12.12.2014
Trong lời đề từ
bài thơ “Ông phó cả ngựa”, Lê Đạt đưa ra nhận
xét: “Người đọc thời trước là một người đọc
tương đối thụ động tìm lý giải một ý đã có sẵn.
Người đọc thời nay là một người đọc tích cực cùng
tham dự phát nghĩa với nhà thơ. Người đọc phần nào
đồng tác giả với người viết.” (1)
Trong
đoạn văn của Lê Đạt, chữ “thời trước” ám chỉ
thời Thơ Mới; chữ “thời nay” ám chỉ thời của thơ
hiện đại chủ nghĩa. Tôi cho, ở đây, Lê Đạt đã
tiếp cận được bản chất của vấn đề. Là, dòng thơ
hiện đại chủ nghĩa tại Việt Nam, ở cả hai miền Nam
và Bắc, đều là loại thơ khả tác (scriptible; the
writerly), khác hẳn dòng thơ lãng mạn chủ nghĩa thời
1932-45 vốn là loại thơ khả độc (lisible; the readerly).
Cả hai thuật ngữ này tôi đều mượn của Roland Barthes
(2). Theo Barthes, giống như sự diễn giảng của Lê Đạt
ở trên, trong khi loại thơ khả độc là loại thơ ở đó
người đọc chỉ là những kẻ tiêu thụ thụ động,
luôn luôn được dẫn dắt để tiếp nhận, loại thơ
khả tác là loại thơ ở đó người đọc được khuyến
khích làm một người sản xuất, cùng với tác giả tham
gia vào việc sáng tác, bằng cách, ít nhất là nối liền
các chỗ đứt quãng và lấp đầy các chỗ còn trống
trong bài thơ.
Sự
tham gia của người đọc chỉ có thể thực hiện được
với điều kiện: tác giả phải giấu mặt hay ẩn mình
đi. Hiện tượng giấu mặt, ẩn mình của tác giả là
một hiện tượng có ý nghĩa đặc biệt trong thơ sau
1954. Nó gần với tính chất phi ngã của thơ hiện
đại Tây phương. Chúng ta biết một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của thơ Việt Nam thời trung đại
cũng là tính chất phi ngã. Có điều tính chất phi ngã
trong thơ trung đại và thơ hiện đại hoàn toàn khác
nhau. Tính chất phi ngã trong thơ trung đại là hậu quả
của chế độ phong kiến, nền nông nghiệp lạc hậu và
ba hệ thống triết học lớn của Đông phương: Nho giáo,
Lão giáo và Phật giáo; tất cả đều phủ nhận cá
nhân, coi cá nhân như một mảnh vụn trong cộng đồng,
trong xã hội hoặc trong vũ trụ; cái riêng, do đó, bị
tan biến trong cái chung. Tính chất phi ngã trong thơ hiện
đại, một chủ trương do Flaubert và sau đó, Leconte
de Lisle thuộc nhóm Parnassians tại Pháp vào cuối
thế kỷ 19 đưa ra, được Mallarmé và nhất là T.S.
Eliot hoàn chỉnh, nâng lên thành một lý thuyết (3),
ngược lại, hoàn toàn là một sự chọn lựa tự giác:
nhà thơ tự nguyện lùi lại sau, tự bôi xoá mình đi để
bài thơ hiện hữu như một cái gì độc lập, khách
quan. Nói cách khác, trong thơ trung đại, nhà thơ là một
cái tôi vắng mặt, chưa tự ý thức; trong thơ hiện đại,
đó là một cái tôi giấu mặt một cách tự giác và có
chủ đích.
Nhưng
khi tác giả tự nguyện ẩn mình, bài thơ sẽ trở thành
một tồn tại độc lập thay vì chỉ là một tấm gương
phản ánh một cái gì khác hay cái loa biểu hiện một
tâm tình gì khác ở ngoài nó. Tính tự trị (autonomy)
của bài thơ, nhờ thế, tăng lên. Và khi tính tự
trị chiếm ưu thế, các yếu tố hình thức sẽ
chiếm vị trí trung tâm của tác phẩm, cái vị trí, theo
truyền thống, thường dành cho nội dung hay chủ đề.
Yếu tố hình thức ấy, ở hội hoạ là hình thể và
màu sắc; ở tiểu thuyết là kỹ thuật kể chuyện; ở
thơ là ngôn ngữ. Chủ nghĩa hiện đại, do đó, thực
chất là một thứ chủ nghĩa hình thức và một thứ
chủ nghĩa duy mỹ.
