Nhờ
sự tự điều chỉnh theo hướng nhân đạo (đời sống người) đó mà loài người ngày nay
biết hô hào bảo vệ, lành mạnh hóa môi trường sống; biết ‘go green’; biết chống
đối lãnh đạo Hà Nội đốn bỏ cây xanh; biết lên tiếng trên báo chí ‘lề dân’ phản
đối công ty Formosa ở Vũng Áng thải chất độc làm hại thiên nhiên và con người.
Cái nhìn một chiều đặt nặng vật chất vạn năng, vật chất quyết định tất cả gây
nguy hiểm cho đời sống muôn loài như thế. Sống nương nhờ vào Mẹ Tự Nhiên
(Mother Nature) thì cũng phải biết ‘hòa’ cùng Mẹ Tự Nhiên, bảo vệ Mẹ Tự Nhiên.
Mẹ Tự Nhiên chết đi thì con người cũng chẳng thể sống.
*
Đâu
là yếu tố quyết định đời sống con người?
Tâm
thức chỉ chung các khía cạnh của trí tuệ và ý thức, thuộc tinh thần, không thuộc
về vật chất. Tâm thức bao gồm các quá trình có ý thức của não bộ như tư tưởng,
trí nhớ, trí tưởng tượng, ý muốn, cảm xúc v.v…
Duy
Tâm là trường phái khẳng định rằng chỉ duy yếu tố tinh thần vô hình, sản sinh
ra mọi hiện tượng sống. Yếu tố vô hình trừu tượng này có trước vật chất và tồn
tại độc lập với thế giới thực tại, thường được trường phái Duy Tâm dùng để giải
thích cho thượng đế hiện hữu từ vô thủy vô chung. Xuất phát tối sơ là sự phát
sinh và cứu cánh của thần. Phương pháp luận thường được sử dụng là phép tam đoạn
luận. Đến thế kỷ 19, Hegel tu chỉnh lại, đặt ra duy tâm biện chứng pháp, lý giải
mọi biến đổi đều tùy thuộc vào tinh thần tuyệt đối.
Trái
lại, nhân vật nổi tiếng của trường phái Duy Vật cận đại là Các Mác, cho rằng vật
chất là bản chất của mọi thực tại, và rằng vật chất tạo ra tư tưởng chứ không
phải ngược lại. Tư tưởng và mọi thứ xuất phát từ tư tưởng như nghệ thuật, luật
pháp, chính trị, đạo đức v.v… đều là sản phẩm của bộ não, xuất hiện từ một trạng
thái nhất định của sự phát triển vật chất sống. Do đó, đạo đức, tôn giáo, siêu
hình học không còn giữ vẻ độc lập được nữa. Chúng không có sự phát triển nào cả,
mà là con người trong quá trình phát triển nền sản xuất vật chất và những mối
liên hệ nội tại vật chất giữa họ với nhau, cho họ thấy rằng đời sống không phải
được quyết định bởi ý thức, mà là ý thức được quyết định bởi đời sống vật chất.
Nhà
duy vật không đi tìm lời giải thích cho các hiện tượng sống từ tư tưởng mà từ bản
thân những hiện tượng vật chất, dưới dạng nguyên vật chất chứ không phải từ sự
can thiệp phi tự nhiên như thượng đế. Nói khác đi, thuyết Duy Vật cho rằng chỉ
duy yếu tố vật chất sản sinh ra mọi hiện tượng sống.
Với
phương pháp diễn dịch trong việc thiết lập lý thuyết cổ điển, các triết gia đưa
ra một thực thể quan trọng nhất, gọi là đối tượng tối cao, là đầu mối của tất cả
mọi sự, rồi từ đó suy niệm ra mọi quy luật, gọi là xuất phát tối sơ.
Thế
nào là vật chất? Nguyên tử, điện tử, lượng tử…, những thứ cực nhỏ hay vũ trụ cực
lớn? Cả hai thái cực từ cực tiểu đến cực đại, lấy gì làm đối tượng tối cao để
quyết định tính tuyệt đối của vật chất?
