới trí thức. Có thể gọi đó là quá trình vô hiệu hóa đóng góp cho xã hội, có
tính quy luật, tác động vào tầng lớp trí thức của đất nước.
Trong
điều kiện tồi tệ này, những người thực sự là trí thức có tài, dù ngoài Đảng hay
còn trong Đảng, tỏ rõ chính kiến và không chấp nhận lý luận và con đường Đảng
chọn, đứng về phía bảo vệ chân lý, thì hiển nhiên bị cô lập nhanh chóng, tiến
tới bị quy chụp và đàn áp. Quá trình vô hiệu hóa diễn ra rất nhanh và
khốc liệt đối với các nhân tài trí thức này, đóng góp của họ cho xã hội bị
phong tỏa rất nhanh và rất tàn độc, nếu nhìn nhận theo góc độ nhân văn. Trước
đây, luật sư Nguyễn Mạnh Tường với
hai bằng tiến sĩ từ Pháp về, triết gia
lừng danh Trần Đức Thảo từ Pháp về, nhà
văn hóa Nguyễn Hữu Đang… Rồi gần đây, các
tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, Nguyễn Thanh Giang, Cù Huy Hà Vũ… là các ví dụ điển
hình cho các trí thức này. Một số nhân tài trí thức, một mặt vẫn khó tránh khỏi
việc trở thành nạn nhân của quá trình vô hiệu hóa đóng góp cho xã hội
nói trên, nhưng mặt khác họ lại đủ tài năng và có điều kiện để đóng góp cho xã
hội theo một kênh cơ chế khác, đó là cơ chế vừa hợp tác, vừa đấu tranh cho
quyền con người, cho hình thành một xã hội dân sự và dân chủ hóa đất nước. Xin
tạm nêu các ví dụ điển hình như các giáo
sư Hoàng Tụy, Hoàng Xuân Phú, Chu Hảo, Tương Lai, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thế
Hùng, nhà giáo Phạm Toàn….
Cho
dù đã từng bị tù đày, quản chế, sách nhiễu… hay không, tất cả những nhân tài
trí thức nói trên đều là những viên ngọc quý của đất nước. Họ có tài năng, tâm
huyết, và cả dũng khí nữa, để âm thầm đóng góp cho xã hội theo hướng tích cực,
với hiệu quả đóng góp rất lớn lao, thậm chí ngay cả khi bị giam cầm trong tù
ngục. Họ chính là những trí thức thật sự đúng nghĩa, bên cạnh năng lực chuyên môn
cao còn có trách nhiệm rất cao đối với xã hội thông qua chính kiến và hành động
cụ thể của mình, để cải biến xã hội theo hướng tiến bộ.
Một
lực lượng trí thức đáng quý khác trong hai chục năm qua là các trí thức từ nước
ngoài, vốn là Việt kiều hoặc đang sống và làm việc ở nước ngoài, đau đáu lo
nghĩ về quê hương đất nước. Các trí thức này đã qua các kênh khác nhau, góp bàn
nhiều ý kiến tư vấn, phản biện rất có giá trị cho đất nước, hoặc về nước trực
tiếp giảng dạy hay hoạt động khoa học công nghệ đóng góp cho quê hương. Họ kinh
ngạc khi Đảng ngạo mạn và phớt lờ mọi ý kiến đóng góp tư vấn của họ, nếu như
khác ý của Đảng. Đặc biệt là họ khó có thể chấp nhận cơ chế làm việc của hệ
thống do Đảng thiết lập nên. Có những trường hợp đã từng bị an ninh sách nhiễu,
như trường hợp GS Nguyễn Đăng Hưng
từ Bỉ về nước giảng dạy sau đại học và hoạt động khoa học công nghệ… Cho nên đã
diễn ra một sự thật cay đắng, là quy luật vô hiệu hóa đóng góp cho xã hội
cũng đã lạnh lùng tác động lên các trí thức từ nước ngoài, những trí thức mà
đất nước rất cần trân trọng trong lúc khó khăn này, khiến cho họ ngày càng nản
lòng.
Một
lực lượng đông đảo các trí thức, lựa chọn đi theo Đảng và làm việc trong hệ
thống chính trị do Đảng lập nên, thì trên thực tế đã rơi vào một số trường hợp
dưới đây.
Một là, trường hợp
cơ hội.