Hệ
quả thứ hai của việc tác giả tự nguyện ẩn mình là
tính chất truyền cảm của thơ sẽ giảm xuống. Khác
với các nhà thơ miền Bắc, hầu hết các nhà thơ miền
Nam, một cách tự giác hay không, đều từ chối sử dụng
nhạc điệu như một phương tiện để chinh phục, khuất
phục người đọc. Trong phong trào Thơ Mới cũng như
trong thơ của Hoàng Cầm, Lê Đạt ở miền Bắc, với
mức độ nhiều ít khác nhau, chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa tượng trưng, đặc biệt của Verlaine, nhạc điệu
rất được coi trọng, có thể nói là được coi trọng
nhất; trong thơ miền Nam, nói như Thanh Tâm Tuyền, tuy nó
vẫn là một yếu tố cần thiết nhưng không còn là một
yếu tố quyết định nữa (4). Hầu hết các nhà thơ
miền Nam, trong những năm đầu, tức vào cuối thập niên
1950, hăm hở làm thơ tự do, từ đầu thập niên 1960 về
sau, dần dần quay lại các thể thơ cách luật, nhưng các
thể thơ cách luật ấy, dưới ngòi bút của họ, khác
hẳn các thể thơ cách luật cũ: thứ nhất là họ thường
bỏ niêm; thứ hai là họ thường ngắt theo nhịp lẻ,
nhịp 3/4, tức nhịp thất ngôn truyền thống hơn là thất
ngôn Đường luật; thứ ba là mật độ các thanh trắc
tăng lên; thứ tư là tần số xuất hiện của các từ
láy, các từ đệm ngày một thưa thớt dần; cuối cùng,
thứ năm là hệ thống vần cũng lỏng lẻo hơn: các nhà
thơ có khuynh hướng ưa chuộng vần thông hơn là vần
chính:
Anh
sẽ chép thơ trên thời gian
Lời
thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì
em hay một vừng trăng sáng
Đã
đắm trong lòng cặp mắt em?
(Nguyên
Sa)
Với
một nhà thơ có chút kinh nghiệm, chả có gì khó khăn cả
cái việc tránh những vần chênh vênh như gian,
ghen
và em
ở trên. Nguyên Sa không làm. Chỉ vì ông không thích.
Thế thôi. Chủ yếu là ông không thích những câu thơ
tròn trịa quá, những điệu thơ luyến láy và êm ả
quá. Đây cũng là tâm lý phổ biến một thời. Người
ta thích cành, lá hơn là hoa. Người ta thích sự gai góc
hơn là sự mượt mà. Ai cũng cố làm cho câu thơ trở
thành sần sùi, khúc khuỷu. Thơ của họ có cái gì như
gập ghềnh, như trắc trở. Võ Phiến gọi là giọng
“dấm dẳng”, giọng “khục khặc” (5).
Vấn
đề là: Để làm gì, những điệu thơ khúc khắc như
thế? Có lẽ có ba lý do chính: một là, để tước bớt
đi ma lực của nhạc điệu cho khía cạnh nhận thức của
thơ khỏi bị khía cạnh cảm xúc lấn át; hai là, để,
qua đó, thơ hợp với tâm trạng của họ hơn, nghĩa là
gần với đời thường, với hiện thực hơn; ba là, để
thực hiện nguyên tắc “dân chủ” trong việc cộng
tác: người ta không thể, một mặt, kêu gọi người đọc
tham gia vào việc tìm kiếm hoặc tạo dựng ý nghĩa của
bài thơ; mặt khác, lại tìm cách làm tê liệt người
đọc bằng những điệu ru quá du dương và quá trầm
bổng. Cả ba lý do trên, rút lại, có cùng một đặc
điểm: nỗ lực hoà giải giữa thơ và hiện thực, giữa
nhà thơ và người đọc thơ.
Theo
mạch luận lý ở trên, chúng ta có thể gọi thơ hiện
đại chủ nghĩa là một nền thơ dân chủ. Nhưng
chính ở đây lại xuất hiện một vấn đề: tại sao vô
số người đọc lại cảm thấy thơ hiện đại chủ
nghĩa tối tăm, khó hiểu, không thể tiếp cận được?
Điều này không những xảy ra tại miền Nam trước năm
1975 hay trong cả nước sau năm 1975 mà còn diễn ra hầu
như ở mọi nơi trên thế giới.
Từ
năm 1941, Delmore Schwartz ghi nhận: “đặc điểm được
bàn cãi nhiều nhất của thơ hiện đại chính là sự
tối tăm, khó hiểu của nó” (6). Tại sao? Ở đây, cần,
như Vernon Shetley nhắc nhở, phân biệt khái niệm tối
tăm và khái niệm khó hiểu. Khái niệm thứ nhất nằm
trong văn bản, ở sự thiếu rõ ràng giữa các yếu tố
từ vựng và ngữ pháp; khái niệm thứ hai nằm trong quan
hệ giữa người đọc và văn bản ấy, ở sự lúng túng
của người đọc khi xác định ý nghĩa chung của văn
bản (7). Sự tối tăm thường dẫn đến sự khó hiểu,
nhưng không phải sự tối tăm nào cũng khó hiểu cũng
như không phải bất cứ sự khó hiểu nào cũng là một
sự tối tăm. Có nhiều bài thơ tối tăm nhưng không khó
hiểu; ngược lại, nhiều bài thơ khác rất khó hiểu
nhưng lại chả có gì đáng gọi là tối tăm cả.