Công
cuộc nghiên cứu vật chất đi vào giai đoạn mới và phát hiện ra nhiều điều mới lạ
vào thập niên 1920 của thế kỷ 20 với môn Lượng Tử (Quantum Mechanics) và sự chế
tạo các loại máy gia tốc. Người ta khám phá ra các hạt hadron, trong đó có
proton và neutron được cấu tạo bởi các vi tử cơ bản gọi là quark. Ngoài ra, vật
chất còn gồm hai loại hạt khác nữa, lepton và gauge particle. Thuyết tương đối
chứng minh vật chất và năng lượng tương đương với nhau, đặc biệt là hủy bỏ tính
chất tuyệt đối của không gian, thời gian, khối lượng và chứng minh sự thống nhất
giữa không gian và thời gian (thời-không thống nhất). Vật chất không còn là một
thực thể đơn giản như ở thế kỷ 19.
Bằng
con mắt khoa học, người ta có thể nhận thấy rằng từ những nguyên tử nhỏ bé cho
đến vũ trụ to lớn đều tồn tại cả phần hữu hình lẫn vô hình. Nguyên tử là đơn vị
cơ bản của vật chất, gồm hạt nhân ở giữa và bao quanh bởi electron mang điện
tích âm. Hạt nhân là một kết hợp giữa các proton mang điện tích dương và các
neutron trung hòa không điện tích. Hạt nhân có mật độ vật chất đậm đặc cực lớn,
đến 100 triệu tấn trên một centimet khối. Đó là phần hữu hình. Một nguyên tử sẽ
không được hình thành nếu thiếu các phần vật chất này. Đâu là phần vô hình? Đó chính
là trật tự xoay vần giữa chúng. Phá vỡ trật tự này, nguyên tử sẽ nổ. Trật tự
xoay vần giữa các hành tinh chung quanh mặt trời, rồi Thái Dương hệ trong dải
Ngân hà, rộng ra tới toàn thể vũ trụ chính là phần vô hình. Nguyên tử và các
hành tinh đâu phải như bộ não người, qua lao động mà phát sinh ra trật tự quân
bình vô hình kia? Chúng hiện hữu ngay từ lúc vũ trụ được hình thành.
Khoa
học cho thấy sự sống con người cũng không khác, cần có cả hai yếu tố tinh thần
vô hình và vật chất hữu hình. Quan sát những người bị tình trạng hôn mê, từ vài
ngày đến vài tuần hoặc vài tháng, có khi nhiều năm, người ta thấy một số dần tỉnh
lại, số khác chết đi, số còn lại vẫn sống nhưng không còn biết hay cảm nhận được
gì nữa. Thân thể, phần vật chất vẫn sống nhưng đã mất đi đời sống tinh thần.
Người ta gọi đó là cuộc sống thực vật, không còn là con người bình thường.
Duy
Vật là cách nhìn thiên nhiên dưới dạng bản thể của vật chất.
Duy
Tâm là cách nhìn thiên nhiên dưới dạng các suy nghĩ qua trí óc của con người.
Hai
cách nhìn này thay vì phải bổ túc cho nhau để có một tầm nhìn tròn đầy hơn về
con người, lại bị một số người chọn làm công cụ lý luận siêu việt nhằm tiến
hành cách mạng, gây chiến tranh, đau thương và đổ nát cho cả nhân loại trong thế
kỷ vừa qua mà Việt Nam bất hạnh là lò lửa nóng nhất trong cuộc Chiến tranh Lạnh
thế giới. Đó là những cái nhìn phiến diện, chưa nêu ra được bản chất đặc thù của
phạm trù “người”.
Chủ
thuyết Duy Sinh mà Tôn Dật Tiên và các đệ tử của ông muốn khai triển qua chủ
nghĩa Tam Dân là triết phái trung dung, tìm cách dung hòa Duy Vật và Duy Tâm.
Duy Sinh chủ trương rằng con người do sinh lý phát triển tạo ra sinh hoạt, được
duy trì bằng sinh nguyên (tế bào sống của hữu cơ sinh vật) mà phát sinh vũ trụ
và xã hội. Tiền đề tối định là sinh tồn vận động. Xuất phát tối sơ là sinh thể.
Duy Sinh chú trọng đến hiện tượng sinh hoạt vật chất trong vũ trụ. Điều kiện hoạt
động nhân chủng trong xã hội bị siêu hình hóa thành vũ trụ quan. Thực ra Duy
Sinh chưa thành một hệ thống tư tưởng, vẫn còn dò tìm manh mối để bổ túc cho chủ
thuyết. Do căn cứ vào sinh thể, sinh nguyên và sinh tồn vận động, họ dễ rơi vào
chủ trương chủng tộc siêu việt, tiêu diệt hoặc nô lệ hóa các dân tộc nhỏ yếu.
