Chủ Nhật,
ngày 06 tháng 11 năm 2016
Noam
Chomsky (sinh năm 1928 tại Philadelphia) là một trong những tư tưởng gia có nhiều
ảnh hưởng nhất trong thời đại chúng ta. Ông cũng là một trong số rất ít các
khoa học gia mà công trình nghiên cứu được quần chúng quan tâm theo dõi.
Sau khi
tốt nghiệp tiến sĩ ngữ học tại Đại Học Pennsylvania vào năm 1955, Chomsky bắt đầu
dạy học tại Viện Kỹ Thuật Massachusetts (MIT). Ông được thăng giáo sư thực thụ
năm 1961, và năm 1976 được nhận tước vị Institute Professor tức
là được gia nhập một hàng ngũ chọn lọc các đồng nghiệp mà đa số đã lãnh giải
Nobel về các bộ môn khác nhau. Rất nhiều chuyên viên ngữ học thời danh khắp năm
châu từng là học trò cũ của ông hoặc từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của ông nên vẫn
một lòng tiếp tục ngưỡng mộ và quảng bá những lý thuyết cũ cũng như mới của
Chomsky.
NGỮ PHÁP BIẾN TẠO
Sự đóng
góp quan trọng nhất của Chomsky là đã đề xướng được một mô thức không ai sánh kịp
để mở đường cho các khám phá ngoạn mục trong các môn khoa học tri thức
(cognitive sciences). Mô thức riêng cho ngôn ngữ, thường được biết đến dưới
danh hiệu ngữ pháp biến tạo (transformational grammar), được
công bố trong cuốn Syntactic Structures (1957). Cuốn
sách khiêm tốn không quá 120 trang giấy này, xuất bản tại Hòa Lan, đã đánh dấu
một kỷ nguyên mới cho khoa ngữ học trong hậu bán thế kỷ 20, thách thức mọi ức
thuyết trong các lãnh vực triết lý, tâm lý, và lịch sử tri thức.
Chomsky
đã làm thay đổi hướng đi của khoa ngữ pháp bằng cách không đoái hoài tới
những công việc mô tả và xếp loại các câu nói thực sự như các
nhà ngữ học thời đó thường làm, mà là bắt đầu đặt những câu hỏi về bản
chất cái hệ thống sản xuất ra ngôn ngữ loài người.
Chomsky
cho rằng lý thuyết của trường phái hành vi (behaviorist
school), đang làm mưa làm gió trong lĩnh vực ngôn ngữ học thời đó, là quá
hạn hẹp vì nó chỉ chú trọng đến việc mô tả những câu nói đã thực
sự xảy ravà không cắt nghĩa được bản chất sáng tạo (creativity)
của ngôn ngữ cá nhân. Theo Chomsky, một ngữ pháp đích thực phải có khả
năng cắt nghĩa được cái bản chất sáng tạo của ngôn ngữ, vì phải nhờ
vào bản chất này nhân loại mới có thể thốt ra và hiểu được một
con số vô hạn định những câu nói hoàn toàn mới mẻ (novel
utterances).
Xác quyết
căn bản của ngữ pháp biến tạo là sự thừa nhận một ngữ pháp hoàn vũ (universal
grammar). Ngữ pháp hoàn vũ được khám phá ra dựa vào các đặc trưng hiện
diện trong toàn thể ngôn ngữ nhân loại, chắc hẳn do bản chất đồng nhất của
bộ óc con người. Ngữ pháp biến tạo chủ trương làm sáng tỏ, qua những
công thức có hình dạng toán học, tất cả những quy luật ngữ pháp có
thể tạo sinh ra các cấu thức nổi (surface structures) tức là tất
cả những gì chúng ta thực sự nói, nghe, đọc, và viết. Nó cũng giả định sự hiện
hữu của các cấu thức chìm (deep structures) ở một mức độ trừu
tượng hơn, nằm trong não bộ của người nói, người nghe, người viết, hoặc người đọc
để giúp chúng ta hiểu nghĩa các cấu thức nổi.
Để cụ
thể hóa ý niệm deep structure cho dễ hiểu hơn, trường phái
Chomsky cũng đưa ra ý niệm tương đương là kernel sentence (câu
lõi). Một câu lõi là một câu đơn gồm có một chủ
từ, một động từ ở thời hiện tại và thể xác định, và một túc
từ, chẳng hạn như:
[The
boy eats an apple.]
Các thí
dụ bằng tiếng Việt sau đây sẽ làm sáng tỏ phần nào những ý niệm nêu trên của ngữ
pháp biến tạo:
[Kim
Trọng và Thúy Kiều nhớ nhau] là một cấu thức nổi, gọn gàng hơn
so với câu có thể được coi như cấu thức chìm là
[Kim Trọng nhớ Thúy Kiều và Thúy Kiều nhớ Kim Trọng].