Những nhân tài trí thức nhận biết được sai lầm của lý luận và con đường dẫn dắt
của Đảng, nhưng họ buộc phải chấp nhận để tồn tại và phát triển. Những người đó
sẽ làm việc theo cách thức cơ hội, mặc dù ban đầu họ không muốn thế. Có cơ hội
tốt bên cạnh các cơ hội xấu. Kết quả của cơ hội, đối với rất nhiều trí thức, có
thể đơn giản chỉ là công việc nhàn hạ và cuộc sống ấm thân, hay là thỏa mãn nhu
cầu chuyên môn thuần túy. Nhưng đối với nhiều trí thức, kết quả của cơ hội được
thúc đẩy lên, phải là có được vị trí quyền lực và giàu có. Nhưng hiệu quả đóng
góp cho xã hội của những trí thức làm việc kiểu cơ hội như vậy bị hạn chế rất
nhiều. Nhiều khi công việc của họ nghiêng về phía gây hại cho xã hội, khi họ
chỉ nhìn thấy lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm, mà quên đi lợi ích quốc gia.Ví dụ điển hình là Dự án Bauxite Tây Nguyên,
đã và đang trở thành sản phẩm tai họa của công việc do các vị trí thức kiểu này
thực hiện. Khi cách làm việc kiểu cơ hội diễn ra thành thói quen, họ dễ đánh
mất mình và nhiễm căn bệnh gian dối ngày càng nặng, trong chuyên môn cũng như
trong ứng xử xã hội. Quá trình vô hiệu hóa đóng góp cho xã hội đối với
các trí thức này, mặc nhiên diễn ra, lặng lẽ nhưng không kém phần khốc liệt và
xã hội phải gánh chịu thiệt thòi.
Hai là, trường hợp
phục tùng.
Những trí thức không có nhu cầu hiểu ở mức độ cần thiết về tính đúng sai của lý
luận và con đường đang theo. Họ sẽ làm việc chủ yếu theo cách thức phục tùng.
Một khi đã làm việc kiểu phục tùng, tính sáng tạo bị hạn chế rất nhiều, hiệu
quả làm việc luôn bị hạn chế. Những trí thức đó cho dù không quan tâm nhiều,
nhưng trên thực tế là họ bị hạn chế nhiều hiệu quả đóng góp cho xã hội. Khi cấp
trên không đủ trí tuệ và giao việc không đúng cho anh, anh chỉ biết phục tùng
mà không có năng lực điều chỉnh. Kết quả thu được khi đó là rất tồi tệ, và anh
là tội đồ trước tiên, khi cấp trên rũ bỏ trách nhiệm. Ví dụ điển hình cho các
trí thức thuộc trường hợp này các luật sư, thẩm phán… làm công việc xử các án
bỏ túi, xử oan sai với các đối tượng dân chúng, hay trường hợp các nhà báo bút
nô tại các tòa báo “lề phải” cũng vậy. Theo thời gian, quá trình vô hiệu hóa
đóng góp cho xã hội đã và đang diễn ra, tác động theo hướng hạn chế hiệu
quả, hoặc phản hiệu quả (có tác dụng gây hại) của những trí thức này đối với xã
hội.
Ba là, trường hợp
cuồng tín.
Những trí thức đã dành nhiều thời gian và trí lực cho việc tìm hiểu hay nghiên
cứu về lý luận đang theo, và tin rằng lý luận và con đường đi là đúng đắn.
Những người đó không đủ năng lực trí tuệ, để hiểu rằng lý luận có quá nhiều sai
lầm nên lý luận ấy đã và đang bị thực tiễn đào thải. Những người đó sẽ làm việc
theo cách thức không chỉ phục tùng mà còn cuồng tín. Khi đã cuồng tín, họ có xu
hướng bóp méo thực tiễn và lý luận để thỏa mãn niềm tin của mình, bảo thủ đến
mức độ sẵn sàng ngụy biện chày cối đủ kiểu, thậm chí vi phạm nhân cách, để
chứng minh sự kiên định với chủ nghĩa. Các
trí thức này được Đảng tin dùng. Vì thế, ví dụ về trường hợp này chính là
các vị trí thức trong Bộ Chính trị, trong Ủy viên Trung ương, trong hệ thống
học viện chính trị của Đảng… Người trí thức mà làm việc kiểu phục tùng cuồng
tín cho hệ thống luận thuyết sai lầm, thì kết quả công việc của người đó đối
với xã hội (theo hướng tích cực) mà đạt được ở mức vô thưởng vô phạt, thì cũng
đã là rất may mắn. Trong rất nhiều trường hợp, kết quả công việc của họ đối với
xã hội có tính chất tàn phá nhiều hơn là có tính chất xây dựng. Vì vậy, những
trí thức trong trường hợp này, dường như là rất có đất để phát huy, nhưng trớ trêu
thay, họ không thể ngờ rằng họ vẫn không thể tránh khỏi là nạn nhân của quy
luật vô hiệu hóa đóng góp cho xã hội theo hướng tích cực.