Mỗi
triết thuyết chỉ phản ảnh được một phần của đời sống, không thấy rằng con người
là một tổng hợp bao gồm cả ba yếu tố Tâm, Vật, Sinh. Không có con người, vũ trụ
cứ vô tình quay mãi. Có cũng như không. Con người tạo ra ý nghĩa cho đời sống.
Chỉ ‘duy’ một yếu tố tâm, vật hay sinh, không thể tạo lập hiện tượng sống.
Không thể có cuộc sống thuần vật chất, thuần tinh thần hay thuần cầu sinh.
Trời
đất có đó, thời tiết vẫn đều đặn thay đổi, nhưng chỉ khi con người xuất hiện mới
biết phân định thời gian trước sau, đặt tên bốn mùa, tạo ra lịch, ăn mừng ngày
khởi đầu mùa Xuân, rồi cứ thế tiến hóa. Con người lập tâm cho trời đất, lập mệnh
cho nhân sinh theo nghĩa đó.
Người
chính là nguồn gốc hiện tượng sống của con người mà các chủ thuyết đã bỏ quên
hoặc chỉ nhìn thấy một phần, như những kẻ sờ voi. Cần phải đặt lại vấn đề:
chính con người, qua dòng lịch sử tiến hóa của mình, từ thời nguyên thủy đến
ngày nay và mai sau, là nguyên nhân lẫn động lực tiến hóa cho chính đời sống của
con người toàn diện, từ thân thể đến tâm lý và xã hội.
Vậy
khi nào con người là người? Do yếu tố nào mà vượn người hay tinh tinh thành người?
Từ
lúc nào người thành người?
Theo
các nhà nhân chủng học và thuyết Rời Khỏi Châu Phi (Out Of Africa) thì khoảng
hai triệu năm trước, loài Homo habilis có hai chân, có khả năng làm những dụng
cụ thô sơ bằng đá, dung lượng não cao hơn tinh tinh (chimpanzee) nhưng thấp hơn
người hiện đại, đã tiến hóa thành giống người Homo erectus đi đứng thẳng lưng.
Chính họ là giống rời khỏi châu Phi đi tản mạn khắp nơi trên thế giới. Cho đến
cách nay khoảng 500 ngàn năm, giống người đứng thẳng tiến hóa thành người thông
minh Homo Sapiens, bộ não có hình dạng và dung lượng giống với người hiện đại.
Vẫn
theo nhân chủng học, cách đây 10 triệu năm, có ít nhất hai giống khỉ ở châu
Phi, một là tổ tiên của loài khỉ đột ngày nay, và một là tổ tiên chung của tinh
tinh và con người. Nhưng sau đó khoảng 4-5 triệu năm, tổ tiên của loài tinh
tinh và tổ tiên loài người tách rời thành hai giống khác nhau. Các nhà khoa học
chưa biết rõ tại sao, đưa ra giả thuyết rằng có thể do phóng xạ mà con người chỉ
có 23 cặp nhiễm sắc thể, trong khi loài tinh tinh có 24 cặp. Đây vẫn còn là một
thách đố lớn cho giới nhân chủng và khoa học gia, rằng có phải tổ tiên của cả
tinh tinh và loài người tách ra làm hai, hay người là một giống hoàn toàn khác
biệt với tinh tinh?
Dựa
theo thuyết tiến hóa của Darwin, Mác và Ăng ghen cho rằng nhờ lao động mà bộ óc
con người phát triển, biết suy nghĩ và có tư tưởng. Ăng ghen viết trong tác phẩm
“Vai trò của lao động trong sự biến đổi từ vượn sang người” năm 1876 như sau:
“Trước
tiên là lao động, sau đó là cùng với khả năng nói - đó là hai yếu tố kích thích
cốt yếu nhất mà dưới ảnh hưởng của chúng bộ não của vượn đã dần biến đổi thành
bộ não người, chúng có hầu hết những điểm tương tự nhau nhưng não người lớn và
hoàn thiện hơn rất nhiều. Cùng song hành với sự phát triển của bộ não là sự
phát triển của những công cụ trung gian quan trọng nhất của nó - các giác
quan.”
Việc
phát hiện một cách khoa học rằng con người tách khỏi loài tinh tinh, với hệ thống
nhiễm sắc thể hoàn toàn khác, đã đủ chứng minh không phải loài vượn hay tinh
tinh thông qua lao động mà tiến hóa thành người. Trong thực tế, cho đến nay
không có loài vượn hay tinh tinh nào tiếp tục lao động để tiến hóa thành người
được nữa.
Vậy
loài người tách ra khỏi giống tinh tinh và thành người như thế nào? Trước hết,
rõ ràng là nếu loài người chỉ sống như tự nhiên, tức vẫn hái lượm và săn bắt
như bao loài thú khác, thì con người không thành người. Con người là người từ
lúc biết tìm cách sống khác với các loài động vật khác. Cái “biết” chủ quan của
người làm cho người khác với những thú vật khác từ khi khám phá ra lửa, biết ăn
chín, giữ vệ sinh và biết tu chỉnh tự nhiên để phục vụ cho chính con người.
Mác
nhìn ra khách quan mà không thấy chủ quan.
Hạt
cây rơi xuống đất hay do chim ăn rồi thả xuống vùng nào đó thì chỉ trông chờ
vào may rủi mưa nắng của đất trời mà mọc lên. Con người thì khác. Họ chủ động
đem hạt đi trồng cây mới, tức tu chỉnh tự nhiên để phục vụ chính mình và cộng đồng;
khả năng thuần hóa gia súc cũng mang ý nghĩa tương tự. Nói theo nhà tư tưởng Việt
là Lý Đông A (1920-1946?) thì con người “tái sinh sản” (sản xuất) cách sinh sản
(sản xuất) của tự nhiên và “tái hiệu suất, hiệu suất của lịch sử” (LĐA, Duy
Nhân Cương Thường, 1943).
Từ
đó mới có đời sống và xã hội người.
Không
như Mác nghĩ, ông cho rằng ngay từ trong xã hội nguyên thủy - con người còn ăn
lông ở lỗ, đực cái lẫn lộn như động vật, săn bắt hái lượm như loài thú - đã bắt
đầu đời sống người.
Dòng
đời cứ trôi đi, con người tiếp tục sống. Nhưng lịch sử loài người khác hẳn,
càng ngày càng văn minh tiến bộ, càng ngày càng “người” hơn theo cái biết dựa
trên lập trường nhân đạo của người, chứ không phải của tự nhiên để giành giật
phương tiện sản xuất, bỏ tù đồng bào, giết hại đồng loại không gớm tay. Các
loài vật khác cả triệu năm qua vẫn sống như thế.
Mác
nhận thấy mâu thuẫn giữa người và tự nhiên phải một mất một còn như các loài
thú khác, nên người cộng sản áp dụng trực tiếp quy luật mâu thuẫn đối kháng vào
xã hội, hô hào các giai cấp tiêu diệt nhau nào khác thú vật? Khi đưa quy luật tự
nhiên vào xã hội người, con người phải điều chỉnh lại để mâu thuẫn đối kháng,
mâu thuẫn hủy diệt trở thành quy luật đối lập thống nhất - có khác biệt nhưng đều
cùng cần tồn tại, cần dung hòa, không triệt tiêu nhau: đối lập thống nhất giữa
tự nhiên và xã hội; đối lập thống nhất giữa nhà nước và nhân dân; giữa cá thể
và tập thể.
Nhờ
sự tự điều chỉnh theo hướng nhân đạo (đời sống người) đó mà loài người ngày nay
biết hô hào bảo vệ, lành mạnh hóa môi trường sống; biết ‘go green’; biết chống
đối lãnh đạo Hà Nội đốn bỏ cây xanh; biết lên tiếng trên báo chí ‘lề dân’ phản
đối công ty Formosa ở Vũng Áng thải chất độc làm hại thiên nhiên và con người.
Cái
nhìn một chiều đặt nặng vật chất vạn năng, vật chất quyết định tất cả gây nguy
hiểm cho đời sống muôn loài như thế. Sống nương nhờ vào Mẹ Tự Nhiên (Mother
Nature) thì cũng phải biết ‘hòa’ cùng Mẹ Tự Nhiên, bảo vệ Mẹ Tự Nhiên. Mẹ Tự
Nhiên chết đi thì con người cũng chẳng thể sống.
Con
người cần sống cuộc sống “tự nhiên hòa”. Đừng để bị vật chất hóa, tự nhiên hóa
như quan điểm cộng sản. Không thể xây dựng được một đời sống tiến bộ và an bình
nếu không vừa tu chỉnh, vừa bảo vệ được môi trường sống tự nhiên chung quanh
con người.
*
*
No comments:
Post a Comment