Ý niệm
biến tạo được thấy trong tiến trình câu lõi [Thúy Kiều yêu
Kim Trọng] trở thành cấu thức nổi [Kim Trọng
được Thúy Kiều yêu] qua luật biến tạo thụ động cách. Luật này
đã (a) hoán chuyển vị trí hai nhân vật, (b) đẩy động
từ xuống cuối câu, và (c) thêm ngữ vị chức năng “được” vào giữa
hai nhân vật, theo tiến trình:
(a) Thúy
Kiều yêu Kim Trọng > Kim Trọng Thúy Kiều
(b) Kim
Trọng Thúy Kiều > Kim Trọng Thúy Kiều yêu
(c) Kim
Trọng Thúy Kiều yêu > Kim Trọng “được” Thúy Kiều yêu
Một cấu
thức chìm có thể được thể hiện qua vài cấu thức nổi (nhờ vào các quy luật biến
tạo khác nhau) mà ý nghĩa vẫn là một, theo giải thích dưới đây:
[(1) Kiều
trao Kim của tin]
[(2) Kiều
trao của tin cho Kim]
[(3) Kim
được Kiều trao của tin]
đều là cấu
thức nổi. Câu (2) có thể được coi như là cấu thức chìm chung
cho cả ba câu liên hệ.
Ngược lại,
hai cấu thức nổi rất giống nhau về hình thức nhưng lại có thể khác
nhau rất nhiều về ý nghĩa vì chúng được biến tạo từ hai cấu
trúc chìm khác biệt. Thí dụ:
[(4) Cô
Lan dễ chiều chuộng] là cấu thức nổi của cấu thức chìm
“Người ta chiều chuộng cô Lan. Việc làm này dễ dàng.” Trong câu (4), Cô Lan là túc
từ của động từ chiều chuộng,
[(5) Cô
Lan sẵn sàng chiều chuộng] là cấu thức nổi của cấu thức
chìm
“Cô Lan
chiều chuộng người khác. Cô không do dự làm việc ấy chút nào.” Trong câu (5),
Cô Lan là chủ từcủa động từ chiều chuộng.
Trường
phái hành vi do Leonard Bloomfield (1887-1949) và B. F. Skinner (1904-1990) chủ
trương thì không thể nào giải thích được sự khác biệt về ý
nghĩa này trong các câu có hình thức tương tự như trong trường hợp vừa nêu trên
đây.
Từ khi
cuốn Syntactic Structures ra đời năm 1957, Chomsky đã
không ngừng cập nhật hóa lý thuyết của mình với nhiều ý niệm mới trong những cuốn
sách về sau, nhất là trong các cuốn Aspects of the Theory of Syntax(1965), Rules
and Representations (1980), và The Minimalist Program (1995).
CƠ-QUAN NGÔN-NGỮ
Chomsky
đã làm giới nghiên cứu tâm lý và ngữ học trên hoàn cầu (lúc ấy còn đang cho rằng trí
não của trẻ thơ chỉ là một trang giấy trắng) sửng sốt với
ý niệm mới mẻ rằng ngôn ngữ, cũng như đa số các năng khiếu khác của con
người, tùy thuộc vào các cơ cấu trí não đã được an bài trong nhiễm thể.
Theo
Chomsky, sự trở nên thành thạo tiếng mẹ đẻ một cách dễ dàng và nhanh
chóng trong thời thơ ấu phải là một phần của sự trưởng thành cơ thể đã
được thiên nhiên “thảo chương” từ trước. Cũng như di truyền tính đã ban cho mỗi
hài nhi một trái tim và hai lá phổi càng ngày càng phát triển sau khi lọt lòng
mẹ, di truyền tính cũng ban cho nó một cơ quan ngôn ngữ (language
organ) vô cùng phức tạp và hiệu nghiệm. Những thăng trầm trong đà tiến hóa của
loài người đã “uốn nắn” cái cơ quan ngôn ngữ ấy sao cho nó chỉ có thể học
được những ngôn ngữ nhất định nào đó trong một phạm vi tương đối nhỏ hẹp
của các cấu trúc luận lý. Những ngôn ngữ khác không ở trong phạm vi ấy thì ngay
cả các thần đồng cũng không tài nào học nổi!
Vẫn
theo Chomsky, qua những tác động với môi trường ngôn
ngữ ngoài đời, cơ quan ngôn ngữ sẽ dần dần trở thành ngữ pháp
của tiếng nói ấy. Như vậy, nếu một cá nhân sinh trưởng ở Philadelphia, như
trường hợp Chomsky, khối óc người ấy sẽ ký hiệu hóa (encode)
kiến thức về phương ngữ Philadelphia của tiếng Mỹ. Và nếu khối óc ấy sinh trưởng
ở Huế thì nó sẽ ký hiệu hóa phương ngữ Huế của tiếng Việt.