Nguyên
nhân của sự tối tăm của câu thơ là tính chất đứt
quãng: quan hệ giữa các hình tượng hay ý tưởng rời
rạc, xa nhau; sự can thiệp của yếu tố tiềm thức và
vô thức trong quá trình sáng tạo. Dùng một hình ảnh
của Huy Cận (8), thơ, thoạt đầu hình thành trong cõi mờ
mịt như những khối tinh vân trong vũ trụ: trong Thơ Mới,
những tinh vân ấy được lọc qua ý thức để thành
những mặt-trời-thơ, những hành-tinh-thơ; trong thơ sau
1954, tấm màn lọc ấy không còn, thơ nhiều khi mang
nguyên dạng một khối tinh vân mênh mông mù loãng, bất
định, rất khó nắm bắt.
Nguyên
nhân của sự khó hiểu một phần nằm trong phương pháp
sáng tác hiện đại chủ nghĩa, phương pháp ấy, nói như
Allen Ginsberg, nhắm đến việc mở rộng hơn nữa phạm
vi của ý thức (9), nói như Williams, chỉ trình bày những
sự vật chứ không phải là những ý tưởng (10), nói
như Joyce, chỉ muốn người đọc hiểu bằng những gợi
ý chứ không phải là những lời phát ngôn trực tiếp
(11).
Sự
tối tăm và khó hiểu của phần lớn thơ hiện đại đòi
hỏi người đọc, một mặt, nắm vững hoặc ít nhất
quen thuộc phương pháp sáng tác mới, mặt khác, nhạy
cảm và nhạy bén trong việc phát hiện các mối quan hệ
tiềm ẩn bên trong văn bản. Nói cách khác, thơ hiện đại
chủ nghĩa mời gọi người đọc tham dự vào quá
trình sáng tác nhưng đồng thời nó lại đòi hỏi người
đọc cũng là một nhà thơ hoặc đã được chuẩn bị
để làm một nhà thơ. Do đó, cái gọi là tính chất dân
chủ của thơ hiện đại chủ nghĩa thực chất là một
thứ dân chủ đặc tuyển (elitism), chỉ dành cho một
thiểu số. Thanh Tâm Tuyền, trong lời đề từ tập Tôi
không còn cô độc,
tuyên bố: “Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ
quyền uy... để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần
mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh
thổ”. Tô Thuỳ Yên, trong bài “Tôi,” từng viết: Tôi
chỉ cất lời ngợi ca cho người sành điệu muốn nghe.
Đó
là lý do tại sao, ở Việt Nam cũng như ở hầu khắp thế
giới, số người đọc thơ, nhất là thơ hiện đại chủ
nghĩa, càng lúc càng hiếm; ở một số nước, cơ hồ
chỉ giới hạn trong các khuôn viên đại học. Vô tình,
nó góp phần tạo nên khoảng cách mỗi ngày một xa giữa
cái gọi là “văn hoá cao cấp” (high culture) và “văn
hoá bình dân” (popular culture) trong xã hội. Đó cũng là
lý do tại sao José Ortega quan niệm: trong khi các nhà
thơ lãng mạn chủ nghĩa chủ yếu là những nhà thơ
bình dân (popular poets), các nhà thơ hiện đại chủ nghĩa
tự bản chất là những nhà thơ phản-bình dân
(anti-popular) (12).
***
Chú
thích:
- Lê Đạt (1994), sđd, tr. 50.
- Barthes, R. (1970), S/Z, Editions du Seuil, Paris; Richard Miller dịch ra tiếng Anh, Hill and Wang xuất bản tại New York, 1974.
- Xem Houston, J.P. (1980), French Symbolism and the Modernist Movement: A Study of Poetic Structures, Louisiana State University Press, Baton Rouge, tr. 14-19.
- Thanh Tâm Tuyền (1955), bđd.
- Võ Phiến (1994), “Thơ tình Trần Dạ Từ”, bđd.
- Dẫn theo Shetley, V. (1993), After the Death of Poetry, Duke University Press, Durham & London, tr. 1&2.
- Shetley, V. (1993), sđd, tr. 5-6.
- Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1986), sđd, tr. 33-34.
- Berke, R. (1981), Bounds out of Bounds, Oxford University Press, New York, tr. 50.
- Korg, J. (1979), sđd, tr. 178.
- Korg, J. (1979), sđd, tr. 137.
- José Ortega y Gasset (1968), The Dehumanization of Art and Other Essays on Art, Culture, and Literature, Princeton University Press, Princeton, tr. 5.
*
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các
bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý
của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập
trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment