Đặng
Phú Phong
Cập
nhật: 11/12/2014 10:52
Buổi
Hội thảo được tiếp thục vào ngày 7/12/14 tại hội
trường Việt Báo. Chủ tọa là hai nhà phê bình Nguyễn
Hưng Quốc và Hoàng Ngọc Tuấn đến từ Úc .
Diễn
già đầu tiên là nhà biên khào, lý luận văn học Đinh
Từ Bích Thúy với chủ đề: “Trách Nhiệm của Người
Trí Thức Trong Môi Trường Đa Nguyên của Miền Nam Trước
1975: Đọc (Truyện Vừa) Khi Từ Thức Về Trần của
Bình Nguyên Lộc”
Nhà
biên khảo Đinh Từ Bích Thúy.
Tiểu
sử: Đinh Từ Bích Thúy là biên tập viên tạp
chí văn chương mạng Da Màu, chuyên về lãnh vực phê
bình, dịch thuật và biên khảo. Tốt nghiệp ngành Luật
và cử nhân danh dự môn văn chương Anh/Pháp từ University
of Virginia. Ngoài Da Màu, cũng từng cộng tác với Việt
Báo, Hợp Lưu, Diacritics, Amerasia Journal, Manoa và Rain Taxi
Review of Books
Nhà
biên khảo Đinh Từ Bích Thuý (ĐTBT) giải thích tại sao
chọn đề tài thuyết trình truyện vừa “Khi Từ Thức
Về Trần” của Bình-Nguyên Lộc trong Hội Thảo Văn Học
Miền Nam: “Ông là một tác giả vừa đặc thù vừa
tiêu biểu cho nền văn học miền Nam Việt Nam. Văn nghiệp
ông phong phú, có thể nói rằng không gian văn chương của
Bình-Nguyên Lộc rất rộng, rất đa nguyên, nó bao gồm
lịch sử, văn hóa, và bản sắc dân tộc. Văn chương của
ông quan tâm về nhận thức học (epistemology), vì nhận
thức học đi liền với khái niệm về bản sắc và
truyền thống văn hóa. Bài khảo cứu của ông về nguồn
gốc địa danh thành phố Sàigòn cũng là một câu chuyện
rất thú vị về lịch sử di dân và nền tảng văn hóa
của người dân miền Nam. Cái tên Sàigòn có phải từ
gốc tiếng Miên là Prây Kor (Rừng Bò), hoặc từ tiếng
Tàu, trước được phiên âm là Thầy Gòn, Sài Gòng, Xì
Cống hay Sài Côn? Văn chương của Bình-Nguyên Lộc có sự
nối kết giữa các thời đại, nhưng cũng cho ta thấy
những đặc điểm về phong tục, tâm lý, và ngôn ngữ
của một chặng điểm nhất định trong lịch sử miền
Nam.
Tiểu
sử và văn nghiệp của Nhà văn Bình Nguyên Lộc được
giới thiệu như sau (tóm lược): Tên thật là Tô văn Tuấn
sanh ngày 7-3-1915 tại làng Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa, thuộc
Ðồng Bằng sông Ðồng Nai, Nam Việt. Từ năm
1919-1920 ông theo học chữ nho. Sau đó ông học trường
Tiểu học ở Tân Uyên (1921-1927). Năm 1929 ông học
trường Trung học Pétrus Ký ở Sàigòn, và đậu bằng
Thành Chung vào năm 1933. Rời trường Pétrus Ký ông thi vào
ngạch thơ ký hành chánh. Ban đầu ông phục vụ tại
Kho Bạc Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, rồi sau đó thuyên
chuyển xuống Kho Bạc Sàigòn, sau nầy được gọi là
Tổng Ngân Khố. Năm 1944, Bình-Nguyên Lộc viện lý
do mắc bệnh thần kinh nên rời nghề công chức. Vào năm
1945 ông theo kháng chiến chống Pháp và tản cư về Thủ
Dầu Một.
Vào
khoảng năm 1948, ông xuống Sàigòn và cư ngụ hẳn ở đó
tới năm 1985, sinh sống về nghề viết văn, làm báo.
Tháng 10 năm 1985 ông được xuất ngoại theo chương trình
đoàn tụ gia đình. Ông sang Mỹ định cư tại miền
Bắc California, và từ trần ở đó ngày 7-3-1987 vì bệnh
huyết áp cao.
Từ
năm 1956 Bình-Nguyên Lộc bắt đầu viết feuilleton có cốt
truyện phiêu lưu, tình cảm, và ký bút hiệu Bình-Nguyên
Lộc. Vào khoảng thời gian 1957-1958, ông cộng tác với
các tạp chí Bách Khoa, Văn Hóa Ngày Nay (của Nhất Linh)
và làm chủ nhiệm tuần báo Vui Sống năm 1959. Năm
1960-1963 ông phụ trách trang văn nghệ của báo Tiếng
Chuông, rồi năm 1964-1965 làm chủ biên nhật báo Tin Sớm.
Theo
những dữ liệu đã thu thập được, Bình-Nguyên Lộc có
khoảng 50 tiểu thuyết, 1000 truyện ngắn và bốn quyển
sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn gốc Mã Lai của
dân tộc Việt Nam là một công trình biên khảo cực
kỳ công phu và đồ sộ, nhưng chỉ được in phần đầu.
Tiểu thuyết Đò dọc, xuất bản năm 1959, được Giải
thưởng Văn chương Toàn quốc.
Các
truyện ngắn và tùy bút đặc sắc của ông nằm trong các
tập truyện Nhốt gió (1950), Ký thác (1960), Những bước
lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Tình
đất (1966), Thầm lặng (1967), Cuống rún chưa lìa (1969).
ĐTBT
phân tích truyện “Khi Từ Thức Về Trần”: “ là
một truyện cô đọng hóa những đề tài lớn của
Bình-Nguyên Lộc, hình như đã tiên đoán được những gì
sẽ xảy ra cho người miền Nam sau biến cố 75. Tại sao
nhân vật trong truyền thuyết lại có tên là Từ Thức?
Có phải vì ông từ chối sự thức tỉnh? Và thế nào là
thức? Thế nào là “không tỉnh”? “Không tỉnh” có
phải là ngủ mê? Như vậy truyện Từ Thức có liên hệ
đến truyện Trang Tử nằm mơ thấy bướm? Cả hai Từ
Thức và Trang Tử đều đánh dấu hỏi, “Tôi là ai”?”
Sau
khi đưa ra những dẫn chứng thật chặt chẽ bà cho rằng
: “Bình Nguyên Lộc đề cao khuynh hướng giao lưu văn
hóa. Khuynh hướng này phát xuất từ lịch sử di dân của
nguồn tộc Việt cùng ảnh hưởng bị ngoại bang đô hộ.
Song song với khuynh hướng này là tinh thần sáng tạo của
nhà văn trong cách tổng hợp và hiện đại hóa các ảnh
hưởng văn chương trong và ngoài Việt Nam. Truyện “Khi
Từ Thức Về Trần” lấy điển tích Từ Thức làm phông
chính, nhưng trong cái phông này là cả một kho tàng văn
học nhân loại mà kinh nghiệm của tác giả.”
“Khi
Từ Thức Về Trần” là truyện anh tài xế lái tắc xi
gặp nạn trong lúc chở khách trong xe, lúc tỉnh ra thì mới
biết thật ra anh trước đây là một thương gia gia giàu
có tên Ngô Văn Sở, một hôm đi chơi ở Đà Lạt, đã
trượt chân rơi xuống thác, rồi đập đầu vào vách đá
và sau đó bị mất trí nhớ (mà Bình Nguyên Lộc gọi là
chứng bệnh kiện vong (amnesia)). Khi Sở leo lên bờ thì
thấy có bộ quần áo có kèm lý lịch của một người
tên Nguyễn Văn Phi, giai cấp thợ thuyền, thì tưởng đó
là lý lịch của mình, rồi từ đó đã dùng lý lịch của
người này để sinh sống, sau đó lập gia đình với một
cô gái quá thì, là con một người chủ tiệm tạp hóa
trong một xóm lao động. Phi sau đó làm nghề lái tắc xi,
và khi bị một tên cướp dùng vật nặng đập lên đầu
thì cơn sốc này đã giúp Phi phục hồi lại trí nhớ,
cùng những kỷ niệm của cuộc đời cũ, khi chàng là một
chủ nhà buôn nhập cảnh xe gắn máy hiệu Thần Tốc. Lúc
này Phi/Sở nhận thức rằng mình có hai cảnh đời đối
nghịch, hai gia đình riêng rẽ. Thử thách của chàng nằm
trong sự chọn lựa. Chọn lựa nào, trong cảnh đời nào,
là một chọn lựa đúng?
Từ
những diễn biến của truyện ĐTBT đã rọi chiếu ra sự
liên hệ giữa nhân vật Sở và Bình Nguyên Lộc. Từ hoàn
cảnh lịch sử, mốc thời gian, diễn biến chính trị, bà
đã khơi dậy những ẩn dụ của tác giả giúp cử tọa
hiểu những vấn đề tưởng như không có tương quan lại
có sự nối kết một cách mạnh mẽ.
Kết
luận cho bài viết, ĐTBT đã cho cử tọa một lời kết
thú vị và lạc quan trong vấn đề làm sống dậy nền
VHMN: “Có thể nói, những điều quan tâm của Bình Nguyên
Lộc rất đáng được nghiên cứu và phân tích trong thời
kỳ internet. Dù lúc sinh thời ông lo lắng rằng nhiều tác
phẩm, mà số đông viết theo thể feuilleton cho các nhật
báo, qua những thời điểm loạn lạc chiến tranh ở Việt
Nam, đã bị “thất bổn,” ngày nay, nhờ các trang mạng
với sứ mệnh phục hồi Văn Chương Miền Nam như Việt
Nam Thư Quán, http://vnthuquan.net/truyen/tacpham.aspx?tacgiaid=40,
Viet Messenger, http://vietmessenger.com/books/?author=binhnguyenloc,
và trang mạng Bình Nguyên Lộc,
http://www.binhnguyenloc.de/main.html (thực hiện bởi các vị
Vinh Lan, Phan Tấn Tài và Trang Quan Sen ở Đức, bao gồm
nhiều tài liệu quý cung cấp bởi con trai tác giả là Tô
Hòa Dương, nhà giáo Nguyễn Văn Đông, nhà biên khảo
Nguyễn Vy-Khanh, tiến sĩ Nguyễn Hữu Phước và họa sĩ
Lê Tài Điển), chúng ta đã có một tủ sách, mặc dù
chưa hoàn tất, nhưng cũng khá đáng kể về văn nghiệp
Bình-Nguyên Lộc.
Diễn
giả thứ hai là nhà văn Đặng Thơ Thơ với đề
tài:Khái Niệm Mẹ và Di Sản Cho Con trong Cuộc Chiến"
(qua các truyện của Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Minh
Quân, Nhã Ca, và Trùng Dương.)
Nhà
văn Đặng Thơ Thơ
Tiểu
sử: Đặng Thơ Thơ, sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Định
cư tại Hoa Kỳ năm 1992. Cộng tác với các tạp chí Văn
Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Gió Văn, Chủ Đề. Thành
viên trong ban biên tâp Tạp Chí Hợp Lưu từ 2003-2005.
Đồng-Sáng Lập Viên tạp chí văn chương mạng Da Màu
(damau.org) từ tháng 8/2006 cùng với Đỗlê Anhđào và
Phùng Nguyễn. Chủ Biên đầu tiên của Da Màu từ
2006-2008.
Tác
phẩm đã xuất bản: Phòng Triển Lãm Mùa Đông- tuyển
tập truyện ngắn (Văn Mới 2002) và Khả Thể- tuyển tập
truyện ngắn (NgườiViệtBooks, 2014).
Hiện
là biên tập viên mục sáng tác văn xuôi trên Da Màu và
làm việc cho Học Khu Giáo Dục Garden Grove – California.
Mở
đầu cho bài thuyết trình của mình nhà văn Đặng Thơ
Thơ (ĐTT) đã dùng một đoạn ca từ trong bản nhạc
Gia Tài Của Mẹ của Trịnh Công Sơn như muốn
báo hiệu cho cử tọa một bài diễn thuyết dài, xuyên
suốt 5 tác giả, để có một kết luận về Khái
Niệm Mẹ và Di Sản Cho Con trong Cuộc Chiến.
Bà
nói:” Phần trình bày của tôi là một cố gắng nhằm
tìm hiểu quan điểm về màu da, giới tính, chủng tộc,
và giai cấp như một thứ di sản của MNVN. Bài viết này
là một cách đọc lại TTMĐ của Viên Linh trong ý niệm
về Mẹ/ Cái Chết của Mẹ/ Sự Ám Ảnh của Hồn Ma
Mẹ/và tất nhiên trong một bao trùm lên tất cả, là cách
những người con của dân tộc kế thừa Gia Tài của Mẹ
ra sao. Vì chủ đề của bài viết này khởi đi từ việc
đọc TTMĐ, những tác phẩm khác đề cập trong bài, tùy
theo mức độ nhiêu hay ít, đều nằm trong tương quan đối
chiếu với TTMĐ, và những tác phẩm này bao gồm: truyện
dài Gia Tài Người Mẹ của DNM, truyện dài Đêm Nghe Tiếng
Đại Bác của Nhã Ca và hai truyện ngắn “Người
Con Gái Tuổi Mèo” của Trùng Dương và “Ăn Chịu Thử
Một Lần” của Minh Quân. Bài viết sẽ tìm cách mở
rộng những câu hỏi về căn cước Việt Nam trong cuộc
“tranh chấp tương tàn” như Dương Nghiễm Mậu đã nêu
ra, câu hỏi về tương lai của đất nước trong bối cảnh
hậu thuộc địa và ý thức hệ nội chiến, dự cảm của
Văn Học Miền Nam đứng vào thời điểm năm 1963 khi Viên
Linh viết TTMĐ và DNM viết GTNM,.”
Sau
đó bà lần lượt là lần lượt diễn giải 4 vấn đề
nêu ra:
1-Di
Sản Giai Cấp và Ý Thức Hệ của những người con Miền
Nam: Trước khi đi vào Thị Trấn Miền
Đông của Viên Linh, tác phẩm được đề cập nhiều
nhất, ĐTT giải thích những khái niệm của bà trong
bài nói chuyện :” Gia tài theo định nghĩa thông thường
là một thứ cụ thể, có thể chia chác, là nguyên nhân
tranh chấp, ganh ghét, giết chóc. Là thứ có thể sở hữu,
chiến đoạt, làm chủ. Là thứ đương nhiên có quyền
hưởng trong tư cách là con cái. Là thứ chỉ có thể tận
hưởng sau khi Mẹ chết đi.
Mẹ:
là nguồn yêu thương, nuôi dưỡng, bảo bọc. Là sự hỗ
trợ tinh thần và hy sinh vô điều kiện. Là nguồn kết
nối các anh chị em trong gia đình. Mẹ cũng là biểu tượng
của quê hương đất nước.
Anh
chị em: những người cùng mẹ, cùng lớn lên trong một
gia đình, cùng chia xẻ quá khứ và có sự hiểu biết
thông cảm dựa trên quá khứ chung. Những người sẵn
sàng lắng nghe và nâng đỡ.
Quê
hương đất nước: nơi sinh trưởng, niềm tự hào, hãnh
diện, với lịch sử và niềm tin vào hiện tại cũng như
tương lai.”.
ĐTT
đi sâu vào TTMĐ gồm có các chương: Thế Hệ Cuối Cùng,
Nhà Trí Thức, Nhà Cách Mạng, Bản Di chúc, Cỗ Áo Quan,
Thi Hài Trở Lại, Người Mẹ, và Thế Hệ Lên Đường.
Mở đầu truyện, những người con trở về Tây Phố khi
nhận được tin mẹ mất. Họ về để lo ma chay và để
nhận gia tài. Người mẹ- bà Thịnh Phước- là một
nhân vật có thế lực của Tây Phố. Thế lực này đang
bị lung lay bởi những tranh chấp quyền lực trong Tây Phố
mà đại diện là ông Hội Đồng và những phần tử kinh
doanh mới.
Toàn
truyện xoay quanh việc an táng mẹ. Những người con Hiệp,
Liên, Sĩ lần lượt từng người về nhà, người gia nhân
trung thành biến mất, thấy cửa vào nhà đã mở sẵn,
trừ căn phòng có ổ khóa bằng đồng đặc. Người này
tưởng người kia phải ở nhà và an táng mẹ. Họ dường
như không cần biết thi hài mẹ quàn ở đâu, họ bận
đấu khẩu với nhau bằng một ngôn ngữ thẳng băng, tàn
nhẫn, cố tình gây thương tích. Học anh cả là người
cuối cùng xuất hiện cùng lão gia nhân. Đến chương bốn
chúng ta biết được lão gia nhân đã quàn thi hài người
mẹ trong căn phòng có ổ khóa đồng đặc trước khi bỏ
đi tìm Học. Nhưng khi lão gia nhân, người duy nhất giữ
chìa khóa, mở cửa phòng thì cỗ quan tài đã biến mất.
Trong
chương kế tiếp, những người con bàn xem có nên cải
táng mẹ ở đỉnh đồi như tâm nguyện bà vẫn nói lúc
còn sống. Tuy nhiên các nhân vật hầu như không làm gì
cụ thể cho việc an táng me, họ bận tranh luận và đấu
khấu, có bất đồng giữa Sĩ và Liên, có bạo lực xảy
ra giữa Sĩ với Liên và Hiệp. Cuối cùng, bị cô lập,
Sĩ bỏ đi mang theo tấm chân dung của bà TP. Quan hệ anh
chị em giữa họ là để “thanh toán” những di sản quá
khứ, không phải để tưởng niệm hay hàn gắn
Cách
nhìn về quê hương đã thay đổi, tùy theo thế hệ:
-Liên
nhìn Tây Phố và thấy “những mặt nhà ngô nghê,”
“những ruộng muối bằng phẳng từng bậc” về mé
biển. Quê hương trong TTMĐ là một “mô hình bằng giấy
bìa”” tẻ nhạt, một “quê hương không phải nhà ở,
không phải cửa hàng, lưng chừng sự nghèo nàn tiều tụy
và sự đảm đang muộn màng” (Viên Linh 10).
-Quê
hương là một thị trấn “xác xơ âm thầm trong những
cơn mưa nhạt nhẽo” (Viên Linh 10). Và kiến trúc nổi
bật nhất từ trong chuyến xe đò nhìn ra là “Đài tử
sĩ ở giữa tỉnh nhô cao hơn tất cả” (10). Với đài
tử sĩ, quê hương bây giờ mang nặng dấu vết của chiến
tranh. Quê hương bây giờ đồng nghĩa với một quá khứ
buồn tênh.
Viên
Linh đã lưu ý người đọc về cái “tàn tích lỗi thời”
và rất dễ nhận ra đó là một quá khứ gần, nhưng đã
thuộc về một giai đoạn lịch sử khác. Tàn tích lỗi
thời vào thời điểm năm 1963 ở miền Nam là bóng tối
của “100 năm đô hộ giặc Tây” và những di sản hậu
thuộc địa mà DNM đã chất vấn trong GTNM.”
2-
Di Sản Hậu Thuộc Địa : Trong phần này Nhà văn
ĐTT đã dùng Gia Tài Người Mẹ của Dương
Nghiễm Mậu để diễn đạt. ĐTT dùng nhận định của
nhà phê bình Thụy Khuê :
«
Tiểu thuyết Gia tài người mẹ trình bày cục diện một
dân tộc trước những xâu xé đớn đau gây ra bởi chính
những đứa con thoát thai trong lòng dân tộc ấy : Gia tài
người mẹ, của Mậu, không chỉ là nước Việt buồn,
mà là một đất nước trống rỗng, anh em giằng xé,
tranh quyền làm chủ. Trong cái gia đình thoái hóa tồi tệ
ấy, mỗi người xướng lên một thoại.. Đó là hình ảnh
bầm tím, khốn cùng của mẹ Việt Nam. Cái gia tài tàn
mạt ấy, còn bị cưỡng bách thông gia với những gia tài
khốn khổ hơn của một loạt những dân tộc nhược tiểu
khác » Và, phần nhận định của mình :
“ Trong
di sản của « nhược tiểu, đói khổ, kỳ thị, dốt nát
» mỗi nhân vật của GTNM đều dành cái quyền được
làm người duy nhất đau khổ, hoặc người chịu nhiều
đau khổ nhất, quyền làm nạn nhân, để phủ nhận nỗi
đau của người khác, để giữ gia tài về phía mình. Họ
đau khổ vì dòng máu trong người họ. Các nhân vật sống
dưới cái nhìn đầy thiên kiến về màu da, sự tranh chấp
của các thứ chủ nghĩa, sự hung bạo của di sản thuộc
địa. Trong GTNM có một thứ một thứ gia tài khác nổi
trội trong liên quan đến thân phận đất nước, đó là
di sản của màu da và giới tính- sản phẩm của chủ
nghĩa thuộc địa sau 100 năm thống trị của Pháp ở Việt
Nam. Nếu quan hệ mẹ con trong TTMĐ có thể đọc như một
ẩn dụ của quyền lực và áp chế trong mọi cấu trúc
xã hội, thì trong GTNM với sự có mặt của Nhẫn trong
truyện như một “vết nhơ” của lịch sử, quan hệ mẹ
con và những nỗ lực thoát ly khỏi gia đình của những
người con trở thành biểu tượng của một tinh thần dân
tộc muốn phủ nhận quá khứ bị trị và những di sản
của chế độ thực dân. Trong cả hai truyện GTNM và TTMĐ,
quan hệ mẹ-con là một quan hệ phức tạp, lẫn lộn
nhiều thứ tình cảm xung đột- một quan hệ tương
tự giữa nước thuộc địa và nước bảo hộ, nước
thống trị và nước bị trị, một đế quốc với những
quốc gia nhược tiểu rơi vào vòng kiểm soát kinh tế,
quân sự, chính trị của đế quốc đó. Đó là xung đột
khi mẫu quốc muốn nước thuộc địa là một hình ảnh
nối dài của chính nó, và mâu thuẫn khi nước thuộc địa
tìm cách thoát ly khỏi ảnh hưởng của mẫu quốc để
khẳng định bản sắc và sự độc lập của mình
Dương
Nghiễm Mậu đã dùng người mẹ như ẩn dụ về dân tộc
qua những lần “kết hôn” với những thể chế khác
nhau: chế độ thuộc địa (qua ẩn dụ bị cưỡng bức),
ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa và lý tưởng tự do của
miền Nam (qua ẩn dụ nhiều đời chồng)… Nhưng ngay tại
thời điểm 2014 này, GTNM lại đưa ra một chiều kích
lịch sử khác. Cuối truyện GTNM là cảnh bóng tối bao
trùm và những người con ngồi nghe tiếng chân của những
kẻ lạ mặt tiến lại gần. Vào thời điểm đó DNM muốn
ngụ ý những thế lực quốc tế của hai khối cộng sản
và thế giới tự do đang tranh giành ảnh hưởng trên phần
đất gia tài của Mẹ. Hơn 30 năm sau, chúng ta không thể
nào không liên tưởng đến tình trạng đất nước ngày
hôm nay với sự có mặt của những kẻ lạ đã hiện
diện ngay trên chính quê hương.”
3-
Di Sản của Căn Cước Dị Hóa (Xa Lạ Hóa): Di Sản
của Căn Cước Dị Hóa (Xa Lạ Hóa): Trong phần này ĐTT
nói thêm về GTNM và trích dẫn tiểu thuyết Đêm
Nghe Tiếng Đại Bác của Nhã Ca , hai truyện ngắn
“Người Con Gái Tuổi Mèo” của Trùng Dương và “Ăn
Chịu Thử Một Lần” của Minh Quân để phân tích,
diễn giải.. Từ những xung đột với xã hội , mâu thuẫn
, xa lạ với chính họ những nhân vật trong GTNM như
Nhẫn (quyết định tự tử vì không biết hình dung sao
khi mất mẹ) . Như Thạch, Tuấn không thể dàn xếp
được xung đột giữa cách họ nhìn chính họ và cách họ
bị nhìn nhận dựa trên liên hệ với mẹ và gia đình
để cho bà nhận định:”Di sản hậu thuộc địa
là một đòn giáng nặng nề, đến bây giờ những quốc
gia Phi Châu, châu Mỹ Latin, những nước bị trị của thế
giới thứ ba như Haiti, và Việt Nam, vẫn chưa thể nào
hồi phục.”
Trong
ĂCTML của Minh Quân, bé Tâm, lai Mỹ đen, mồ côi mẹ, bảy
tuổi, làm con ở không công cho gia đình cậu. Tâm bị bỏ
đói, bị ngược đãi, bị mắng chửi, bị hành hạ đánh
đập. Tâm ở vị trí hạng bét trong nhà, thấp hơn cả u
già, cả chị bếp, vì màu da của nó. Khi khách đến chơi
Tâm không có quyền bưng nước trà lên nhà trên mời. Tâm
là một vết nhơ cần phải chối bỏ. Trong “Người Con
Gái Tuổi Mèo” của Trùng Dương. Bích muốn sống như kẻ
xa lạ của Albert Camus, Tuấn của DNM trong cơn hoang tưởng
đã cầm dao giết người và khi tỉnh lại anh nhận ra
người bị giết chính là mình, mình đã giết chính mình.
Còn những người con của TTMĐ - khi trở về Tây Phố-
nhận ra họ mới chính là người lạ mặt ở ngay trong
lòng quê hương, người lạ ngay trong căn nhà của Mẹ-
bởi họ trở về như khách mời trước mắt dân Tây phố.
“ Với
một di sản đã bị xa lạ hóa, việc tham dự vào trò
chơi gia tài của Mẹ đẩy quá trình lạ hóa tăng tốc.
Quan hệ mẹ-con cũng là một di sản bị lạ hóa, đi qua
nhiều giai đoạn từ khi con còn thơ dại cho đến khi con
trưởng thành. Người mẹ chứng kiến sự thay đổi của
những đứa con và cùng lúc tự thay đổi hay bị thay đổi
trong cách con cái nhìn lại mình. Mối liên hệ mẹ-con đã
biến dạng, đã hư hao, trước khi cái chết đến. Trong
cả GTNM lẫn TTMĐ, giới tính nữ đã bị lạ hóa trong
môi trường gia đình toàn những người con trai. Giới
tính nữ luôn bị đẩy về phía phải khuất phục, chịu
đựng, thiệt thòi, ngay cả khi người mẹ bị hiếp dâm
thì xã hội lại quay trở lại hành tội chính nạn nhân
(trích GTNM). Giới tính nữ bị phân biệt đối xử nhất
khi họ rơi vào những thân phận bất hạnh bên lề. Khi
hiện hữu của họ bị coi là phản quy ước, không đồng
bộ, thì sự trừng phạt xảy ra, nói chung, vì họ khác
mọi người, vì họ là họ. Sự trùng hợp ở đây là
những nhân vật này đều mang giới tính nữ, đều ở vị
trí không chính thống, như con ghẻ, hay con mồ côi, và/hay
con lai da đen, con bị từ khước, và trùng với đáp án
rằng giới tính nữ là một yếu tố xa lạ, cũng như yếu
tố chủng tộc/ màu da, và giai cấp đã nói ở trên.
Riêng
trong Đêm Nghe Tiếng Đại Bác (ĐNTĐB) của Nhã Ca thì
khác. Như Nguyễn Mạnh Côn đã viết trong phần mở đầu,
quan hệ anh chị em và cha mẹ-con cái ở đây thật lý
tưởng, tất cả quan tâm và yêu thương nhau.
Con
người bằng cách tụ họp thành những đơn vị lớn hơn,
đang chống trả thắng lợi với ý chí tiêu diệt của
chiến tranh – ngoại cảnh.”
Những
nhân vật của ĐNTĐB nhìn họ như một phần tử của gia
đình, họ nhìn chính mình qua tương quan với nhau, một
tương quan hòa hợp, khác với TTMĐ hay GTNM. Có thể cho
rằng khác biệt này một phần đến từ giới tính của
người viết, hay đúng hơn là vai trò gia đình/xã hội mà
giới tính nữ đảm nhiệm đã ăn vào tâm thức và thể
hiện qua trang viết. Nhã Ca nhìn chiến tranh từ góc độ
người phụ nữ, người mẹ, người em, người tình trong
vai trò nuôi dưỡng, chăm sóc, đan áo, thêu khăn, nấu
nướng, đi ủy lạo những người cô quả Gia tài của Mẹ
ở đây không là vật chất mà là sự nuôi dưỡng và bồi
đắp
4-
Định Nghĩa lại Gia Tài: Từ những phân tích khái
niệm của các tác giả qua các nhân vật: Truyện
ngắn “Người Con Gái Tuổi Mèo” của Trùng Dương đưa
ra một cách nhìn siêu hình hơn về gia tài của Mẹ. Người
mẹ của Bích đã qua đời nhưng bà xuất hiện trong
truyện bằng sự vắng mặt của mình Ở đây Bích đã
biến thành Ma, Bích đã trở nên giống Mẹ. Đó là một
quá trình đẩy tới tận cùng ý niệm về Mẹ, từ hấp
hối (GTNM), đến tự vẫn (TTMĐ), và trở thành một
hồn ma không siêu thoát được, mà lại là một hồn ma
còn sống nữa (trong NCGTM). Nhà văn ĐTT muốn đưa ra một
Định Nghĩa lại Gia Tài (người mẹ) như là một đề
nghị, một dấu hỏi:
” Như
vậy để định nghĩa lại gia tài, có phải đó là một
sự mồ côi cả về tinh thần lẫn vật chất như trong
ĂCMLT của Minh Quân? Đó có phải là sự tranh giành và
khẳng định tính chính thống của chủng tộc trong GTNM
của Dương Nghiễm Mậu? Hay đó là một bữa tiệc mà
nhân vật được mời không xuất hiện như trong ĐNTĐB
của Nhã Ca? Và vắng một người là vắng tất cả?
Phần
Kết: Giải Pháp nào cho Gia Tài và Bóng Ma của Mẹ
Nhà
văn ĐTT đã nối kết từ những quan hệ phức tạp giữa
Mẹ và con đầy ẩn dụ, trong những tác phẩm đã dẫn
để đưa ra phần kết như sau: “Mẹ và di sản của
Mẹ là một dự cảm rất sớm của những người viết
miền Nam giai đoạn 54-75 về sự tồn tại của một nền
văn học hai mươi năm, chết rất trẻ, và giữ trong nó
tất cả chất tươi mới, đột phá, sáng tạo, của một
thế hệ viết trong tự do và viết trong ý thức rạch ròi
về trách nhiệm xã hội của người viết. Nếu chúng ta
đã viết cho dòng VHMN, nếu chúng ta đã đọc những tác
phẩm của VHMN, nếu chúng ta đã từng là nhân chứng/
nhân vật sống cho những tác phẩm của VHMN, thì chúng ta
là người đã tạo ra những hồn ma đó, và chúng ta chịu
trách nhiệm phải cư xử thế nào cho phải đối với
những bóng ma của Mẹ. Đó là công việc của người làm
văn học để lưu truyền những di sản tinh thần cho những
thế hệ tiếp theo. Vả để nhắc nhở rằng hồn ma của
Mẹ là gia tài đích thực của các con.”
Diễn
giả thứ 4, người cuối cùng của buổi sáng là nhà thơ
Đỗ Quý Toàn với đề tài: “Tưởng Nhớ Phạm
Quỳnh”
Nhà
thơ Đỗ Quý Toàn
Tiểu
sử: Sinh năm 1939 tại Bắc Ninh
Bút
hiệu: Vương Hữu Bột, Chân Văn
Cựu
giáo sư ngành Tài chánh Xí nghiệp tại Đại học Quebec,
Canada.
Chủ
bút tạp chí Thế Kỷ 21.
Tác
phẩm đã xuất bản:
-
Nàng - Thơ, 1965
-
Đêm Việt Nam - Tho, 1966
-
Yêu Con Dạy Con Nên Người Việt - 1988
-
Cỏ và Tuyết - Thơ, 1989
-
Đổi Mới Kinh Tế
-
Tìm Thơ Trong Tiếng Nói – 1992.
Trước khi nói
về tiểu sử Nguyễn Đức Quỳnh, nhà thơ Đỗ Quý Toàn
đã nói rằng : Nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh là một nhà
văn đáng nhắc tới vì ông có một thế đứng đặc
biệt, độc lập, nhưng ông tạo được ảnh hưởng trên
rất nhiều nhà văn thuộc thế hệ sau. Nhưng Nguyễn Đức
Quỳnh không ảnh hưởng trên phong cách viết, cũng không
trên đề tài viết của những người từng gặp ông, vì
ông luôn chủ trương tự do văn học, nghệ thuật. Ảnh
hưởng của ông là trên quan điểm chính trị, nhưng điều
đó cũng không quan trọng bằng ảnh hưởng trên nếp suy
nghĩ, trên thái độ của các nhà văn, nhà thơ và cả nhà
báo về sứ mạng của mình , hoặc dùng một chữ như ông
thường nói , là ý thức về than phận nhược tiểu của
mình những người văn nghệ trong xã hội, trong một dân
tộc gọi là “ nhược tiểu”. Nhiều nhà văn , thi sĩ,
họa sĩ, nhạc sĩ và các ký giả, tiếp xúc với Nguyễn
Đức Quỳnh rồi vì ảnh hưởng của ông đã tin tưởng
rằng người văn nghệ phải giữ vai trò độc lập trước
các thế lực chính trị, kinh tế.”. Và có lẽ, những
lời trên chính là lý do nhà thơ Đỗ Quý Toàn chọn đề
tài Nguyễn Đức Quỳnh.
Nguyễn Đức
Quỳnh sinh ngày 20/11/1909 tại Trà Bồ, Phù Cư, Hưng Yên,
lớn lên sang Pháp, học về kỹ thuật ngành truyền tin,
về nước làm việc trong ngành địa chính. Năm 1931
bắt đầu viết. Theo tài liệu của nhà văn Thế Phong,
Nguyễn Đức Quỳnh đã in từ năm 1920 hằng chục tác
phẩm có khuynh hướng giáo dục đại chúng các vấn đề
khoa học, kỹ thuật, dân tộc học và đặc biệt là về
lịch sữ loài người và một số sách về văn chương
như:
Mình
với Ta ( thơ, 1930) và các tiểu thuyết:
Bốn
biển không nhà (1930)
Những
kẻ lạc đường (kịch, giải thưởng Les Amis de l’Art
Sài Gòn, 1939)
Thằng
Cu So (1941)
Thằng
Phượng (1941))
Thằng
Kình (1942)
Sắt
đã vào lò (1943).
Ngoài
ra ông là người nghiên cứu chủ nghĩa Marx rất thâm sâu,
ông đã dịch bộ Tư Bản (Das Kapital) từ tiếng Pháp.
Năm
1946, Nguyễn Đức Quỳnh tham gia kháng chiến chống Pháp,
trở thành bạn của Phạm Duy, Mai Thảo, Thái Tuấn, những
người vượt tuyến, bỏ Cộng Sản về vùng Quốc Gia.
Năm
1952, Nguyễn Đức Quỳnh về Hà nội, sau đó vào Huế,
rồi vào Sài Gòn, tham gia , cọng tác với nhiều tờ báo
như: Đời Mới, Người Việt, lập nhóm Quan điểm. Khoảng
năm 59-50 nguyễn Đức Quỳnh lập Đàm Trường Viễn Kiến,
tại đây tất cả mọi người được yêu cầu gọi nhau
là an hem dù cách xa tuổi tác. Rất nhiều nhà thơ
nhà văn tập họp nơi đây: Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ
Từ, Viên Linh , Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Thụy Long, Trần
Tuấn Kiệt, Nguyễn Khắc Giảng, Đào Mộng Nam, Nguyễn
Nghiệp Nhượng, Hà thế Ruyệt, Nguyễn Nhật Duật, các
nhà chính trị rất than với Nguyễn Đức Quỳnh như
Phạm Xuân Thái, Ngô Trọng Hiếu.
Mối
quan tâm của Nguyễn Đức Quỳnh là vượt Marx, không quan
tâm đến Hồ Chí Minh hay Ngô Đình Diệm.
Nhà
thơ Đỗ Quý Toàn đặc biệt nhắc đến cuốn truyện “
Ai có qua cầu” của Nguyễn Đức Quỳnh với cả một sự
trân trọng. Tuy đã sắp hết giờ nhưng cử tọa nhao nhao
đề nghị ông đọc lại một phần câu truyện của hai
cái bóng.
Bằng
sự hóm hỉnh, và nắm rõ vấn đề nên phần nói chuyện
của nhà thơ Đỗ Quý Toàn đã làm được việc hòa nhập
giữa diễn giả và cử tọa khiến không khí hội trường
vui vẻ lên.
Sau
giờ nghỉ trưa, nhà văn Bùi Bích Hà được mời giữ vai
trò chủ tọa.
Luật
Sư Trần Thanh Hiệp là diễn giả đầu tiên của buổi
chiều với đề tài :” Về nhóm Sáng Tạo”.
Luật
sư Trần Thanh Hiệp.
Tiểu
sử: Luật sư Trần thanh Hiệp sinh năm 1927 tại Hà
Tĩnh. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Công Pháp, Đại Học Aix
Marseille và Cao Đẳng Chính Trị Học, Đại Học Paris II.
Ông từng là luật sư Tòa Thượng Thẩm Saigon và Tòa
Thượng Thẩm Paris.
Sau
năm 1975, ông định cư tại Pháp, và từng là chủ tịch
Trung Tâm Văn Bút Hải Ngoại trong nhiều năm. Trong vai trò
này ông đã cùng Văn Bút Quốc Tế đấu tranh để cho
nhiều văn nghệ sĩ được trả tự do. Luật sư Trần
Thanh Hiệp mô tả công việc mà ông đang thực hiện với
tư cách là chủ Tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam về
Nhân Quyền có trụ sở tại Paris.
Ls
Trần Thanh Hiệp, tuổi tác đã khá cao (87 t.) nhưng với
giọng nói rất khỏe, ông minh định là không soạn
thành bài viết hẵn hòi, ông lên đây để cùng tâm tình
với cử tọa về những điều mà ông đã từng gắn bó
với “nhóm” Sáng Tạo. Ông cho biết có nên gọi là “
Nhóm Sáng Tạo” hay không vì thực sự nó không phải là
một nhóm, nhưng gọi sao cũng được. Tuy nhiên, thực sự
có một Tạp chí Sáng Tạo. Về sự thành lập của Tạp
chí Sáng Tạo , ông cho biết: “Tạp chí Sáng Tạo ra đời
vào một thời điểm đặc biệt trong lịch sử Việt Nam.
Ðó là bối cảnh pháp-lý-chính-trị đất nước bị Hiệp
Ðịnh Geneva 1954 chia đôi, với mục đích tạm chấm dứt
chiến sự, trong khi chờ đợi tìm được giải pháp chính
trị thống nhất nước Việt Nam. Sự áp dụng Hiệp Ðịnh
Geneva 1954 đã dẫn tới việc dồn quân, dồn dân thành
hai miền khác nhau, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Miền
Bắc là vùng tập trung của phần dân chúng thuộc quyền
cai trị của chính quyền Cộng Sản. Miền Nam, phần lãnh
thổ từ vĩ tuyến 17 trở xuống tới mũi Cà Mau là vùng
thống thuộc chính quyền xuất phát từ thực tế quân
viễn chinh chiếm đóng mà Pháp trao trả lại cho quốc gia
Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng
Bảo Ðại. Một cuộc tổng tuyển cử đã được dự
liệu sẽ tổ chức vào năm 1956. Cuộc tổng tuyển cử
này đã không diễn ra, trong khi lại có hơn một triệu
người ồ ạt di cư từ Bắc vô Nam.
Trước bối
cảnh đó, chúng tôi dăm ba người gốc miền Bắc, miền
Trung, miền Nam, tuổi khác nhau trên dưới 30 nhưng không
quá cách biệt, vì tình cờ do chiến tranh và cuộc di cư
hơn một triệu người nói trên, đã gặp nhau vào một
một nơi không định trước là Sài Gòn. Chúng tôi, Nguyễn
Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền
gặp nhau vì cùng hoạt động văn hóa, quen dần nhau qua
mấy số báo Lửa Việt, “đồng ý cần có một tờ báo
của mình để viết cho sướng tay, để may ra đóng góp
được cái gì cho công việc chung” (nhận xét riêng của
Thanh Tâm Tuyền). Chúng tôi nhận hợp tác với nhật báo
Hòa Bình của anh Vũ Ngọc Các, làm trang Văn Nghệ hàng
tuần cho tờ báo này. Nhờ đó mà chúng tôi gặp thêm
bạn. Mai Thảo, người chúng tôi chưa hề quen biết, gửi
đến cho chúng tôi xấp bản thảo Ðêm Giã Từ Hà Nội
do anh sáng tác. Gặp Mai Thảo, anh em chúng tôi, đông thêm
nhiều người mới, với Quách Thoại, Thái Tuấn, Duy
Thanh, Ngọc Dũng, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Anh Tuấn, Cung
Tiến, Dương Nghiễm Mậu, Tô Thùy Yên. v.v& cho ra đời
tạp chí Sáng Tạo.”. Ông còn cho biết thêm sự
hình thành Tạp chí sáng Tạo chỉ là sự ngẫu nhiên của
các bạn văn chương, coi Sài Gòn là thủ đô văn hóa của
Việt Nam.
Trả
lời một cử tọa về vấn đề Tạp chí Sáng tạo có
nhận trợ cấp hay không, ông cho biết : Tạp chí
Sáng Tạo được tòa đại sứ Mỹ mua dài hạn, mỗi
tháng là 400 Đô la, và người quản trị là nhà văn Mai
Thảo và một người nữa nhận số tiền để lo việc in
ấn, chi phí cho tờ báo. Ngoài ra ông và những người
viết đều không nhận thù lao và không hề nghe bất cứ
một yêu cầu nên viết như thế nào. Cho nên ông
chắc chắn là Tạp chí Sáng tạo không có nhận viện trợ
từ Mỹ.
Diễn
giả tiếp theo là nhà văn, họa sĩ TRƯƠNG VŨ trong đề
tài:
Vai
trò của Sáng Tạo trong việc phát triển văn học Miền
Nam sau 1954
Nhà
văn, Họa sĩ Trương Vũ
Tiểu
sử: Tên thật Trương Hồng Sơn, Tiến Sĩ Khoa Học.
Tốt nghiệp Đại Học Sài Gòn, University of Pennsylvania, và
The George Washington University về toán, vật lý hạt nhân,
và kỹ sư điện trong kỹ thuật không gian. Dạy toán tại
Đại Học Duyên Hải Nha Trang trước 1975. Vượt biển và
định cư tại Hoa Kỳ từ 1976. Chuyên gia nghiên cứu cho
NASA từ 1980 cho đến khi nghỉ hưu, năm 2006.
Nguyên
đồng chủ biên tập san Việt học The Vietnam Review, đồng
chủ biên tuyển tập văn chương chiến tranh The Other Side
of Heaven (do Curbstone Press xuất bản, 1995), và chủ bút tạp
chí Đối Thoại (1994-1995). Hiện cư ngụ tại Maryland,
USA, chú tâm vào vẽ và viết.
Nhà
văn Trương Vũ cho rằng những ảnh hưởng của các biến
cố chính trị toàn cầu : (Hiệp định Geneve ( tháng7/54,
Đại hội CS lần thứ 20 của Nga, (2/56),chính phủ MN
tuyên bố ( Hoàng Sa , Trường Sa thuộc chủ quyền VN tháng
6/56) Thợ thuyền Ba lan biểu tình bạo động ( tháng 6) ,
Quốc hứu hóa kênh đào Suez (tháng &) tháng 10 cuộc
chiến ai cập Do Thái và Anh Pháp xảy ra...) đã ảnh hưởng
đến các tâm tư giới trí thức trẻ miền Nam đặc biệt
là thành phần mới di cư từ miển Bắc
Về
lãnh vực VHNTBC, miền Nam có một hụt hẫng rõ rệt: Báo
ĐỜI MỚI của nhóm Trần văn Ân , Hồ Hữu Tường,
Nguyễn Đức Quỳnh bị đóng cửa ( vì có liên hệ với
nhóm Bình Xuyên) , mà thật ra cũng không còn thích hợp
với những suy nghĩ mới của quần chúng. Vũ Anh Khanh thì
tập kết ra Bắc , Nhất Linh thì hoàn toàn im lặng...
Chảng có sinh hoạt hay sáng tácvăn học nào đáng kể.
Trong
bối cảnh ấy, tạp chí Sáng Tạo (ST) ra đời, khao khát
đưa nghệ thuật vươn tới trước.
Những
khuôn mặt chính của ST như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duy
Thanh, Ngọc Dũng Tô Thùy Yên , Doãn Quốc Sĩ v.v... đã tạo
một vị trí khá đặc biệt trog ăn học và nghệ thuật
ở Miền Nam.Duy Thanh , Ngọc Dũng đã tổ chức nhiều
cuộc triễn lãm hội họa
Mai
Thảo với Đêm Giã Từ Hà Nội.
Thanh
Tâm Tuyền với Tôi Không Còn Cô Độc xuất hiện như là
một hiện tượng của thi ca “đột ngột, vừa phũ phàng
vừa hấp dẫn.”
“…tôi
thèm giết tôi
loài
sát nhân muôn đời
tôi
gào tên tôi thảm thiết
thanh
tâm tuyền
bóp
cổ tôi chết gục
để
tôi được phục sinh…”
(TTT,
Phục sinh)
Doãn
Quốc Sĩ vốn là một nhà giáo , nhà văn nên thế giới
văn chương của ông đầy nhân hậu , quyết liệt với
cái xấu nhưng vô cùng độ lượng
Tô
Thùy Yên khác TTT, thơ tự do của ông ko khó hiểu ( hay ko
cố tình làm ra vẻ khó hiểu) ngang tàng cô đơn và rất
dễ len vào hồn người
“Tôi
mang hình hài những vết bỏng
Đi
suốt hoàng hôn không hỏi chào ai”
(
TTY, Tội đồ)
Quách
Thoại cũng là một tài hoa trong nhóm, thơ ông rất gần
với thơ cổ điển
“Ta
thức một đêm trắng
Tỏ
tình với trăng hoa
Ta
chết nằm liêu vắng
Không
bóng người đi qua”
(QT,
Liêu vắng)
Cách
xuất hiện của ST đầy màu sắc sáng tạo. Theo nhà văn
Võ Phiến : Cuộc " cách mạng " của ST như vậy
động chạm đến sự có mặt đầy uy tín của một dĩ
vãng : NHẤT LINH. Sau đó 2 năm , Nhất Linh "xuống núi
". Sáng Tạo được xem là nét đổi hướng của
VHMN. Lúc đó miền Bắc chứng kiến sự bùng nổ của
Nhân Văn Giai Phẩm.
Như
vậy , từ sự góp mặt của ST, miền Nam chứng kiến 2
vận động đối nghịch nhau, hai quan điểm , hai tâm tình
khác nhau của quần chúng thưởng ngoạn.
Sau
biến cố 75, ST có nhiều người ở tù và ở tù rất lâu
như DQS, TTY , TTT , đặc biệt họ vẫn tiếp tục sáng tác
ở trong tù, và sau đó...Điều đáng ghi nhận là văn
chương của họ không mang chút oán hờn nhỏ bé .
Kết
thúc cho bài nói mình, nhà văn Trương Vũ đã đặt một
câu hỏi: “ Đất nước chúng ta trải qua gần 40 năm
thanh bình (ở cái nghĩa không bắn giết nhau bằng súng
đạn) Qua thời gian dài đăng đảng ấy, văn học chúng
ta ở trong hay ngoài nước đã vượt đi tới chặng đường
nào???”
Người
kế tiếp lên diễn đàn để nói về đề tài:” Thanh
Tâm Tuyền, nhà thơ tiên phong” là nhà văn Ngự
Thuyết.
nhà
văn Ngự Thuyết
Tiểu
sử: Sinh tại Huế. Học tại Đà Lạt, Huế, Sài Gòn.
Nhập ngũ theo lệnh động viên, dạy học tại Trường
Sinh Ngữ Quân Đội, Sài Gòn, biệt phái làm việc cho Công
Ty Dầu Hỏa Esso, Sài Gòn. Tù cải tạo sau biến cố 1975.
Dạy học tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm Sài Gòn và các
Trung Tâm Sinh Ngữ khác.
Sau
khi định cư tại Nam California, Hoa Kỳ, cuối năm 1990, làm
việc cho cơ quan Tìm Việc Làm cho Người Tỵ Nạn. Và bắt
đầu viết, cộng tác với các tạp chí văn học như Văn
Học, Văn, Thế Kỷ 21, Chủ Đề... và các báo mạng Tiền
Vệ, Diễn Đàn Thế Kỷ, Da Màu.
Tác
phẩm đã xuất bản: Sóng Trôi, Đào Thoát, Lưu Đày
và Quê Nhà, Dấu Chân I, Dấu Chân II, Tuyển Tập Ngự
Thuyết, Bắc Hành và Những Truyện Khác.
Trước hết nhà văn
Ngự Thuyết giới thiệu tiểu sử Thanh Tâm Tuyền :”Thanh
Tâm Tuyền (TTT) tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày
13/3/1936 tại Vinh, Nghệ An, viết văn, làm thơ, thỉnh
thoảng viết về phê bình, và lý luận văn học khi
còn rất trẻ. Tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc
(TKCCĐ), xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn khi TTT mới 20
tuổi. Tám năm sau, năm 1964, Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm
Thấy (LĐMTTT) ra đời. Theo lệnh động viên, ông nhập
ngũ năm 1962. Sau khi Miền Nam mất năm 1975, ông ở tù
bảy năm dưới chế độ Cộng Sản. Năm 1990, theo
diện HO, ông sang định cư tại Hoa Kỳ, cho in tập thơ
cuối cùng, Thơ Ở Đâu Xa (TỞĐX). Ông qua đời ngày
22/3/2006 tại Minnesota , Hoa Kỳ”
Nhà
văn Ngự Thuyết cho rằng hai chữ “tiên phong” trong
bối cảnh Văn Học Việt Nam. “Nó không có nghĩa là
“avant-garde” như trong thuật ngữ tiếng Pháp, mà
là “xông xáo, đi trước” so với tính cách “dè
dặt, thủ cựu.” Từ năm 1954 đến năm 1975,
chỉ 21 năm, văn học Miền Nam phát triển rầm rộ,
nhanh chóng, nhất là thơ. Ngoài những nhà thơ đã
nổi tiếng từ thời tiền chiến như Vũ Hoàng
Chương, Đinh Hùng, rất nhiều nhà thơ lỗi lạc khác
chen nhau xuất hiện như Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Nguyên
Sa, Cung Trầm Tưởng, Du Tử Lê, Nhã Ca, Trần Dạ Từ
v.v., trong đó một khuôn mặt độc đáo nhất, mạnh
mẽ nhất, táo bạo nhất, cách tân nhất, đó là
Thanh Tâm Tuyền”.
Ông
đưa cử tọa trở lại với trích đoạn của bài Chim ,
mà ông cho rằng :”Nó hoàn toàn xa lạ. Nó không
phải là một tiếp nối quá khứ, mà là một đột
phá tận cùng, một đoạn tuyệt với truyền thống.
Xin trích đoạn đầu của bài thơ ấy:
“Đêm
giao thừa thế kỷ mưa rơi sao
mái
sáng đường nằm chiêm bao biển giận dỗi
bàn
tay mây mắt trăng môi nhiệt đới
chiến tranh còn
những khoảng đất hoang
cửa
sổ đập lên cao cánh chim én mùa xuân
ôm
vào lòng bãi cỏ vườn hoa bầy sao rụng”.”
Nhưng
tiếp theo sau Ngự Thuyết đã xoay qua một cách nhìn khác
về thơ TTT. : “ Nhưng thơ TTT có phải luôn luôn “xa
lạ” như thế hay không? Câu trả lời là không. Trái
lại là đằng khác.” Ông đưa ra 2 lý do:
Thứ
nhất, có nhiều đoạn, nhiều bài vô cùng giản dị,
không chút màu mè, không tô điểm, không tu từ, không
thể nào đơn giản hơn nữa, nằm rải rác trong cả
hai tập thơ đầu:“Nếu đã đi từ Hà Nội xuống
Hải Phòng hay sang Bắc Ninh/Nếu đã đi từ Sài Gòn
xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Dầu Một” (Bao Giờ)...
Thứ
hai, TTT không đả phá vần điệu. Nếu Thơ Lục Bát
luôn luôn gieo vần âm bằng, thơ 7 chữ, Thơ Mới
v.v...cũng thường gieo vần âm bằng, thì trong thơ TTT
vần và nhịp điệu hết sức đa dạng, sáng tạo,
kín đáo, bằng trắc đều có, và nhiều khi những
chữ vần được đặt cách xa nhau. Vần âm bằng
rất nhiều, âm trắc hoặc bằng trắc xen kẽ cũng
thường gặp, nhưng rất mới lạ, TTT còn cho bằng
vần với trắc như trong bài Tình Cờ chẳng hạn:
Hai
người yêu nhau rất tình cờ
như
trên cùng một toa xe lửa
tàu
chạy qua cầu nghe tiếng sắt và tiếng nước trôi
mau
nhìn
về đốm lửa yếu thành phố trên sông
thành
phố trẻ thơ tiêu điều ru dưới những bầu trời
xấu ...”
Theo
ông thơ TTT mở rộng ra nhiều lãnh vực của cuộc
sống. Ông đề cập đến tình yêu nam nữ; tình
bằng hữu; tình yêu quê hương, đất nước; những
khát vọng về tự do; những quan tâm đến cách
mạng, đến tình hình ở nhiều nơi trên thế giới,
đến những thành phố còn sống trong ngục tù Cộng
Sản; những ưu tư về thân phận con người, những
băn khoăn siêu hình; những truy lùng tiềm thức, vô
thức. Có thể nói rằng Thơ TTT là phối hợp của
Truyền Thống Dân Tộc và Chủ Nghĩa Hiện Đại
củaTây Phương.
Một
điều đáng chú ý là TTT không tả cảnh. Thiên nhiên
chỉ được nhắc đến rất vắn tắt khi cần minh
họa cho những dòng ý thức. Thời còn rất trẻ,
dưới 20 tuổi,TTT viết: “Tôi không ca ngợi tình yêu,
tôi nguyền rủa tình yêu (Nổi buồn trong thơ hôm
nay 1955). Đấy chẳng qua là cái sôi nổi, bồng bột
của tuổi trẻ.
Ở
tập thơ thứ hai Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy
tình yêu vẫn còn, khá tươi sáng, trong Bài Ca Ngợi
Tình Yêu:
Em
là lá biếc là mây cao là tiếng hát
sớm
mai khua thức nhiều nhớ thương
em
là cánh hoa là khói sóng
đêm
màu hồng
Nói
chung, Thơ TTT không dễ đọc.
Bài
Phục Sinh, bài thơ đầu tiên trong Tôi Không Còn Cô Độc
là một ví dụ của những dòng ý thức, của những
tra vấn, trăn trở về thân phận con người. Ta thử
xem khổ thứ nhất:
Tôi
buồn khóc như buồn nôn
ngoài
phố
nắng
thủy tinh
tôi
gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh
tâm tuyền
buổi
chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi
xin một chỗ quỳ thầm kín
cho
đứa trẻ linh hồn
sợ
chó dữ
con
chó đói không màu
tôi
buồn chết như buồn ngủ
dù
tôi đang đứng bên bờ sông
nước
đen sâu thao thức
Chữ
nghĩa mới lạ là một trong những đặc điểm nổi
bật của thơ ông.
Thơ
TTT, do đó, đòi hỏi sự tham gia của người đọc.
Sự tham gia ấy sẽ phát hiện ý nghĩa và giá trị
của văn bản. Về sau, khi cuộc chiến khốc liệt
vượt lên trên mọi nỗi băn khoăn, khắc khoải của
thời đại, Thơ TTT lại chuyển biến:
Ta
nhớ sau lưng núi thanh thản
Biếc
mây như lệ của đêm điên
Ta
nhớ rằng ta không nhớ nữa
Như
cây trơ trụi mùa hưu miên
Như
phiến gỗ nặng thả theo nước
Bập
bềnh trôi nổi ta về xuôi
Như
lau lách mọc chen bờ bãi
Phất phơ tóc
bạc lả theo trời
(Đỉnh
Non Xa, Giai PhẩmVăn 9/1974)
Ông
kết thúc bài nói chuyện bằng đánh giá :” Những đóng
góp của TTT cho văn học Việt Nam thật lớn lao. Ông
là nhà thơ tiên phong mở ra những chân trời
mới lạ cho thơ Việt Nam, mang lại nhiều khám phá
độc đáo, và đạt được những thành quả ít ai
sánh kịp. Trong thời kỳ cực thịnh của văn học
Việt Nam, TTT vượt lên như một trong những đỉnh cao
nhất. Có thể nói rằng TTT là một trong một số
ít nhà thơ lớn nhất không phải chỉ riêng đối
với Miền Nam mà cho cả nước”.
Nhà
văn Phùng Nguyễn là diễn giả kế tiếp với đề
tài:” Văn học Miền Nam 1954-75: Đường về gian
nan”.
Nhà
văn Phùng Nguyễn.
Tiểu
sử: Tên thật Nguyễn Đức Phùng. Lính Cộng hòa từ
năm 1968. Giải ngũ 1974 với cấp độ tàn phế 60%. Đến
Hoa Kỳ năm 1984.
Tốt
nghiệp Thạc sĩ Quản Trị Kinh Doanh và Tin Học (California
State University). Làm việc trong ngành tin học từ năm 1990
Bắt
đầu viết từ năm 1994, đã cộng tác với các tạp chí
Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21, VHNT Liên Mạng,
talawas.org, tienve.org, damau.org…
Chủ
bút tạp chí Hợp Lưu (năm 2002)
Chủ
trương tạp chí mạng Da Màu http://damau.org
(năm 2006) cùng với Đặng Thơ Thơ & Đỗ Lê Anhdao.
Nhà
văn Phùng Nguyễn kể lại việc đi thu thập tài liệu về
nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, ông mới chợt xót xa khi thấy
rằng những người xây dựng văn nghiệp của mình trong
giai đoạn 54-75, chưa có thì giờ để được đánh giá
một cách đầy đủ , thì đã bị chết tức tưởi vào
tháng Tư năm1975. Trong số những người này, có kẻ
không bao giờ có cơ hội cầm bút trở lại. Có những
người, sau khi ra tù cố gắng (một cách rất khó khăn)
để được trở lại với chữ nghĩa. Một số thoát
được ra ngoại quốc thì “ nguyên khí” đã bị tiêu
hao, đặc biệt là giới phê bình không còn bao nhiêu. Dù
về sau có một số trẻ tuổi tiếp tục công việc, nhưng
vẫn còn quá ít. Do đó việc nhìn lại các tác giả
, tác phẩm thời 54-75 là một việc rất khó khăn ở
hải ngoại. Trong nước, dĩ nhiên là không thể. Do
vậy, những người tha thiết đến nền VHMN, muốn vãn
hồi nền văn học bị bứ tử này đã có những công
trình lớn , nhỏ chẳng hạn như cuộc thảo luận hôm
nay. Ông nói:” Hơn thế nữa, họ còn mong muốn
nó được công khai trở về với tổ quốc, được đặt
vào một vị trí xứng đáng với tầm vóc của mình trong
dòng lịch sử của văn học dân tộc. Tuy nhiên, đường
về của VHMN 54-75 nói chung và của mỗi tác giả/tác phẩm
thuộc giai đoạn này nói riêng là con đường gian nan, đầy
những chông gai. Những chướng ngại trên con đường về,
theo tôi, trực tiếp hoặc gián tiếp đến từ chính
sách bôi nhọ, trù dập, khủng bố của chính
quyền CS trong nhiều thập kỷ qua. Trong bài nói chuyện
hôm nay, tôi xin phép điểm qua một số các chướng ngại
này cùng với các sự kiện văn học có liên quan đến
chúng.”.
Ông
đánh giá CS VN đã cố triệt tiêu các nền văn học
“không Cộng sản” để dòng văn học miền Bắc (dòng
văn học cách mạng) đương nhiên trở thành dòng văn học
chính thống của cả nước. Với tư thế múa gậy vườn
hoang, mặc cảm tự tôn đã trở thành tâm lý chung của
những người làm văn học “ chính thống”.Ai cũng nhận
thấy điều ấy, nhất là những người gốc gác miền
Nam . Ông đã nghe từ họ những cụm từ “ thú vị” để
diễn tả “ hội chứng “ này:
1.
“Dĩ Bắc vi trung (tâm)” và
2.
một cách rắc rối hơn, “Bắc kỳ Chủ nghĩa”
Trong
tiểu mục Xung đột của những thế giới bịa đặt nhà
văn Phùng Nguyễn tố cáo sự hủy diệt VHMN không phải
có sau 1975 mà nó đã xảy ra từ thập niên 50. Ông kể
lại việc nhà thơ trong nước , mới gần đây , đã mời
nhà văn Nhật Tiến ( và một số cây bút của VHMN ở hải
ngoại) tham gia trên trang mạng của họ tiết mu5cmo71i có
tên là :” Văn học Đô thị miền Nam 1954-1975”.
Nhà văn Nhật Tiến đã phản ứng một cách mạnh
mẽ.(Trích điện thư trả lời của Nhật Tiến: “…Qua
cái từ ngữ được quý anh sử dụng “Văn Học Đô thị
Miền Nam”, chúng tôi như đã bị đánh thức dậy bởi
cái mùi vị khinh bỉ, miệt thị, kể cả những hận thù
do chính rất nhiều thành phần có tính cách văn hóa đến
từ miền Bắc mang lại…”).
Nhà
văn Phùng Nguyễn cũng chỉ ra một số sách trong nước đã
bôi nhọ, xuyên tạc nền VHMN như:
·
Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế
độ Mỹ ngụy – nhiều tác giả, NXB Văn hóa Hà Nội,
tập I,1977.
·
Nọc độc văn học thực dân mới Mỹ –
Trần Trọng Đăng Đàn, NXB TP. HCM, 1983.
·
Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng
của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam- Lữ Phương,
NXB Văn hóa, Hà Nội, (lần 1, 1981), (lần 2, 1985).
·
Những tên biệt kích của chủ nghĩa
thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng – Nhiều
tác giả, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1980.
Ông
nói thêm về vụ giữa Văn đoàn Độc lập
trong mước và nhà văn Nhật Tiến như sau để kết thúc
bài thuyết trình: “Xin nói thêm là vđ Độc lập sau đó
đã phản ứng một cách tích cực, hai chữ “Đô thị”
trong mục “Văn học Đô thị miền Nam” được gỡ bỏ
để chính thức trở thành “Văn học miền Nam 1954-1975”
trên trang mạng của văn đoàn này. Đây là một điều
đáng khích lệ, nhưng một con én khó làm thành cùa Xuân.
Ảnh hưởng tiêu cực của chính sách bôi nhọ VHMN của
nhà nước CS, cho đến nay, vẫn xuất hiện nhan nhản
trong các sinh hoạt văn hóa và giáo dục trong nước. “.
Diễn
giả cuối cùng của cuộc hội thảo là nhà văn TRANGĐÀI
GLASSEY-TRẦNGUYỄN
Đề tài: 40 năm Văn Học Miền Nam Thất Thủ: Thế hệ Hậu Chiến khước từ Thân phận mồ côi
Đề tài: 40 năm Văn Học Miền Nam Thất Thủ: Thế hệ Hậu Chiến khước từ Thân phận mồ côi
Nhà
văn Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Tiểu
sử: Trangđài Glassey-Trầnguyễn, một chuyên gia nghiên
cứu về Cộng đồng người Việt hải ngoại, là học
giả duy nhất trên thế giới đã thực hiện hàng trăm
cuộc phỏng vấn lịch sử truyền khẩu với người Việt
ở cả bốn châu lục: Á, u, Úc, và Mỹ. Một tác giả
song ngữ đoạt nhiều giải thưởng, Trangđài tiên phong
ghi lại lịch sử của người Việt tại Quận Cam qua Dự
án Vietnamese American Project từ thập niên 1990 bằng chính
student loans của mình, và đoạt giải quán quân tại cuộc
tranh tài nghiên cứu của CSU năm 2004 với bài viết “Quận
Cam, Sử Vàng.” Cô là người Việt duy nhất được Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ cấp học bổng Fulbright tòan phần, bậc
tối ưu, để nghiên cứu về người Việt tại Thụy
Điển. Cô tốt nghiệp 4 cử nhân cùng lúc, là thủ khoa 2
ngành và cũng tốt nghiệp cao học Sử Học với hai giải
thủ khoa tại CSUF. Trangđài tốt nghiệp Cao học ngành
Nhân chủng học tại Đại học Stanford, và hiện đang
hoàn tất chương trình tiến sĩ.
Nhà
văn Trangđài Glassey-Trầnguyễn (TGT) là người thực hiện
việc nghiên cứu về người Việt hải ngoại từ đầu
thập niên 90s. Bà cho biết phần trình bày của bà mang
tính bắc cầu, không thuần tuý chỉ nói về giai đoạn
văn học hai-mươi-mốt-năm này, mà hướng tới ảnh hưởng
của nó đối với những thế hệ sáng tác sau đó tại
hải ngoại. Bà sẽ bàn đến căn tính di dân và căn tính
sắc tộc của người Việt. Vì không có đủ tài liệu
để tham khảo nên bà tin tưởng sẽ có một thư khố
VHMN và bà sẽ bổ túc cho phần nghiên cứu, trích dẫn.
Bài
thuyết trình của nhà văn TGT có 4 phần:
1-
40 năm Văn học miền Nam thất thủ từ cái nhìn của thế
hệ hậu chiến
2-
Một số hệ quả văn học và ngôn ngữ đối với thế
hệ hậu chiến;
3-
Chúng tôi từng mồ côi, nhưng không chấp nhận mồ côi;
4-
Đưa ra một vài gợi ý về căn tính sắc tộc trong sáng
tác của những thế hệ ngoại biên, nhất là tương quan
của họ với tiếng Mẹ đẻ trong quá trình sáng tạo.
1-
40 năm Văn học miền Nam thất thủ từ cái nhìn của thế
hệ hậu chiến: Nhà văn TGT gọi nền văn học
miền Nam 1954-1975 là nền văn học thất thủ. TGT giả
thích:
“
Thất thủ
không có nghĩa là bị huỷ diệt, mà ngược lại, chính
trong sự bức chế đó, mà những mầm sống mới vượt
lên, một mùa văn học mới đâm chồi, nẩy lộc.Cho nên
hai chữ ‘thất thủ' chính là tiền đề cho một cuộc
đổi đời, một khởi đi tang thương nhưng trên một lộ
trình nhiều hy vọng và vận hội. Đâu là những vận
hội? Tôi xin nhắc qua khía cạnh văn hóa. Cộng đồng
chúng ta may mắn đã đến Mỹ trong một thời điểm thuận
lợi cho việc duy trì văn hoá và ngôn ngữ gốc. 50 năm
trước đó, người dân thiểu số ở Mỹ, chẳng hạn như
người Nhật, không có quyền sở hữu bất động sản và
không được nói tiếng mẹ đẻ. Ngay cả trẻ em gốc Mễ
Tây Cơ cũng bị phạt khi nói tiếng Tây Ban Nha tại
trường. Nhờ phong trào tranh đấu dân quyền của thập
niên 50s, 60s, và nhờ vào trào lưu đa văn hoá (dù có
những giới hạn của nó), mà khi người Việt tỵ nạn
đặt chân đến Mỹ, chúng ta có nhiều ưu đãi so với
các sắc dân thiểu số khác khi họ mới định cư tại
Hoa Kỳ trước đó. Chẳng hạn như ngay từ những ngày
đầu, học sinh Việt Nam được hướng dẫn song ngữ
trong các lớp học, vân vân.”.
Bà
dẫn chứng theo chiều dài lịch sử thì dân Việt đã có
căn tính di dân từ lâu, nhưng nó chỉ phạm vi trong nước,
nên năm 1975, căn tính di dân của người Việt mang một ý
nghĩa mới, vì người Việt đã thực sự lưu vong. Thực
sự mất quê hương, văn hoá Việt trở thành văn hoá di
dân, văn hoá sắc tộc, văn hoá thiểu số, phải chịu sự
chi phối của văn hoá chính ở đất nước tạm dung.
Trong bối cảnh lịch sử Việt Nam cận đại, nếu chúng
ta nhìn vào năm 1954 và 1968 như là khởi điểm cho cuộc
xuất hành năm 1975, thì có một sự tiếp nối của căn
tính di dân khởi đi từ giữa thế kỷ hai mươi từ trong
nước, và mở rộng ra thế giới năm 1975. Vì sự tiếp
nối này, nền văn học miền Nam 1954-1975 là điểm bắt
đầu cần thiết cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về
người Việt hải ngoại.
Bà
so sánh nỗi đau đớn chia lìa Hà nội của Phượng trong
Đêm giã từ Hà nội của Mai Thảo ,nhưng ra đi với tâm
trạng đầy hy vọng, đi về vùng sáng, đi về miền tự
do, thì người Việt ly hương năm 1975 đã ra đi - vẫn đi
tìm tự do - nhưng với tâm trạng ly hương, mất mát khôn
cùng. Khi người Việt rời miền Nam để đi vào thế
giới, thì tuy họ cũng đi tìm “một chân trời có không
khí và ánh sáng,” nhưng nỗi đau chia lìa quê hương đã
phủ lấp bất cứ một vùng ánh sáng nào.
2-
Một số hệ quả văn học và ngôn ngữ đối với thế
hệ hậu chiến:
Lấy
những bất hạnh của đời mình để minh chứng, TGT sanh
ra mới bốn tuần, mẹ bà bị điều đi về vùng kinh tế
mới để dạy học, còn ba của bà đã đi cải tạo mấy
tháng trước đó. Bà bùi ngùi kể:” Chuyện tôi
chào đời không cha là chuyện tôi biết từ nhỏ, vì tôi
cũng lớn lên không cha đến năm 19 tuổi. Nhưng chuyện mà
tôi là một đứa trẻ sơ sinh không mẹ là chuyện làm
tôi ngạc nhiên và phẫn nộ. Đối với tôi, một đứa
trẻ có quyền được ở bên mẹ nó khi mới chào đời.
Mẹ tôi phải dứt sữa tôi khi tôi chưa được đầy
tháng. Có lẽ đó là một trong những lý do mà trong cả
cuộc đời, tôi luôn cảm thấy một lỗ trống trong tâm
tư, dù tôi cảm kích tình thương và sự hy sinh mà mẹ
tôi dành cho chị em chúng tôi, và cả con cái chúng tôi
nữa. Tôi không chỉ bị dứt sữa cách oan ức lúc chưa
đầy tháng, mà quan trọng hơn hết, tôi bị tước đoạt
cái quyền của một đứa bé được mẹ ôm ẵm, vỗ về,
nâng niu, chăm sóc khi còn đỏ hỏn.”.
Thời
trẻ bà cũng đã học trong chương trình cải cách nhồi
sọ của văn học sau 75. Do đó, về mặt ngôn ngữ,
thế hệ hậu chiến không chỉ phải ăn bo bo, mà còn phải
ăn cả khoai mì độc. Mà vì nền văn học miền Nam đã
thất thủ và đã đi lưu vong, nên những thế hệ hậu
chiến hoàn toàn mù tịt về nền văn học đó, và không
biết rằng, mình đang sử dụng một thứ tiếng Việt đã
bị nhiễm độc và nhồi sọ. Cho ra hải ngoại, bà
mới tiếp cận được những tác phẩm của VHMN.
Nhà
văn TGT cho biết :”Trong một bài nghiên cứu chuyên đề,
tôi đã lập luận rằng nền văn học (và nghệ thuật)
theo chủ đề tỵ nạn và di dân ở hải ngoại được
xây dựng trên bệ phóng vững vàng của nền văn học
miền Nam 1954-1975. Khi đọc “Đêm Giã Từ Hà Nội” của
nhà văn Mai Thảo, tôi nhận ra rằng, tác giả đã là
người tỵ nạn, đã ly hương trước khi ông rời Hà Nội.
Cái quyết định ra đi vốn dĩ đã là một sự cách ngăn
lớn lao, dù chỉ đi về phương Nam, vẫn còn thuộc về
mảnh đất Việt Nam, nhưng là “vùng ánh sáng, miền tự
do.” Đọc “Giải Khăn Sô cho Huế” của nhà văn Nhã
Ca, thì rõ ràng, sự bất an và bất định trong đời sống
của người dân thời loạn đã biến đời sống hằng
ngày thành đời sống tỵ nạn với những dời đổi,
sống chết, còn mất của nó.”.
3-
Chúng tôi đã từng mồ côi, nhưng không chấp nhận mồ
côi:
Cử
tọa đã vỗ tay thật nhiều khi nghe nhà văn Trangđài nói
với một giọng hùng hồn và đầy xúc động :
” Thế
hệ chúng tôi sinh ra mồ côi, vì cha thì đi cải tạo, mẹ
thì đi kinh tế mới, văn học thì bị chôn sống. Nhưng
sau bốn thập niên, chúng tôi đã đoàn tụ với cha mẹ,
đã truy ra được những manh mối để đòi lại di sản
văn học mà chúng tôi bị tịch thu. Chúng tôi khước từ
làm kẻ mồ côi trong gia đình chữ nghĩa của Việt Nam và
của thế giới. “.
Trangđài
tiếp:
“Tôi
may mắn được sống nửa cuộc đời ở Việt Nam
và nửa cuộc đời ở Mỹ. Nhưng tôi không may mắn
khi rơi vào lớp đầu tiên trong chương trình cải
cách giáo dục của chính quyền hậu 1975. Như đã
nói, điều này cũng có nghĩa là tôi biết rất ít
hoặc không biết gì về nền văn học của miền Nam
trong giai đoạn trước khi tôi chào đời. Trong bài
nói ngắn này, tôi sẽ không nói đến những người
trẻ cầm bút viết bằng Tiếng Việt. Tôi nghĩ, ở
nhiều cách, cái quan hệ huyết thống giữa những
thế hệ sáng tác trước 1975 tại miền Nam và
những thế hệ ngoại biên tại hải ngoại sáng tác
bằng Việt ngữ đã là điều rõ ràng. Ở đây, tôi
xin mạo hiểm và nhìn vào thế hệ gốc Việt sáng
tác bằng Anh ngữ là chính, và nhận định rằng,
cho dù họ không trực tiếp thừa hưởng nền văn
học miền Nam 1954-1975, thì họ vẫn chịu ảnh hưởng
của nền văn học này qua chính kinh nghiệm sống và
môi trường cộng đồng.”
Nhà
văn Trangđài đưa ra một số lý do để giải thích
nhận định trên: Một điều hiển nhiên là nền văn
học miền Nam trước 1975 chính là nền tảng vững
vàng cho văn học và truyền thông Việt ngữ tại hải
ngoại trong suốt 40 năm qua. Bà thiết tha muốn
nhận cái di sản từ giai đoạn văn học này vì bà
cho rằng nếu không có được di sản này, thế hệ
của bà và các thế hệ sau sẽ là những cái cây
không có rễ, với những cái gốc ghép nối từ
giống toàn cầu hay địa phương mà thiếu đi cái
căn tính Việt. Thêm vào đó, nền văn học miền Nam là
nguồn tư tưởng và ngôn ngữ gần nhất đối với thế
hệ hậu chiến về mặt thời gian, và có thể trực tiếp
khai mở cho thế hệ sau về xã hội miền Nam về những
thế hệ ngay trước. Đây là nhịp cầu cần thiết để
các thế hệ sau biết về quá khứ của cộng đồng
và gia đình, hiểu thêm mình đã đến từ đâu và đến
như thế nào. Việc hiểu về lịch sử cá nhân và cộng
đồng có ảnh hưởng quan trọng đối với nhân diện và
tâm lý của một người.
Bà
nhắc đến tác phẩm "Bụi và Rác," của nhà
văn Nguyễn Xuân Hoàng đã ghi lại những cái vi tế
trong cuộc thảm sát chữ nghĩa, mà bà cho rằng là
một cuộc cải cách không tên được thực hiện
rốt ráo ngay từ sau ngày Hồng quân Bắc Việt tiến
chiếm miền Nam.. Tiếng Việt đã bị nô lệ hóa
và bần cùng hóa, để những thế hệ hậu chiến
không chỉ còi cọt về thể chất vì ăn độn bo bo,
mà còm cõi vật vờ về chữ nghĩa vì bị trúng
độc. Khổ nỗi, chính thế hệ này không biết mình
trúng độc, cho đến khi không còn sống trong môi
trường nhiễm độc nữa. Để giải độc, phải ý
thức và chấp nhận cắt bỏ những phần cơ thể
bị trúng độc của mình, như một người bị ung thư
phải giải phẫu để bỏ đi những gì đã bị hư
thối.
Bà
cũng đưa ra vài ví dụ cụ thể về những em thuộc thế
hệ thứ 2 đã tiếp nối di sản VHMN.
4-
Vài gợi ý về căn tính sắc tộc trong sáng tác của
những thế hệ ngoại biên, nhất là tương quan của họ
với tiếng Mẹ đẻ trong quá trình sáng tạo:
Trong
phần này Trangđài đã bằng vào thực chứng trước sự
giới hạn của ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Việt của
các em sinh ở hải ngoại và cả tiếng của nước mới
định cư cho các em vừa mới đến, để mô tả những
khó khăn trong việc kế tục nền VHMN. Tuy nhiên bằng vào
thành tựu của những em trong địa hạt văn chương và cả
những lãnh vực khác như âm nhạc, hội họa , bà đề
nghị: “ Để nền văn học tiếng Việt hải ngoại thực
sự thăng hoa, thì các thế hệ cầm bút hậu 1975 cần
nhận được di sản từ nền văn học trước 1975 để
tiếp tục sáng tạo bằng tiếng mẹ đẻ, để họ nhận
chân được nền tảng của những sinh hoạt mà họ vẫn
tham gia một cách thấu đáo và có hệ thống. Muốn có
một văn khố lưu giữ tinh hoa nền văn học miền Nam
trước 1975, thì chỉ những ‘người trong cuộc' mới làm
công việc này đến nơi đến chốn. Giới trẻ cầm bút
tại hải ngoại có bắt được nhịp cầu với quá khứ
để tiếp tục bồi thố cho văn chương Việt trong thế
kỷ 21 trên thế giới hay không, còn tuỳ thuộc vào những
thừa kế văn chương cụ thể mà họ nhận được từ
thế hệ đi trước. Xin hãy trao Văn Học Miền Nam cho Giới
Trẻ Việt Nam toàn cầu.”.
Trong
phần thảo luận với nhà văn Trangđài khá sôi nổi khi
có một cử tọa đưa ra hai vấn đề:
1/
Xin so sánh căn tính di dân cùa người Việt và căn
tính di dân của người Do Thái. Có gì tương đồng và dị
biệt.
2/
Những nhà văn trẻ gốc Việt Nam đang và sẽ viết bằng
một thứ ngôn ngữ khác thì tác phẩm của họ có thuộc
nền văn chương Việt ?
Sau
phần thuyết trình của nhà văn Trangđài Glassey-Trầnguyễn
, nhà văn Bùi Bích Hà tóm lược và tổng kết cá
bài nói chuyện của các diễn giả trong phần bà là
chủ tọa.
Tiếp
theo là nhà báo , nhà văn Phan Tấn Hải với tư cách
là chủ bút Việt Báo lên tuyên bố bế mạc cuộc hội
thảo. Ông đã cảm ơn ban tổ chức , cử tọa tham dự và
nhất là các diễn giả đã giúp cho ông được hiểu biết
nhiều hơn về 20 năm VHMN.
Vài
ý kiến, đề nghị cho cuộc hội thảo:
Trước
hết, người ghi chép rất hoan nghênh cuộc hội thảo lớn
lao chưa từng có này. Đây là một sự kiện lớn về văn
học trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Đây là
sự biểu tỏ lòng tha thiết đối với nền VHMN ,
một nền văn học nếu bỏ đi thì có thể nói rằng nền
văn học Việt Nam sẽ có một lỗ hổng từ 1954 đến
1975.
Mười
sáu diễn giả , có người từ thật xa như Úc, Canada hay
các tiểu bang miền Đông Hoa Kỳ và những người ở gần
khu Little Sài Gòn, đã hội tụ về đây chỉ vì tấm lòng
đối với văn chương chữ nghĩa.
Trong
hai ngày 6 và 7 /12/14 ở hai hội trường Người Việt và
Việt Báo, ngày nào cử tọa cũng đông nghẹt chăm chú
theo dõi thuyết trình đến hết giờ, chứng tỏ cuộc hội
thảo có sự thu hút mạnh mẽ. Quả là một điểm son,
một nén hương, một ngọn lửa. Một điểm son cho cộng
đồng Việt hải ngoại. Một nén hương để nhớ đến
công lao của bao nhà văn nhà thơ, nhà văn hóa đã khuất,
nhất là những văn nghệ sĩ đã bị CS giết chóc , tù
đày. Một ngọn lửa đốt lên để dẫn đường cho các
thế hệ sau tiếp bước.
Người
ghi chép xin có một đề nghị. Trong tương lai cố gắng
tiếp tục mở thêm những cuộc hội thảo, lớn hay nhỏ
là tùy theo hoàn cảnh, nhưng nên giới hạn chủ đề.
Chẳng hạn như chỉ về một khuynh hướng sáng tác hay
về một tạp chí, một tác giả…. Như vậy (theo
chủ quan) để diễn giả và người nghe cùng có thời
gian thảo luận, đi sâu vào chủ đề hơn.
Cuối
cùng, trong bài ghi chép cuộc hội thảo này chắc chắn
cũng có những sai sót. Xin độc giả, nhất là quý diễn
giả vui lòng đánh chữ đại xá cho.
Đặng
Phú Phong
.
----------------------------
.
HỘI
THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
.
Trịnh
Thanh Thủy Tuesday,
December 09. 2014 11:30:49AM
.
Đặng
Phú Phong Cập nhật: 08/12/2014 12:19
.
Du
Tử Lê
07/17/2012 06:07 PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Phạm
Quốc Bảo Wednesday, December 03, 2014 6:20:29PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhì)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Monday,
December 08, 2014 6:51:41PM
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhất)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Saturday,
December 6, 2014 8:19:21PM
VIDEO
: Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam, 1954 – 1975 (ngày
thứ nhất)
.
.
Việt
Báo 03/12/201400:05:00
.
Nguyễn
Hưng Quốc 03.12.2014
.
Ðinh
Quang Anh Thái/Người Việt Tuesday, December 02, 2014 7:25:10PM
.
Người
Việt Books tái bản, 2014
Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm 2014
.
Nguyễn
Hưng Quốc Thứ Bảy, ngày 29 tháng 11
năm 2014
.
Đinh
Quang Anh Thái/Người Việt (thực hiện) Wednesday, November
26, 2014 3:00:42 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=198831&zoneid=1#.VHaKPcm8OKE
.
.
Tiểu
Muội (thực hiện) Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11 năm
2014
.
Phỏng
vấn nhà văn Trịnh
Thanh Thủy về Văn Học Miền Nam 1954 – 1975
Kalynh
Ngô/Người Việt (thực hiện) 22.11.2014
.
No comments:
Post a Comment