NGỮ-PHÁP HOÀN-VŨ
Chomsky
không những đã khai sáng ra ngữ pháp biến tạo mà còn kêu gọi các nhà nghiên cứu
hãy lưu tâm đến những nét hoàn vũ của ngôn ngữ (language
universals) để tìm ra những yếu tố và những cơ cấu xuất hiện trong mọi
ngôn ngữ, hoặc đa số ngôn ngữ. Quan trọng hơn nữa, họ còn phải xác định được
những giới hạn, những kiềm chế hoàn vũ (universal constraints)
trong đó ngôn ngữ loài người thực hiện chức năng. Những kiềm chế này, theo
Chomsky, có tính cách di truyền, và con người rất có thể đã được cung
cấp trong nhiễm thể một kiến thức căn bản về ngôn ngữ và cách thao tác của ngôn
ngữ loài người. Chomsky mệnh danh cái nòng cốt di truyền (inherited
core) đó là ngữ pháp hoàn vũ (thường được viết hoa là
Universal Grammar và viết tắt là UG).
Ngữ
pháp hoàn vũ cho
rằng mỗi cá nhân đều biết một số nguyên lý (principles) áp dụng
cho tất cả ngôn ngữ và một số thông số (parameters) có thể
khác biệt từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, nhưng chỉ trong những giới
hạn nhất định. Như vậy, học hỏi một ngôn ngữ có nghĩa là áp dụng những
nguyên lý của ngữ pháp hoàn vũ vào ngôn ngữ đó, và khám phá ra nét
đặc trưng của mỗi thông số trong ngôn ngữ đó. Và hiển nhiên, người
sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau thì phải biết đến và tôn trọng những thông số
cá biệt của từng ngôn ngữ liên hệ.
CHƯƠNG TRÌNH TỐI THIỂU
Gần đây
hơn, Chomsky trong cuốn The Minimalist Program (1995)
đã áp dụng một thảo chương ở mức tối thiểu để sắp xếp lại toàn
bộ lý thuyết ngữ pháp mà ông đã xây đắp trên căn bản nguyên lý và thông
số(principles and parameters approach) trong cuốn Lectures on
Government and Binding (1981). Lần này, Chomsky đã bỏ đi rất nhiều
và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết tối thiểu, vì ông đã hết tâm
chú trọng đến các nguyên tắc tiết kiệm (economy) và đồ
án tối lợi (optimal design).
NGUYÊN LÝ
Chomsky
và các cộng sự viên (nhất là với Howard Lasnik) đã mổ xẻ tận tường khoảng
30 ngôn ngữ đại diện các vùng, các ngữ hệ, các sắc tộc. Họ đã tạm thời
xác định được khoảng 45 nguyên lý (principles) áp dụng cho
toàn thể ngôn ngữ nhân loại.
Một thí
dụ về nguyên lý của ngữ pháp hoàn vũ là sự phụ thuộc cấu trúc (structure
dependency). Điều này có nghĩa là nếu chúng ta muốn hiểu một
ngôn ngữ, chúng ta phải dựa vào kiến thức của những tương quan cấu trúc (structural
relationships) trong câu, thay vì chỉ nhìn vào câu đó như một chuỗi chữ nối tiếp
nhau. Do đó, sự hiểu ý của câu [Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông] không
phải chỉ là nhìn vào một chuỗi chữ độc lập [Hoa - đào - năm - ngoái
- còn - cười - gió - đông] mà phải là được giải thích như sau:
Câu này
gồm hai phần mệnh danh chủ ngữ (subject) và vị ngữ (predicate). Chủ
ngữ là vai trò của phần câu danh (noun phrase) [Hoa
đào năm ngoái] và vị ngữ là vai trò của phần câu động (verb
phrase) [còn cười gió đông]. Tương quan cấu trúc giữa
chủ ngữ và vị ngữ trong câu này giúp người nghe, người đọc hiểu ý nghĩa của nó.
Cấu
trúc câu tiếng Việt trên đây cũng nằm trong cái quy luật kết cấu cú phần (phrase-structure
rule) trong cuốn Syntactic Structures được biểu hiện bằng
công thức [S > NP + VP] với các chữ viết tắt và ký hiệu có
nghĩa như sau:
[S
= sentence / > = rewritten as / + =
and / NP = noun phrase / VP = verb phrase].
Công thức
trên của cú pháp hoàn vũ được chuyển sang Việt ngữ như sau:
[Câu > Phần
câu danh + Phần câu động].
Trong
công thức trên, phần câu danh và phần câu động cũng
được gọi là hai cấu phần cấp kỳ (immediate constituents) của một
câu, với phần câu danh đóng vai chủ ngữ (subject) và phần câu
động đóng vai vị ngữ(predicate).
Đi vào
chi tiết hơn nữa, chúng ta có thể diễn tả phần câu danh và phần câu động của
câu thơ qua các quy luật viết lại (rewritten rules) như sau:
Phần
câu danh > Danh từ 1 + Tĩnh từ [Hoa đào + năm
ngoái]
Phần
câu động > Động từ + Danh từ 2 [còn cười + gió
đông]
Danh từ
1 > Danh từ đầu (head noun) + danh từ bổ
nghĩa (modifier noun)
Danh từ
2 > Danh từ đầu + danh từ bổ nghĩa
Tĩnh từ
> Danh từ + Tĩnh từ
Động từ
> Trạng từ + Động từ
Thứ tự
các yếu tố của phần câu danh câu thơ = (Danh từ đầu + Danh từ bổ
nghĩa) + (Danh từ + Tĩnh từ)
Thứ tự
các yếu tố của phần câu động câu thơ = (Trạng từ bổ nghĩa+ Động
từ) + (Danh từ đầu + Danh từ bổ nghĩa)
Thứ tự
các yếu tố của hai phần câu danh và động trên đây là một công thức để cấu
tạo một câu “đúng” cú pháp Việt, trong khuôn khổ ngữ pháp hoàn vũ.
Do đó,
câu sau đây (hoàn toàn đúng cú pháp Việt) cũng do công thức trên kiến tạo:
[Ông
thầy ngữ học / vẫn dậy văn khoa].
THÔNG SỐ
Một thí
dụ về thông số là thông số bỏ rơi đại danh từ chủ ngữ (“the
pro-drop parameter” trong trường phái biến tạo). Thông số này có 2 lựa chọn:
(1) bỏ rơi [pro-drop] hoặc (2) không bỏ rơi [non-pro-drop].
Thông số không
bỏ rơi đại danh từ chủ ngữ phổ cập hơn và hiện diện trong nhiều ngôn
ngữ đông người sử dụng như Anh ngữ, Pháp ngữ, Đức ngữ. Xin quan sát các chủ
ngữ không thể bỏ rơi viết bằng chữ lớn và gạch dưới cho ba thí dụ đồng
nghĩa trong Anh, Pháp, và Đức ngữ:
John is
my friend. HE speaks Spanish.
Jean est mon ami. IL parle
Espagnol.
Johann
ist mein Freund. ER spricht Spanisch.
Thông số bỏ rơi đại danh từ chủ ngữ là
sự lựa chọn của ngữ pháp tiếng Việt và một số tiếng khác có đông người sử dụng
như Hoa ngữ,
Tây ban nha ngữ. Xin quan sát các thí dụ dưới đây, trong đó các ký hiệu [ai?] /
[谁?] / [quién?] đánh dấu chỗ đại
danh từ chủ ngữ bị bỏ rơi:
[ai?]
phong tư tài mạo tuyệt vời
[ai?]
vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa
(Nguyễn
Du)
[谁?]
举 头 妄 明 月 / ngửng đầu
nhìn trăng tỏ
[谁?]
低
头 思 故 乡
/ cúi đầu nhớ cố hương
(李 白) / (Lý Bạch)
aúnque [quién?] no me quieras/ dù cô chẳng yêu
tôi
[quién?] tengo el consuelo / tôi còn niềm an ủi
de saber que [quién?] sabes / vì biết rằng cô
biết
que [quién?] te quiero / tôi còn mãi yêu cô
TƯƠNG LAI NGỮ PHÁP HOÀN VŨ
Có thể
một ngày nào đó lý thuyết của Chomsky sẽ bị đào thải, do sự đồng thuận của các
nhà ngữ học cho rằng lý thuyết ấy không còn phù hợp hoặc đã “đi trật đường rầy”
trong việc giải thích ngữ pháp nhân loại. Nhưng giả dụ ngay cả khi điều ấy xảy
ra, thì nỗ lực siêu phàm hình thức hóa được những ý niệm của ông trong công việc
phân tích ngôn ngữ đã giúp chúng ta hiểu được những ý niệm kiệt xuất đó. Và chỉ
điều này thôi cũng đã đủ cho chúng ta có thể kết luận rằng “cuộc cách mạng
Chomsky” đã thành công lớn rồi.
Tài
liệu tham khảo
Chomsky,
N. (1957). Syntactic structures. The Hague: Mouton & Company.
Chomsky,
N. (1965). Aspects of the theory of syntax. Cambridge: The MIT
Press.
Chomsky,
N. (1980). Rules and representations. Columbia University Press.
Chomsky,
N. (1981). Lectures on government and binding: Dordrecht:
Foris.
Chomsky,
N. (1995). The minimalist program. Cambridge: The MIT Press.
ĐÀM
TRUNG PHÁP
No comments:
Post a Comment