Sự
phân định ba trường hợp nói trên có tính chất tương đối, do vậy có thể có quan
điểm phân định thành nhiều trường hợp hơn. Tính tương đối còn thể hiện trong
mỗi đối tượng, cả cuộc đời công tác có thể có các giai đoạn khác nhau mà tư
tưởng sống và làm việc có thay đổi, và do vậy sẽ rơi vào các trường hợp khác
nhau nói trên.
Trong
một tổ chức (cơ quan, đơn vị…) nằm trong hệ thống chính trị, luôn tồn tại đồng
thời tất cả các trí thức thuộc ba trường hợp nêu trên. Các trí thức thuộc
trường hợp ba (cuồng tín), mặc dù số lượng không lớn, nhưng được Đảng và chính
quyền ưu ái hơn nhiều, mặc dù năng lực trí tuệ thấp hơn rất nhiều so với các
trí thức đông đảo thuộc các trường hợp khác. Sự ngạo mạn của Đảng và chính
quyền, coi thường đông đảo trí thức trình độ cao cũng từ đó mà nảy nở. Họ kín
đáo nhếch mép cười trên đồng lương nghèo nàn của các giáo sư, vốn chỉ bằng
lương của một kỹ thuật viên mới vào làm việc cho một công ty liên doanh. Các
đồng nghiệp bè bạn quốc tế kinh hoàng khi biết sự thật đó. Thực tế nói trên
cũng là một trong các biểu hiện tàn phá của quy luật vô hiệu hóa mà
chúng ta đang bàn đến.
Tất
cả những thực tế trên đây cho thấy, trong hệ thống chính trị được thiết chế
trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tầng lớp trí thức mặc nhiên chịu tác động bởi quy
luật vô hiệu hóa đóng góp cho xã hội. Đó là lý do vì sao luôn xuất hiện
ngày này qua tháng khác các câu hỏi với ý tha thiết kêu gọi của nhân dân đối
với tầng lớp trí thức nước ta. Nền khoa học công nghệ của nước nhà tụt hậu thê
thảm ư, trình độ trí thức Việt nam ra sao? Nền giáo dục của nước nhà tha hóa ư,
đức độ trí thức Việt nam đến đâu? Nền y học nước nhà lạnh lùng và vô cảm kiếm
tiền trên nỗi đau của bệnh nhân ư, lương tâm trí thức Việt nam đâu? Nền văn hóa
nước nhà xuống dốc và méo mó ư, văn hóa trí thức Việt nam thế nào? Nền lập pháp
– hành pháp – tư pháp rối loạn và bất minh ư, nhân cách trí thức Việt nam còn
hay mất? Phương thức tổ chức xã hội bị tha hóa cần được cải biến theo hướng
tiến bộ ư, lương tri và dũng khí trí thức Việt nam còn được bao nhiêu?…
Xin được trả lời:
trí thức Việt Nam đã và đang bị vô hiệu hóa đóng góp cho xã hội.
Đó
cũng là một nghịch lý cay đắng đối với một dân tộc, bị dẫn dắt theo con đường
xây dựng xã hội XHCN trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thời
kỳ 1930-1975, lựa chọn con đường này cho dân tộc là bởi những bậc tiền bối của
Đảng, được coi là những nhà cách mạng lớn, nhưng lại không phải là những trí
thức thực sự.
Ngày nay, tiếp tục kiên định con đường này, là sự lựa chọn của các vị lãnh đạo
Đảng với chất trí thức cao hơn hẳn so với các vị tiền bối (nếu căn cứ theo học
vấn, học vị, học hàm). Nhìn nhận theo khía cạnh khoa học của vấn đề, họ kiên
định lựa chọn con đường này, trên cơ sở các đề tài tiến sĩ, các đề tài cấp Nhà
nước, cấp Học viện… của chính họ và của số trí thức đảng viên phục tùng cuồng
tín, khi nghiên cứu các nội dung về lý luận Mác-Lênin. Số lượng các trí thức
đảng viên loại này chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số tri thức Việt Nam?
Không cần con số chính xác vào lúc này, nhưng câu trả lời chính xác là: đó là thiểu số.
Vậy là một nghịch lý cay đắng nữa xuất hiện đối với dân
tộc: đa số trí thức Việt Nam bị vô hiệu hóa bởi một thiểu số trí thức trong
Đảng.
Toàn
dân vẫn kỳ vọng trí thức Việt Nam vượt qua hoàn cảnh, chung sức kiên trì góp
phần lập nên Hiến pháp mới, cho phép điều chỉnh con đường đi của dân tộc, hướng
đến giải tỏa vô vàn nghịch lý đè nặng lên vai dân tộc.
Thái
Bình, 1/4/2013
L.H.S.T.
No comments:
Post a Comment